Bên Gịng Lịch Sử­ 1940-1965

 

- P7 -

 

Lm. Cao Văn Luận

 

 

32 Từ Nữu Ước trở lại Ba-Lê

 

Sau đại hội sinh viên Việt Nam du học ở Mỹ được ít lâu tôi lên Nữu Ước cùng với cha Jacques Houssa, và vẫn trọ lại mấy hôm tại nhà ḍng các bà phước ở New Jersey. Những người quen ở Nữu Ước đến thăm và tiễn biệt tôi, cha Houssa tiễn đưa tôi đến phi trường Nữu Ước và không quên căn dặn tôi tiếp tục lo cho sinh viên du học. Bây giờ cha ở Mỹ đă lâu, quen biết nhiều, cho nên có thể xin được nhiều học bổng cho sinh viên Việt Nam, hơn nữa dư luận Mỹ bắt đầu thiện cảm đối với Việt Nam nhiều hơn trước.

 

Tôi đến Ba-Lê th́ có Trần Hữu Phương ra đón. Câu nói đầu tiên của ông Phương là một lời báo hung tin. Giọng Phương nghẹn ngào:

 

- Thưa cha, Cảnh mất rồi.

 

Tôi lặng người một lúc. Đặng Vũ Cảnh người Hà Nội, là một thanh niên thông minh, ưu tú, đầy hứa hẹn mà tôi coi như một đứa em thân thiết. Xác Cảnh đang quàng tại nhà thương. Tôi đến viếng xác ngay, và đứng chủ tang, làm lễ đưa xác cho Cảnh. Một số đông anh em Việt kiều, sinh viên tại Pháp bùi ngùi đi đưa đám Cảnh.

 

Cái chết là một chuyện thường t́nh, ai cũng biết là không thể tránh được, nhưng cái chết của một người trẻ tuổi đă có nỗi bi đát của nó. Cái chết của một người Việt Nam trẻ tuổi ở nước ngoài lại càng bi đát hơn. Nhân đám tang, một số Việt kiều và sinh viên đă gặp tôi, và không quên hỏi sơ qua về kết quả chuyến đi Mỹ của tôi.

 

Tôi tường thuật những hoạt động của các sinh viên ở Mỹ, chiều hướng dư luận Mỹ, và kết luận rằng phải cố gắng thuyết phục cụ Diệm nên về chấp chánh ngay trong lúc này.

 

Vài hôm sau, tôi đến gặp ông Diệm, lúc đó vẫn c̣n ở trong nhà Tôn Thất Cẩn. Ông Diệm cho tôi biết ông đă xuống Cannes gặp Bảo Đại. Ông Diệm có vẻ buồn, kể lại chuyến gặp gỡ Bảo Đại ở Cannes.

 

Bảo Đại ở biệt thự hè sang trọng, ngày th́ trượt nước, đêm th́ vào ṣng bạc, Nam Phương Hoàng Hậu không ở cùng với Bảo Đại mà chỉ có thứ phi Mộng Điệp đi theo ông. Tôi có cảm tưởng rằng Nam Phương Hoàng Hậu là một người đàn bà đức hạnh đă không tán thành cuộc sống của Bảo Đại.

 

Trong thời gian Bảo Đại về nước, Nam Phương Hoàng Hậu cũng đă không theo về, và đó là một điều đă gây nên nhiều dị nghị không có lợi ǵ cho Bảo Đại. Lúc ở Đà Lạt Bảo Đại chỉ sống với Mộng Điệp một cách bán chính thức. Mộng Điệp có một biệt thự riêng gần Lycée Yersin, tức là cuối thành phố Đà Lạt, c̣n Bảo Đại th́ vẫn ở đầu kia thành phố.

 

Lúc th́ Bảo Đại đến Mộng Điệp, khi th́ Mộng Điệp đến biệt điện gặp Bảo Đại. Nhưng ở Cannes hai người sống hẳn với nhau trong biệt thự hè.

 

Ông Diệm mô tả con người Bảo Đại lúc này với một câu nói vắn tắt: uể oải mệt mỏi. Tôi lại nhớ đến dáng điệu Bảo Đại lần gặp ở Đà Lạt, và tôi mường tượng như thấy Bảo Đại lúc tiếp ông Diệm cũng choài người ra trên ghế bành, như người không xương sống.

 

Lắm lúc chỉ một lời nói, một cử chỉ vụng về mà mối giao t́nh giữa quân vương và thần tử có thể tan vỡ. Tôi nhớ những câu chuyện xưa, lúc một ông vua tiếp một khanh sĩ, đang ăn nhổ cơm, đang rửa chân chải đầu th́ quên xỏ dép chải tóc, để ra tận cửa đón khanh sĩ.

 

Chắc chắn là Bảo Đại không bao giờ có được phong độ đăi hiền tiếp sĩ như vậy, thành ra không lạ ǵ khi quanh Bảo Đại không có hiền thần lương tướng.

 

Ông Diệm cho tôi biết rằng trong câu chuyện, Bảo Đại có đề cập sơ sơ, một cách chiếu lệ về cái ư mời ông về chấp chánh. Bảo Đại không hề chính thức mời cũng không tỏ ra vẻ ǵ tha thiết ân cần đối với việc ông Diệm về chấp chánh.

 

Ông Diệm cho như thế là chưa được thuận tiện. Tôi hiểu ư ông là Bảo Đại và người Pháp chưa đủ tin ông để giao cho ông nhiều quyền hành. Quanh ông Diệm và quanh Cao ủy Pháp vẫn c̣n một số người Việt Nam mà ông Diệm cho là không tốt, không hợp với ông vẫn được trọng dụng.

 

Lúc này h́nh như Bảo Đại đă nghĩ đến việc đem Bửu Lộc ra lập chính phủ thay thế chính phủ Nguyễn Văn Tâm, một phần để làm hài long người Pháp, một phần để thỏa măn những đ̣i hỏi âm thầm của dân chúng Việt Nam. Người Pháp tuy hài ḷng về sự trung thành và ngoan ngoăn của cha con Nguyễn Văn Tâm và thuộc hạ, nhưng vẫn muốn có một chính phủ có cái dáng nhân dân một chút. Những ông công dân Tây, mang tên Tây chắc là không tạo được cái dáng nhân dân cho một chính phủ. Bửu Lộc ít ra có thể làm hài ḷng nhóm hoàng phái và một số trí thức.

 

Ông Diệm kết luận rằng ông không thể về chấp chánh được, v́ những điều kiện ông đưa ra bị Bảo Đại để ngoài tai. Thực t́nh th́ Bảo Đại chẳng đủ can đảm để từ chối bất cứ điều ǵ, nhưng ngược lại ông không đủ cứng rắn quyết tâm để quyết liệt làm một cái ǵ. Những điều kiện của ông Diệm rất giản dị: được toàn quyền điều hành chính phủ Việt Nam, đối phó trực tiếp với người Pháp dĩ nhiên vẫn nhân danh Bảo Đại. Ư ông Diệm là muốn Bảo Đại đừng có trực tiếp hay gián tiếp (qua Nguyễn Đệ) xen lấn ǵ vào nội bộ chính quyền Việt Nam.

 

Ông Diệm thấy cần phải cải tổ hoàn toàn bộ máy hành chánh và quân đội, làm cho quyền hành Việt Nam mạnh thêm thoát dần khỏi sự lệ thuộc vào quân đội và Phủ Cao ủy Pháp. Ông Diệm cũng mong Bảo Đại đặt một số điều kiện cứng rắn dứt khoát với người Pháp trước khi ông về chấp chánh. Dĩ nhiên là Bảo Đại không muốn mệt đến người, cho rằng những điều mà ông Diệm coi như cần thiết chẳng quan trọng chi cả.

 

Ông Diệm đă từ chối. Ông đưa cho tôi một bức thư theo mật mă, gởi ông Nhu.

 

Ông nói sơ lược cho tôi biết nội dung bức thư căn dặn ông Nhu và ông Cẩn bên nước nhà hăy tiếp tục tăng cường các hoạt động chính trị, củng cố tổ chức đảng, thu phục thêm đảng viên, lôi cuốn thêm nhân tài, chuẩn bị không khí chính trị. Ông nói là tuy lúc này ông chưa thể về chấp chánh trong những điều kiện chưa thuận tiện; nhưng nếu bên nước nhà có một phong trào nhân dân mạnh mẽ đ̣i hỏi ông Diệm về chấp chánh, th́ Bảo Đại và Pháp phải chấp nhận những điều kiện của ông Diệm.

 

Nếu phong trào nhân dân sớm phát khởi cùng với t́nh h́nh quân sự càng ngày thất lợi cho Pháp, th́ chỉ trong ṿng vài tháng nữa ông Diệm có thể được long trọng về nước.

 

Ông cho biết trong lúc chờ đợi cơ hội thuận tiện, ông sẽ đi tĩnh tâm ở một nhà ḍng Benedictin bên Bỉ.

 

Tôi về Sài G̣n bằng máy bay, đến gặp ông Nhu ngay, lúc này đang ở Sài G̣n, và bắt đầu xuất bản một tờ tạp chí chính trị: tờ Xă Hội. Ghé Sài G̣n vài hôm tôi ra Huế ngay. Trong câu chuyện với ông Nhu tôi cũng chỉ nói qua về những nhận xét và cảm tưởng của tôi.

 

Ông Nhu giọng đầy tin tưởng cho tôi hay rằng càng ngày dân chúng càng bất măn với người Pháp, với Bảo Đại và thêm nhiều thiện cảm với ông Diệm. Theo lời ông Nhu th́ đa số những trí thức trẻ, có tinh thần yêu nước đều hướng về ông Diệm. Tuy nhiên tại miền Nam, ngoài khu vực Vĩnh Long th́ sự ủng hộ của quần chúng chưa được mạnh lắm.

 

Ông Nhu không chính thức lập đảng vào lúc bấy giờ, nhưng bên trong h́nh thức một đảng chính trị, với đầy đủ các chi bộ, phân bộ, lư thuyết. Tài liệu học tập huấn luyện đă thành h́nh rơ rệt rồi.

 

Tôi về Huế, cũng đến thăm ông Cẩn. Ông Cẩn nôn nóng nghe tôi kể những cuộc tiếp xúc giữa tôi và ông Diệm, than phiền v́ ông Diệm quá dè dặt không về nước lúc này.

 

Ông Cẩn đă quy tụ một số đông cán bộ, phần lớn là những người hăng say, cuồng nhiệt, có thể nói là hơi quá khích. Ông Cẩn chịu ảnh hưởng tinh thần của các thuộc hạ, muốn rằng ông Diệm về nước ngay lúc này rồi những điều kiện chưa thuận tiện th́ sẽ tạo lấy sau.

 

Tôi có phần đồng ư với ông Cẩn, v́ tôi sợ rằng đến một lúc nào đó t́nh h́nh chiến sự quá bất lợi cho Pháp, sẽ làm cho người Pháp nghĩ đến việc thanh toán chiến tranh bằng mọi giá mà không nghĩ ǵ đến một giải pháp quốc gia để đối đầu với Việt Minh.

 

Thời gian chưa chắc ǵ đă có lợi cho ông Diệm. Vả lại làm chính trị mà cứ đ̣i cho được tất cả những điều kiện thuận lợi nhất được hội đủ mới nhập cuộc, th́ khó mà làm được v́ chẳng mấy khi có những điều kiện lư tưởng như thế.

 

 

33 Ông Diệm trở vế nước lập chính phủ: 7-7-1954

 

Tôi lại tiếp tục dạy học.

 

Cuối năm 1953, đầu 1954 tại miền Trung, Pháp tung ra cuộc hành quân Atlante từ bốn mặt đánh vào chiến khu 5, tức vùng Nam Ngăi B́nh Phú. Tết năm đó một bộ lạc Batna trong vùng rừng núi Quảng Ngăi nổi loạn tàn sát một đơn vị Việt Minh đang dưỡng quân. Xác chết lính Việt Minh theo ḍng sông trôi ra tận biển. Cuộc nổi loạn do gia đ́nh họ Đinh khởi xướng, và h́nh như được pḥng Nh́ xúi giục, để tạo ra hỗn loạn bên trong.

 

Từ ngoài một cánh quân từ Nha Trang kéo ra, một cánh quân khác từ Lào tràn xuống, c̣n phía biển và Đà Nẵng cũng có một cánh quân đánh thốc lên. Quân Việt Minh trong trận này bị thiệt hại nhiều. Tướng Navarre coi chiến thắng này tương tự chiến thắng vùng châu thổ sông Hồng của De Lattre năm 1950-51. Ông thêm tự tin và tung ra hành quân Castor, đổ quân nhảy dù và quân bộ xuống thung lũng Điện Biên Phủ, ngày 20-11-1953, Điện Biên Phủ được tướng Navarre coi như một tiền đồn chiến lược chận ngang đường tiếp tế và chuyển quân Việt Minh từ Lào về, từ Trung Cộng xuống.

 

Điện Biên Phủ có hai mục đích chiến lược là chận đường tiếp tế và chuyển quân của Việt Minh đồng thời các đơn vị xung kích từ đó tỏa ra quanh vùng rừng núi Việt Bắc, thọc vào ḷng địch. Lịch sử đă cho biết những tính toán của tướng Navarre đă sai lầm như thế nào tôi tưởng không cần nói nhiều làm ǵ.

 

Vào đầu năm 1954 lúc t́nh h́nh chiến sự biến chuyển mạnh, và thời gian đầu có vẻ thuận lợi cho Pháp th́ về phía chính trị, Bửu Lộc được trao nhiệm vụ thành lập một chính phủ liên hiệp chuyển tiếp nhưng tính cách liên hiệp chỉ có danh vô thực.

 

Ông Bửu Lộc đem theo những bạn thân du học với ông ở Pháp cũng là những người tôi có quen biết như Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Quốc Định. Tôi không thấy có một nhân vật quốc gia tiếng tăm nào tham gia vào chính phủ Bửu Lộc. Nguyễn Văn Tâm không c̣n làm thủ tướng nữa, nhưng Nguyễn Văn Hinh vẫn nắm quân đội và công an nghĩa là nắm hết thực quyền.

 

T́nh h́nh biến chuyển nhanh chóng. Ngày 29-11-53 tướng Castries được chỉ định làm chỉ huy trưởng Điện Biên Phủ.

 

Ngày 14-12, cụ Hồ lên tiếng trên đài phát thanh bí mật của Việt Minh đề nghị thương thuyết, Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm bác bỏ. Ngày 3-2-1954, cũng nhằm ngày Tết âm lịch trận đánh Điện Biên Phủ mở màn. Việt Minh bắn trên 100 đạn đại bác 75 ly xuống Điện Biên Phủ trong ṿng không đầy 1 giờ. Từ ngày đó trận đánh càng ngày càng khốc liệt, càng thất thế đối với Pháp. Nhưng trận đánh lớn chỉ thực sự bắt đầu từ ngày 11-3.

 

Lúc đầu Việt Minh chính thức đọc lời hiệu triệu của Hồ Chí Minh và Vơ Nguyên Giáp gửi chiến sĩ và nhân dân toàn quốc. Ngày 12-3, nửa đêm, phi trường chính của Điện Biên Phủ bị quân Việt Minh đánh tràn vào, đặt ḿn phá phi đạo, để lại những truyền đơn cảnh cáo, Điện Biên Phủ sẽ là mồ chôn quân Pháp, và đế quốc Pháp. Đêm 13, đồn Beatrice thất thủ, đại tá Gauchet, chỉ huy trưởng pháo binh Pháp tại Điện Biên Phủ bị đạn pháo binh Việt Minh bắn bị thương cụt cả hai tay, hai chân, và chết ít phút sau đó. Đêm 15, đồn Gabriélle Anne Marie thất thủ. Sáng 7-5 Điện Biên Phủ đầu hàng 10.000 quân Pháp bị bắt làm tù binh.

 

Những chi tiết lịch sử này, tôi chỉ nhắc lại để làm hậu cảnh cho câu chuyện nhỏ tôi đang kể mà thôi, 25 tháng tư, một ngày thứ hai, hội nghị Genève khai mạc trước đó, qua trung gian Nga nhiều cuộc thăm ḍ giữa Pháp và Việt Minh đă được mở ra. Trong phiên họp sáng hôm sau ngày Điện Biên Phủ thất thủ, ngoại trưởng Pháp Georges Bidault đưa người đề nghị ngưng bắn có giám sát quốc tế. Trong hành lang, vĩ tuyến 18, tức Đèo Ngang trong vùng Quảng B́nh, hay sông Gianh ranh chia phân Nam Bắc thời Trịnh Nguyễn được phe Đồng minh nhắc đến, phía Cộng sản th́ h́nh như chọn vĩ tuyến 16, ngang đèo Hải Vân. Việt Minh muốn chiếm Huế, v́ đối với dân Việt Nam, Huế vốn là kinh đô, có Huế tức là c̣n giữ được kinh đô.

 

Trong t́nh trạng suy sụp của phe Pháp, Bảo Đại đă nằm ĺ ở Cannes, và tên ông Diệm càng lúc càng được nhắc đến. Một đại diện của Bảo Đại đến gặp ông Diệm ở Pháp, và chính thức yêu cầu ông về lập nội các. Những cuộc tiếp xúc và thăm ḍ kéo dài đến tháng 7, và ngày 7-7-1954, ông Diệm về nước làm thủ tướng.

 

Những chuyện này thuộc lịch sử, tôi không muốn nói đến nhiều.

 

Theo những nhận định của người am hiểu thời bấy giờ th́ t́nh h́nh đen tối đến cái độ không một phép lạ náo có thể cứu văn được, và ông Diệm về nước khó mà thành công, trái lại rất dễ tiêu tan uy tín và sự nghiệp chính trị. Có thể trong thâm ư của Bảo Đại và người Pháp việc đưa ông Diệm về là để đốt cháy tương lai chính trị của ông mà thôi.

 

Ngày 26 tháng 4, nghĩa là mấy hôm sau khi hội nghị Genève đă chính thức khai mạc, thứ trưởng ngoại giao Pháp đặc trách vấn đề Đông Dương là ông Marc Jacquet đến Cannes viếng thăm Bảo Đại và thông tri cho Bảo Đại rơ ư định của các quốc gia Đồng minh muốn chính phủ quốc gia Việt Nam cử một phái đoàn đại diện tham dự hội nghị Genève với tư cách quan sát viên. Vào ngày 30 Bảo Đại nhận được một văn thư chính thức của các ngoại trưởng Pháp, Anh, Mỹ bày tỏ ư muốn tham khảo về vấn đề Việt Nam với một đại diện của Bảo Đại. Báo Pháp tố cáo rằng sở dĩ Việt Minh chần chừ trong việc thỏa thuận cho phép di tản thương binh khỏi Điện Biên Phủ là v́ sự do dự của Bảo Đại trong việc tham dự hội nghị Genève, làm cho phe Đồng minh gặp khó khăn, mất chính nghĩa.

 

Trước áp lực của Pháp, của dư luận Pháp và quốc tế, Bảo Đại chấp nhận cử một phái đoàn quan sát do Nguyễn Quốc Định cầm đầu tham dự hội nghị Genève. Phái đoàn này không có tính cách độc lập, mà chỉ là một phái đoàn nằm trong bộ phận thương thuyết của Pháp, nó cũng chẳng có quyền hành ǵ và chỉ là một phái đoàn quan sát và cố vấn cạnh phái đoàn Pháp.

 

Lúc bấy giờ h́nh như Bảo Đại tin tưởng rằng nhờ áp lực của Đồng minh, nhất là của Mỹ, một giải pháp cho Việt Nam sẽ không hoàn toàn thất lợi cho phe quốc gia.

 

Nguyễn Quốc Định trong thời gian làm trưởng phái đoàn Việt Nam tỏ ra khôn khéo, cứng rắn đúng mức, không đến nỗi làm nhục quốc thể. Ông đồng ư việc phái đoàn Việt Minh tham dự hội nghị Genève cạnh một phái đoàn quốc gia, nhưng trong các lời tuyên bố và diễn văn ông luôn nhấn mạnh rằng sự đồng ư này không có nghĩa là thừa nhận chính phủ Việt Minh là chính phủ hợp pháp.

 

Sáng ngày 3-5, một văn thư mời chính thức được gởi đến Bảo Đại và chính phủ Việt Nam. Ngày 9-5 phiên họp có thể coi là khoáng đại và chính thức của hội nghị Genève khai mạc. Như chúng ta biết, ngày 8-5 là ngày Điện Biên Phủ thất thủ, 10.000 quân Pháp bị bắt làm tù binh. Báo chí, dư luận Pháp đ̣i hỏi chính phủ phải làm mọi cách để thanh toán vấn đề Đông Dương. Phía Việt Minh, Phạm Văn Đồng cầm đầu phái đoàn Cộng sản. Mỹ không chính thức tham gia hội nghị mặc dù Pháp khẩn khoản yêu cầu Mỹ nên cử một ngoại trưởng tham dự, để làm mạnh thế phe Đồng minh.

 

Lúc bấy giờ ngoại trưởng Mỹ là ông Foster Dulles đă được ngoại trưởng Pháp là ông Bidault và Anh là Anthony Eden tiếp xúc nhiều lần, nhưng ông Dulles từ chối. Cuối cùng Mỹ chỉ cử một thứ trưởng ngoại giao là ông Bedell Smith cầm đầu phái đoàn Mỹ. Lúc bấy giờ Mỹ cũng đă đưa ra đề nghị chấm dứt các cuộc đàm phán riêng và cạnh hội nghị Genève, nhưng Anh và Pháp cho rằng nhờ các cuộc đàm phán riêng và mật mà hội nghị mới có được những kết quả khả quan. Điểm đáng lưu ư là trong các phiên họp khoáng đại phái đoàn Nga tỏ ra cứng rắn bao nhiêu, th́ trong các phiên họp riêng, họ lại tỏ ra mềm dẻo và nhượng bộ bấy nhiêu.

 

Phái đoàn Việt Minh đ̣i hỏi cho hai phái đoàn Lào Cộng và Miên Cộng tham dự hội nghị với tư cách đại diện thẩm quyền cho dân tộc Lào và Cam-Bốt. Phe Đồng minh bác bỏ. Nga đưa giải pháp dung ḥa là hai phái đoàn Lào và Miên được tham dự với tư cách quan sát viên mà thôi. Cũng trong các phiên họp kín này hai phe đă đồng ư về việc ấn định các thể thức ngưng bắn giữa Pháp và Việt Minh bằng các phiên họp riêng của hai bộ phận quân sự Pháp và Việt Minh, cạnh hội nghị Genève.

 

Ngày 10-6 trong một phiên họp khác, Tạ Quang Bửu, bộ trưởng quốc pḥng Việt Minh đề nghị một giải pháp ngưng bắn và tập kết lấy vĩ tuyến 16 làm ranh phân chia. Hội nghị Genève kéo dài không kết quả, chính phủ Pháp càng bị dư luận dân chúng và quốc hội chỉ trích nặng nề. Ngày 13-6 quốc hội biểu quyết bất tín nhiệm chính phủ Laniel và theo hiến pháp phe đối lập do Mendes France cầm đầu được đề cử thành lập tân nội các. Ngày 17-6 nội các Mendes France được tấn phong. Ông Mendes France hứa sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương nội trong ṿng một tháng.

 

Chính lời hứa này của ông đă làm cho chính phủ ông phải thất thế nhượng bộ nhiều, và khi đó nếu Cộng sản không lo sợ Mỹ can thiệp trực tiếp vào Việt Nam th́ Việt Minh có thể được thỏa măn trong yêu sách phân chia từ vĩ tuyến 16. Vào cuối tháng 6, Thủ tướng Anh Winston Churchill và ngoại trường Anthony Eden đi Mỹ, với mục đích thuyết phục Mỹ về phe Anh Pháp một cách rơ rệt và công khai hơn. Lúc bấy giờ ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles trong chính quyền Eisenhower có vẻ sẵn sàng chấp nhận giải pháp chia đôi Việt Nam thành hai vùng, với điều kiện là vùng thuộc phe Đồng minh sẽ thực sự được độc lập, và Pháp từ bỏ những nỗ lực khống chế chính trị và kinh tế tại vùng quốc gia. Vấn đề c̣n lại chỉ c̣n là chọn một ranh phân chia, và lập những thủ tục rút quân.

 

Vào giai đoạn cuối của hội nghị Genève, phái đoàn Mỹ không có một nhân vật thượng hạng nào cầm đầu. Ngoại trưởng Dulles hay thứ trưởng Smith đều không tham dự, v́ ư Mỹ muốn đứng ngoài, không trực tiếp chịu trách nhiệm phê chuẩn hiệp ước.

 

Pháp muốn kéo Mỹ vào phe họ, nghĩ ra một cáh là mời ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles viếng thăm Ba-Lê ngày 12 tháng bảy, và họp hội nghị tay ba Pháp Anh Mỹ tại đây. Thủ tướng Mendes France cam kết rằng Pháp sẽ từ bỏ mọi hành động khống chế và chi phối chính trị kinh tế tại vùng phía Nam ranh phân chia và trao trả độc lập thực sự cho phần đất quốc gia này. Cái vẻ đoàn kết của ba cường quốc Đồng minh đă làm cho tư thế của Pháp khá hơn đôi chút tại hội nghị Genève. Phe Cộng sản lo sợ rằng nếu họ gắng quá có thể đẩy phe Đồng minh đến cái thế phải can thiệp bằng quân sự trở lại ở Đông Dương dưới một danh nghĩa quốc tế, như họ đă làm ở Cao Ly.

 

Lúc này ông Diệm đă bổ nhiệm ngoại trưởng Trần Văn Đỗ trong chính phủ ông thay thế Nguyễn Quốc Định cầm đầu phái đoàn Việt Nam. Trần Văn Đỗ từng quen biết với Phạm Văn Đồng, ngay sau lúc đến Genève t́m cách gặp riêng Đồng, nhưng Đồng đă chấp nhận việc phân chia Việt Nam làm hai miền, không đề cập đến một giải pháp nào khác, và chỉ nói những câu chuyện đại cương trong cuộc gặp gỡ riêng giữa hai người bạn cũ theo hai phe thù nghịch này.

 

Trần Văn Đỗ phản kháng chính phủ Pháp đă có những hành động nguy hại cho sự tồn vong của Việt Nam mà không hề tham khảo với chính phủ Việt Nam. Sự cứng rắn của ông Đỗ đă làm cho Pháp lúng túng, ông Đỗ cũng tố cáo rằng Pháp đă chấp nhận vĩ tuyến 18 tức là đèo Ngang làm ranh phân chia. Pháp lại phải nhờ Anh và Mỹ trấn an Việt Nam.

 

Ngày 18-7 trong một phiên họp khoáng đại, ông Đỗ theo lệnh ông Diệm đọc diễn văn từ khước kư kết vào bất cứ thỏa ước ngưng bắn nào được kư đến giữa Pháp và Việt Minh.

 

Chính phủ Mendes France đă đạt cái thời hạn hứa hẹn với quốc hội là giải quyết vấn đề Đông Dương nội trong một tháng. Quốc hội Pháp rục rịch biếu quyết bất tín nhiệm chính phủ Mendes France.

 

Quá nửa đêm ngày 20-7 vào những giờ đầu ngày 21-7 thỏa ước ngưng bắn được kư kết giữa từng phe liên hệ, như thỏa ước ngưng bắn tại Việt Nam được kư kết giữa tướng Pháp Délteil thay mặt tham mưu trưởng là tướng Ely và Tạ Quang Bửu, bộ trưởng quốc pḥng Việt Minh. Chiều ngày 21-7 một phiên họp khoáng đại được triệu tập, và các trưởng phái đoàn tham dự của 9 quốc gia chấp nhận bằng lời bản Tuyên Bố Chung Kết của hội nghị Genève.

 

Trong lúc đó, tại Việt Nam, ông Diệm cố gắng cải tổ guồng máy chính quyền, tập trung quyền hành vào tay ông nhưng gặp sự chống đối mạnh mẽ của phe Nguyễn Văn Hinh và B́nh Xuyên. Sau khi về nước được vài hôm, vào giữa tháng bảy ông Diệm ra Huế. Lúc bấy giờ Phan Văn Giáo vẫn c̣n làm thủ hiến Trung Việt, ư chừng muốn được ông Diệm thu dụng, đă tổ chức một cuộc đón tiếp linh đ́nh từ sân bay Phú Bài về đến Phú Vân Lâu. Tại đây dân chúng tụ tập hàng vạn người, đă hân hoan chào mừng ông Diệm. Ông Diệm lên đọc diễn thuyết nói quyết tâm của ông muốn dành lại độc lập thực sự và hoàn toàn cho Việt Nam, kêu gọi đoàn kết.

 

Tôi có ghé qua cuộc mít tinh tại Phú Vân Lâu, và tôi nhận thấy cảm t́nh của dân chúng miền Trung đối với ông Diệm thật là chân thành và nồng nhiệt. Ngay sau đó ông Diệm về ở lại trong nhà ông Cẩn, và tôi gặp ông ở đây. Ông Diệm niềm nở chào tôi, lúc đó nét mặt ông có vẻ lo lắng, tư lự, nhưng cố gắng tươi cười với tôi. Tôi chào mừng ông và trong câu chuyện riêng chỉ có ông Diệm, ông Cẩn, và tôi, tôi nói cảm nghĩ của tôi về việc ông về nước.

 

- Thưa cụ, tôi sợ rằng người Pháp và Bảo Đại đă không thành thực khi mời cụ về chấp chánh lúc này. T́nh thế khó khăn lắm ngoại trừ một phép lạ khó có thể thành công được. Tôi lo rằng nếu thất bại cụ sẽ khó có cơ hội thứ hai.

 

Ông Diệm gật gù:

 

- Cha nói đúng. Nhiều người bạn ở Pháp cũng nói như vậy. Tôi cũng biết điều đó, nhưng tôi cho rằng lúc này không thể chờ đợi lâu hơn được nữa, v́ theo tôi đây là cơ hội cuối cùng, không c̣n cơ hội thứ hai nào khác nữa. Nếu bây giờ tôi không về v́ ngại khó khăn và thất bại th́ không bao giờ về được nữa. Thành công hay thất bại tôi cũng phải về. Tôi lo cho số phận Giáo hội Công giáo, và phe quốc gia Việt Nam nên tôi phải cố gắng cứu văn những ǵ c̣n hy vọng cứu văn được. Tôi tin rằng chúng ta sẽ thành công.

 

Tôi đành đồng ư với ông Diệm về cái lư luận đường cùng này và xoay qua câu chuyện khác:

 

- Thưa cụ, những anh em trí thức ở ngoại quốc có những ai về hợp tác với cụ?

 

Mặt ông Diệm có vẻ tươi vui hơn đôi chút:

 

- Hầu hết người anh em trí thức mà cha đă biết đều về hợp tác với tôi như các anh Nguyễn Văn Thoại, Trần Hữu Phương, Trương Công Cừu ở Pháp. Những anh em ở Mỹ th́ có các anh Đỗ Vạn Lư, Đỗ Trọng Chu, Bùi Kiến Thành v.v…

 

Tôi nhớ đến Bửu Hội, một người trong Hoàng phái nhưng không hợp tác với Bảo Đại:

 

- Cụ có mời giáo sư Bửu Hội không?

 

Ông Diệm cau mày, ngập ngừng một lúc, rồi nói:

 

- Tôi chưa biết lập trường, thái độ của ông Bửu Hội như thế nào nên chưa tiện mời, nhưng có lẽ sau này tôi sẽ cho người tiếp xúc và mời ông về.

 

Ông Diệm ở Huế vài hôm rồi vào lại Sài G̣n. Trước khi ông đi, tôi có đến gặp ông thêm một lần tại nhà ông Cẩn. Câu chuyện trao đổi lần này không có ǵ đặc biệt. Tôi đến gặp ông chỉ để bày tỏ thiện cảm của tôi đối với ông và mong ông nỗ lực, chúc ông thành công.

 

Thời gian từ ngày về nước đến ngày kư kết hiệp định Genève là những ngày dài nhất, đau khổ nhất của ông Diệm. Ông theo dơi từng ngày các báo cáo của ngoại trưởng Trần Văn Đỗ từ Genève gởi về. Ngày 20-7, hiệp định đ́nh chiến được kư kết, và ngày 21 những bản phụ đính hội nghị Genève được các phe tham dự đồng ư chấp thuận bằng miệng.

 

Có lẽ lúc đó ông Diệm thấy nhẹ người hơn, v́ dù sao hiệp định Genève cũng không hoàn toàn thất lợi cho phe quốc gia. Ranh phân chia được ấn định là vĩ tuyến 17, dọc theo sông Bến Hải. Như vậy miền Nam c̣n giữ được Cao nguyên và đồng bằng Cửu Long. Huế tuy không quan trọng về phương diện kinh tế, chiến lược, nhưng lại quan trọng về phương diện lịch sử và uy tín. Miền Nam giữ được Huế th́ cũng coi như giữ được kinh đô.

 

 

34 Công đầu của Tổng thống Diệm: Định cư 1.000.000 người

 

Ngay sau khi hiệp định Genève được kư kết, các đoàn người di cư từ Bắc và Trung vào bằng đường Hàng không, đường thủy và đường bộ bắt đầu lục tục kéo vào các tỉnh miền Trung và Sài G̣n. Cảnh những dân di cư lếch thếch trên đường chạy trốn Cộng sản thật là thương tâm. Tôi theo dơi từng ngày, và hễ mỗi khi có đoàn di cư nào từ Nghệ Tĩnh B́nh vào, th́ tôi lại t́m cách đến thăm viếng, an ủi, và thúc giục chính quyền địa phương t́m mọi cách giúp đỡ họ. Lúc bấy giờ chưa có một tổ chức nào chịu trách nhiệm về dân di cư.

 

Vào cuối năm 1954 Phủ đặc ủy di cư mới được thành lập. Nhưng nhờ thiện chí của chính quyền địa phương, sự quan tâm đặc biệt của ông Diệm đối với dân di cư, cho nên các chính quyền địa phương đă cố gắng hết sức giải quyết vấn đề di cư.

 

Vào khoảng tháng 10, bà Nhu tổ chức một cuộc biểu t́nh lớn để ủng hộ ông Diệm, đả đảo Pháp. Đoàn biểu t́nh bị công an xung phong B́nh Xuyên chận ngay bùng binh chợ Bến Thành bắn chết 6 người, làm bị thương hàng chục người. Cảnh hỗn loạn diễn ra nhiều nơi trên các đường phố lớn ở Sài G̣n. Ông Diệm chán nản mất tin tưởng, v́ từ ngày về nước đến nay, ông đă cố gắng nhiều nhưng vẫn không nắm được công an và quân đội. Công an th́ trong tay B́nh Xuyên, quân đội th́ trong tay Nguyễn Văn Hinh. Vài giờ sau khi tin này được loan đi th́ ông Cẩn cho người t́m tôi tin cho tôi biết rằng ông Diệm đă thất vọng và chán nản cực độ, có ư định bỏ nước ra đi, ông Cẩn không khuyên tôi làm điều ǵ nhưng tôi đă hiểu ư ông khi ông báo tin này cho tôi biết. Tôi lập tức lấy máy bay vào Sài G̣n. Tôn Thất Trạch, chánh văn pḥng ông Diệm đón tôi ở phi trường Tân Sơn Nhất và trên đường vào Sai G̣n ông Trạch cho tôi biết rằng cụ Diệm đang sửa soạn va li để rời Việt Nam trong vài ngày tới đây.

 

Tôi không kịp thay áo, vào ngay dinh thủ tướng lúc đó vẫn c̣n được gọi là dinh Norodom. Lúc đó khoảng 6 giờ chiều. Tôi vào ngay văn pḥng ông Diệm và thấy đức cha Ngô Đ́nh Thục và ông Ngô Đ́nh Nhu đang ngồi với ông Diệm. Ba người im lặng trong cái không khí buồn thảm của một nhà có tang. Văn pḥng của ông Diệm vẫn tranh sáng tranh tối.

 

Ngoài trời vẫn c̣n tỏ, nhưng trong nhà ánh sáng đă mờ. Đèn chưa được bật lên. Đức Cha Thục và ông Nhu thấy tôi vào lặng lẽ đi sang pḥng bên cạnh. Khi cửa pḥng đó hé mở, tôi thoáng thấy bóng vài người như là các ông Trần Chánh Thành, Trần Văn Lắm, Trần Trung Dung. Đức Cha Thục và ông Nhu không nh́n tôi, không chào hỏi cúi đầu bước qua cửa pḥng bên cạnh.

 

Ông Diệm ngồi trong ghế bành lớn, thấy tôi vào, vẫn ngồi yên, chậm chạp đưa tay sửa lại hai cái đai quần rồi cầm chiếc áo vét máng ở lưng ghế khoác vào người. Nét mặt ông Diệm trông thật buồn thảm thiểu năo, như một người đă hết sinh lực, mất chí phấn đấu. Tôi cúi đầu chào ông Diệm.

 

Ông chẳng nói ǵ, chỉ chiếc ghế đối diện ra hiệu mời tôi ngồi. Tôi ngồi xuống chờ đợi ông lên tiếng trước. Một chặp sau, ông Diệm mới cất tiếng, giọng đều đều, chán nản:

 

- Thưa cha, t́nh h́nh này, tôi không thể ở lại được nữa. Tôi ở nán thêm chẳng ích lợi ǵ mà c̣n gây hỗn loạn và đổ máu cho đất nước ḿnh thôi.

 

Người Pháp không thành thực. Họ vẫn dựa vào bọn B́nh Xuyên và Tâm Hinh mà phá tôi. Cha không thể tưởng tượng được các khó khăn mà người Pháp và bọn đó gây ra cho tôi. Tôi không thể làm được một việc ǵ hết, v́ mọi mấu chốt quyền hành đều nằm trong bọn này hết. T́nh thế này tôi không thể ở lại được!

 

Tôi im lặng một lúc, rồi nh́n thẳng vào mắt ông Diệm:

 

- Thưa cụ, cách đây vài tháng, tôi đă thưa với cụ là cụ không nên về, v́ về trong t́nh thế này không thể thành công được, nhưng cụ đă hăng hái nói rằng cụ tin tưởng ở một phép lạ của Chúa. Thưa cụ, tuy tôi là Linh mục, nhưng tôi không chờ đợi ở phép lạ mà chỉ trông vào cố gắng của ḿnh trước. Cụ đă nhận lời về nước, cụ chịu trách nhiệm không phải là Bảo Đại, người Pháp hay với bọn B́nh Xuyên, bọn Tâm Hinh, mà với quốc gia Việt Nam, dân tộc Việt Nam và bây giờ đặc biệt cụ phải nhận trách nhiệm với hàng trăm ngàn dân di cư đă tin tưởng nơi cụ mà kéo vào đây. Dù Chúa không ban phép lạ cụ cũng không có quyền đào ngũ lúc này. Vả lại phép lạ của Chúa chỉ xảy ra khi con người đă làm hết sức ḿnh. Cụ thử xét lại xem cụ và những người quanh cụ đă làm hết sức ḿnh để đối phó với t́nh thế chưa? Đồng bào di cư Bắc và Nghệ Tĩnh B́nh là một gánh nặng, nhưng cũng có thể là một sức mạnh, cụ đă nghĩ đến chuyện nhờ đến sức mạnh đó chưa? Những đồng bào di cư hiện đang sống khốn khổ, bấp bênh trong các trại tạm cư chen chúc nhau hàng chục người trong một căn pḥng vài thước vuông vức, cụ có thể nỡ ḷng bỏ họ trong t́nh trạng đó sao?

 

Ngoài cụ không có ai nghĩ đến chuyện lo cho đồng bào di cư cả. Cụ ra đi lúc này, họ sẽ chết, v́ về Bắc th́ không thể được nữa rồi mà ở lại không có người lănh đạo giúp đỡ th́ làm sao sống được nơi đất lạ? Mọi người đều biết không phải Bảo Đại hay Nguyễn Văn Hinh muốn và có thể giúp đỡ dân di cư được.

 

Ông Diệm im lặng và chăm chú nghe tôi càng lúc mặt ông cụ càng có vẻ quyết liệt hơn. Tôi nói tiếp:

 

- Cụ nên ở lại thêm vài tháng nữa, hăy cố gắng hết sức ḿnh. Thành công th́ khó chớ dọn va li ra đi khi nào cũng được. Cụ nên cố gắng thêm vài tháng rồi lúc đó nếu hết cách th́ dọn va li cũng chưa muộn ǵ. Cụ nên tập trung mọi phương diện, mọi nỗ lực giải quyết vấn đề đồng bào di cư trước. Một khi cụ định cư họ được th́ chính họ sẽ là lực lượng hậu thuẫn ṇng cốt cho cụ.

 

Cụ Diệm vẫn c̣n phân vân:

 

- Nếu bây giờ tôi ở lại, th́ cha thấy rằng thái độ của quốc dân sẽ ra sao?

 

Tôi trả lời ông không chút do dự:

 

- Trừ một số nhỏ theo Tây, theo B́nh Xuyên, toàn dân vẫn tin tưởng nơi cụ. Phần lớn các tỉnh trưởng nhất là ở miền Trung, đều ủng hộ cụ. Vả lại họ là những kẻ thuộc cấp, họ chỉ tuân lệnh, những kẻ có danh nghĩa, danh nghĩa ở nơi cụ. Cụ là thủ tướng chính phủ, Bảo Đại th́ ở Cannes, vậy chỉ có cụ có tư cách ra lệnh và lệnh của cụ chắc chắn sẽ được tuân hành. Cụ có thể ra chỉ thị cho họ tổ chức những cuộc biểu t́nh khắp nơi trên toàn quốc, lần lượt, và cuối cùng phối hợp thành một ngày tổng biểu t́nh. Sự biểu dương lực lượng quần chúng này chắc chắn sẽ làm cho Pháp và bọn B́nh Xuyên, Tâm Hinh phải nể nang mà không dám lộng hành nữa.

 

Hơn nữa cụ đi lúc này tức là mắc mưu người Pháp, Bảo Đại, bọn Tâm Hinh họ muốn cụ về để tự đốt cháy uy tín và sự nghiệp chính trị. Cụ đi th́ khác nào thú nhận sự bất lực với họ, chịu thua họ.

 

Ông Diệm vui nét mặt, đứng thẳng người:

 

- Cha nói đúng. Nếu tôi đi lúc này th́ đúng là mắc mưu người Pháp. Họ đem tôi về rồi làm mọi cách để cho tôi thất bại, để cho tôi phải tự ư bỏ đi. Vậy bây giờ theo ư cha, tôi quyết ở lại, không phải vài tháng mà cho đến bao giờ hoàn tất sứ mạng.

 

Có điều lạ là những người quanh tôi không một ai khuyên tôi ở lại. Họ đều đồng ư rằng ở lại không thể làm ǵ được và tôi nên ra đi để tránh cảnh hỗn loạn đổ máu cho đất nước. Tôi sẽ nghe lời cha, dồn mọi nỗ lực vào việc giúp dân di cư, không phải mai sau, mà ngay bây giờ. Tôi đă nghĩ ra một cách để đối phó với bọn B́nh Xuyên, Tâm Hinh.

 

Ông Diệm ngắt lời, và không nói ǵ thêm. Tôi yên tâm ra về ngày hôm sau trở lại Huế. Vài hôm sau tôi hiểu ra cái cách ông Diệm nói úp mở trong đoạn cuối câu chuyện là cách ǵ. Cụ dùng mọi cách chuyển các tiểu đoàn Bảo Chính Đoàn, Bảo An Đoàn, các lực lượng quân sự Việt Nam từ Bắc và Trung vào Sài G̣n bằng những phương tiện nhanh nhất.

 

Mặt khác ông Diệm cho thay thế một số chỉ huy trưởng, đơn vị trưởng mà không qua hệ thống của Nguyễn Văn Hinh, cũng không tham khảo với người Pháp. Mặt khác có lẽ ông đă chỉ thị mật cho các tỉnh quận trưởng khắp nơi, cho nên lục tục có những cuộc biểu t́nh nổi lên khắp nơi ủng hộ ông. Những khẩu hiệu đả đảo Bảo Đại bắt đầu được tung ra.

 

Ông Diệm cũng thành lập một hệ thống công an cảnh sát riêng không nằm trong tay B́nh Xuyên. H́nh như ông Mai Hữu Xuân cầm đầu hệ thống này. Tại Huế, Sài G̣n, Nha Trang nhiều cuộc biểu t́nh lớn được tổ chức liên tiếp, và lần này công an xung phong B́nh Xuyên đă không ngăn trở ǵ có lẽ v́ họ thấy phong trào ủng hộ ông Diệm quá mạnh.

 

Ông Diệm cũng khéo léo điều đ́nh với các giáo phái và cả B́nh Xuyên để họ ở yên cho ông củng cố quyền hành và xây dựng lực lượng.

 

Số người di cư càng ngày càng đông, và đúng như tôi đă nói với ông Diệm, chính họ, hay con cái họ trong các lực lượng quân sự, đă hậu thuẫn mạnh mẽ cho ông Diệm, giúp ông thành công.

 

Tôi về Huế ngày hôm sau, nghĩa là tôi chỉ ở lại Sài G̣n một đêm mà thôi. T́nh h́nh ở Sài G̣n lúc bấy giờ hết sức căng thẳng. Bảy Viễn và Nguyễn Văn Hinh đă tỏ ra quá kiêu căng v́ tự tin, và đó là lỗi lầm lớn nhất của họ. Lỗi lầm thứ hai, là họ chỉ có một số thuộc hạ tuy khá đông, nhưng không được cảm t́nh và sự ủng hộ của quần chúng.

 

Quan niệm chính trị của bọn này là cái quan niệm chính trị hẹp ḥi, tưởng rằng nắm được những mấu chốt triều đ́nh hay thâm cung là nắm được hết, tưởng rằng được quan thầy Pháp và Bảo Đại thương là đủ. Họ không ư thức được sức mạnh của quần chúng, chỉ biết sức mạnh của vơ lực, súng đạn.

 

Lúc bấy giờ quần chúng Việt Nam có nhiều thiện cảm với ông Diệm. Cả những người không phục ông Diệm khi so sánh ông Diệm với bọn Tâm Hinh, Bảy Viễn th́ cũng phải chấp nhận ông Diệm. Thực ra th́ tôi chẳng đóng góp được ǵ nhiều vào các quyết định, mưu kế, chính sách của ông Diệm, trong thời kỳ này, hay về sau, nhưng tôi đă gợi ư cho ông Diệm nhớ đến một sức mạnh chưa được sử dụng, hàng chục vạn dân di cư và gia đ́nh họ. Số người đông đảo này đang ở trong một thế kẹt, đang bị dồn vào đường cùng, và sẵn sàng liều mạng để chiếm một đất sống.

 

Tôi về Huế, ngoài việc dạy học, rảnh rỗi lúc nào là tôi tôi đi thăm các trại tạm cư của đồng bào di cư Nghệ Tĩnh B́nh ở Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng. Các tỉnh trưởng biết tôi quen thân gia đ́nh ông Diệm, vả lại những đề nghị của tôi hoàn toàn vô tư và vô vị lợi, nên nhiều người nghe lời tôi nói mà đặc biệt chú ư đến dân di cư.

 

Các trường học được dành làm nơi tạm trú cho dân di cư. Mọi phương tiện địa phương được đề ra để giúp đỡ dân di cư. Con số dân di cư càng ngày càng đông, có những gia đ́nh chỉ trốn vào được với một tay nải, tiền bạc không có bao nhiêu, nhưng nhờ sự giúp đỡ tận t́nh và mau chóng của chính quyền địa phương nên không xảy ra một trường hợp nào dân di cư phải chết đói.

 

Những nhà hảo tâm nhiều người cũng hết ḷng giúp đỡ một cách thực tế. Tôi nghĩ rằng chính số người di cư lúc bấy giờ đă làm sống bừng dậy tinh thần dân tộc, ḷng thương yêu rộng lớn, t́nh đoàn kết chân thật, và tạo được một khối quần chúng thuần nhất ủng hộ ông Diệm.

 

Trong thời gian này, có lẽ nhớ lại vài lời nói của tôi, ông Diệm t́m mọi cách đem vào Sài G̣n và Nam phần nhiều tiểu đoàn quân Việt Nam từ phía Bắc vĩ tuyến 17. Trước hết một đơn vị thiện chiến và trung thành được thành lập để bảo vệ phủ Thủ tướng, sau này thành Liên Binh pḥng vệ phủ Tổng thống. Phần lớn binh sĩ và sĩ quan trong đơn vị này đều là người Thanh Nghệ Tĩnh B́nh, và lính Bắc phần. Nguyễn Văn Hinh, với chức vị tư lệnh quân đội Việt Nam, lại được người Pháp ủng hộ, tưởng rằng nắm được mọi sức mạnh quân sự, nhưng thực tế đă ngược lại.

 

Hinh chỉ nắm được một vài đơn vị nhỏ, một vài cấp chỉ huy do cha con Tâm Hinh đặt để, nhưng số người này, cũng như chính cá nhân của tướng Hinh, không được các binh sĩ kính phục thật t́nh, cho nên không chắc họ đă mù quáng tuân lệnh Hinh để đàn áp dân chúng hay chống lại ông Diệm.

 

Suốt thời gian cuối năm 1954, tôi vào Sài G̣n vài lần khi th́ tự ư tôi bay vào, khi th́ chính ông Diệm cho mời vào. Mỗi lần làm được một việc ǵ vừa ư, nhất là trong địa hạt giúp đỡ dân di cư, ông Diệm lại đem kể với tôi, như để khoe, như để phân bua.

 

Ông Diệm có thiện cảm nhiều với dân di cư Thanh Nghệ Tĩnh B́nh. Có lần ông nói với tôi:

 

- Giả sử tôi đem vào Nam được vài chục ngàn dân Nghệ Tĩnh B́nh và có mươi cán bộ giỏi như cha th́ mọi việc chắc chắn sẽ thành công.

 

Tôi cười trả lời:

 

- Hiện nay cụ đang có một con số dân di cư Nghệ Tĩnh B́nh đông đảo hơn con số mà cụ vừa nói ra. Cũng xin cụ lưu ư rằng tất cả dân di cư bất cứ vùng nào đến cũng đang ở trong một ngơ cùng, và chỉ có lối thoát duy nhất là theo cụ chiến thắng mọi trở ngại, mọi lực lượng phản dân phản nước.

 

Ông Diệm cũng cho tôi biết đă đem vào Sài G̣n và Nam phần một số đơn vị quân đội từ ngoài vĩ tuyến 17 vào. Ông cũng cho tôi biết khái niệm của ông về cách định cư. Ông chú ư đặc biệt đến giá trị chiến lược và kinh tế của vùng cao nguyên, và đặt kế hoạch định cư đồng bào di cư Nghệ Tĩnh B́nh tại các vùng Ban Mê Thuột, Tuyên Đức, Đà Lạt. Số người di cư này được định cư khá sớm tại các trại như Hà Lan A, và B, Đức Lập, B́nh Giả, Phan Thiết, Tân B́nh (Khánh Ḥa, Cam Ranh). Tôi có nghĩ đến cách ḥa đồng dân di cư vào dân địa phương nhưng không có dịp nói ra, và tôi cũng nhận thấy sự khó khăn quá lớn trong việc đó. Mọi việc là phải chạy đua với thời gian. Dân di cư lại không chịu rời nhau, đến đâu cũng muốn tập trung vào một vùng, do đó lắm lúc đă tạo ra một t́nh trạng biệt lập, kỳ thị.

 

Một mặt giải quyết vấn đề di cư, củng cố lực lượng tổ chức bộ máy chính quyền, mặt khác ông Diệm và các cán bộ của ông bắt đầu phát động phong trào chống Pháp và chống Bảo Đại. Thời gian cuối năm 1954 là thời gian thanh toán bọn Bảy Viễn và Tâm Hinh.

 

Thoạt đầu ông Diệm cố gắng tiến hành công việc theo các cách thức hợp pháp, ôn ḥa bằng cách cử người thay thế những thuộc hạ của Tâm Hinh trong các cơ quan hành chánh cũng như quân sự. Tại miền Trung ông Diệm đă thành công dễ dàng, không gây nên sự xáo trộn nào nhưng tại Nam phần nhiều trường hợp các lệnh của ông Diệm đă không được tuân theo. Nhiều sĩ quan được ông Diệm bổ nhậm đă không thể tiếp nhận chức vụ mới được.

 

 

(c̣n tiếp)

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính