Bên Gịng Lịch Sử­ 1940-1965

 

- P5 -

 

Lm. Cao Văn Luận

 

 

18  Nh́n cảnh trâu cày mắt rưng lệ

 

Tháng tám 1947, nghĩa là vài tháng sau khi yết kiến Đức Thánh Cha, tôi cùng 15 cha Việt Nam khác lên tàu Felix Roussel về nước. Tàu lênh đênh 21 ngày trên biển cả. Mỗi ngày qua đi, tôi lại thấy ḷng thương nhớ nước Việt Nam lớn thêm, những bồn chồn mong đợi và lo sợ cũng tới theo. Những ǵ sẽ chờ đợi chúng tôi, chờ đợi nước Việt Nam chúng tôi trong những ngày tới? Khi tàu ghé qua một vài bến ở Phi Châu, tôi và vài cha có lên thăm các thành phố xứ người cho khuây khoả. H́nh ảnh nước Pháp hùng mạnh càng hiện rơ hơn, nhưng bóng dáng những nứt rạn, những lúng túng của nước Pháp, của đế quốc Pháp cũng đă bắt đầu nổi lên tại các xứ thuộc địa Pháp này rồi. Tôi tin tưởng gần như chắc chắn là nước Pháp sẽ phải thanh toán các thuộc địa của họ. Điều đáng lo sợ là cái cách thanh toán đó, có bao nhiêu dân tộc nhỏ bé bị nghiền nát, bị hy sinh?

 

Tàu đến Cap St Jacques dừng lại một đêm ngoài cửa sông chờ người cầm lái. Sáng hôm sau, tàu ngược ḍng sông lên Sài G̣n.

 

Chúng tôi đứng trên boong tàu nh́n vào hai bên bờ sông từ khi tàu vào sông cho đến lúc tàu cập bến, những đám ruộng lúa bắt đầu hiện ra. Vài con trâu đủng đỉnh gặm cỏ trên bờ ruộng. Tự dưng mắt tôi ươn ướt, và tôi đă khóc thầm lặng không biết từ lúc nào. Nh́n sang các cha bên cạnh, một vài người Việt Nam bên cạnh, cũng đang rưng rưng nước mắt. Nhưng không phải là nước mắt đau thương mà là nước mắt sung sướng vinh dự được trở về quê hương ḿnh sau 8 năm cách biệt. Mặc dầu báo chí đă cho tôi thấy những cảnh chiến tranh tàn bạo nhưng lúc tàu ngược ḍng tôi chỉ thấy cảnh thanh b́nh, yên ổn hết sức. Những luỹ tre, những rặng dừa, những thửa ruộng, những đàn trâu ḅ, những đứa bé chăn trâu, vài đoàn người đi trên bờ ruộng. Tất cả đều có vẻ thanh b́nh kỳ lạ.

 

Chúng tôi được một đại diện Đại Chủng Viện Sài G̣n ra bến Nhà Rồng đón tiếp, và chúng tôi về ngay Đại Chủng Viện ở đường Cường Để bây giờ. Các cha khác, tuỳ gốc địa phận, chờ tàu trở lại địa phận của họ. Riêng tôi th́ chờ tàu ra Hải Pḥng để t́m cách về địa phận Vinh.

 

Khoảng vài tuần sau, tôi mua được vé tàu thuỷ ra Hải Pḥng. Cảnh vịnh Hạ Long hùng tráng, sừng sững nổi lên trên mặt nước, với vài chiếc thuyền buồm, vài chiến hạm Pháp, tuy đồ sộ mà so với cảnh th́ thật là bé nhỏ vô nghĩa, càng làm tôi yêu mến đất nước ḿnh hơn.

 

Lúc tàu cập bến Hải Pḥng, cảnh chiến tranh bắt đầu hiện ra trước mắt. Những dấu vết của vụ bắn phá Hài Pḥng cuối năm 1946 vẫn c̣n nguyên vẹn.

 

Dân Việt Nam ngoài bến tàu ra th́ rất thưa thớt. Chỉ có những khu phố của người Tàu và người Pháp là c̣n có vẻ đông đúc, thịnh vượng. Vừa bước lên bến tàu tôi đă biết ngay thế nào là nỗi nhục của một người dân nước nhỏ bị trị. Đáng buồn nhất, là chính một người Việt Nam nhắc nhở cho tôi cái nhục này.

 

Tôi đến pḥng nhà đoan để khai giấy tờ. Trên phiếu khai bằng tiếng Pháp, nơi ḍng ghi quốc tịch, tôi viết thật đậm nét hai tiếng: Việt Nam.

 

Người thư kư nhà đoan gạch hai chữ đỏ, nh́n tôi trâng tráo hỏi:

 

- Cha người Cochinchinois, Annamites hay Tonkinois? Tôi trừng mắt nh́n người thư kư nhà đoan, gắt giọng:

 

- Tôi người Việt Nam.

 

Người thư kư nhà đoan cau mày, mấp máy như sắp gắt gỏng với tôi, rồi chẳng hiểu sao lại mỉm cười, giải thích dài ḍng:

 

- Xin lỗi cha, lệnh quan trên bây giờ bắt buộc mọi người lên bến phải khai rơ là người Cochinchinois, Annamite du Centre, hay Tonkinois. Cha hiểu cho, đó chỉ là bệnh quan trên, chúng tôi có muốn bắt ép ai làm ǵ đâu.

 

Tôi chán ngán đau đớn:

 

- Quê tôi ở Hà Tĩnh, thầy ghi sao đó cũng được. Người thư kư nhà đoan viết nắn nót: Annamite du Centre. Tôi chua xót v́ hiểu ra âm mưu định gây chia rẽ Nam Bắc trở lại của người Pháp. Ḿnh không được quyền làm người Việt Nam nữa. Ḿnh phải bị bắt buộc làm người Trung kỳ, Bắc lỳ. Người Pháp muốn có 3 nước Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ!

 

Tôi lên ngay Hà Nội.

 

Đường xe lửa đă được tái lập ngay sau khi Pháp tái chiếm Hà Nội. Xe chạy thật chậm chạp, có lẽ chỉ khoảng năm chục cây số 1 giờ hay kém hơn. Từ cửa sổ toa xe lửa nh́n ra ngoài, những làng mạc hoang tàn, những khu nhà bị đốt cháy c̣n trơ nền, những nhà gạch đổ nát cho tôi biết chiến tranh đă là một sự thật mà từ đây tôi phải làm quen, phải hoà ḿnh vào. Tôi đến ở tại nhà Chung Hà Hội, nơi tôi đă từng sống ít lâu trước khi đi Pháp. Tôi bắt đầu làm quen lại với văn chương Việt Nam. Tôi đọc hầu hết những sách của Tự lực Văn đoàn. Khi hay tin tôi về nước, một số người Việt ở Pháp và những người biết tiếng tôi đôi chút lần lượt đến thăm, thỉnh thoảng mời tôi đến nhà họ chơi.

 

Tôi nhớ h́nh như người đầu tiên mà tôi gặp là Hoàng Bá Vinh c̣n được người Công giáo trong địa phận Vinh gọi là ông già Vinh. Tôi xin đóng một dấu ngoặc ở đây: ông già Vinh được gọi như thế không phải v́ ông nhiều tuổi, mà v́ ông từng học ở địa chủng viện ra và gần thụ phong Linh mục, th́ v́ một lư do nào đó bỏ dở con đường tu hành.

 

Đối với những người đó, người Công giáo địa phận Vinh gọi là "ông già" để tỏ ư kính trọng một chút.

 

Hoàng Bá Vinh lúc bấy giờ cầm đầu một nhóm thanh niên trẻ, hăng say lư tường, phần lớn người Công giáo đầy ḷng yêu nước, tuy không theo Việt Minh, nhưng nhất quyết không hợp tác với Pháp, đang hoạt động cho một giải pháp quốc gia thuần tuư.

 

Lănh tụ được tôn thờ nhất là ông Ngô Đ́nh Diệm. Trong này có anh Nguyễn Văn Châu, người Quảng B́nh, về sau làm Trung tá Giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lư, một thời được ông Diệm tin cậy. Ngoài ra, nếu tôi nhớ không lầm th́ có một anh chàng cao lớn, hơi gầy, đen, liều lĩnh, thật thà, là anh Hoàng Bá Linh.

 

Không rơ lúc đó anh đă đi học trường Hạ Sĩ Quan Pháp hay chưa, h́nh như là chưa th́ phải.

 

Hoàng Bá Vinh gặp tôi rất thường, và những lúc đó tôi với anh ta bàn về t́nh h́nh đất nước, nói đến những niềm hy vọng của mọi người Việt Nam, của những người Công giáo yêu nước.

 

 

19  Gặp các cộng sự viên đầu tiên của Ngô Đ́nh Diệm

 

Những ngày chủ nhật, có lúc tôi và mấy anh em đó ngồi lại nói chuyện rất lâu. Họ hỏi tôi về khuynh hướng, chủ trương của nước Pháp đối với Việt Nam. Tôi cũng thành thật nói cho họ biết những nhận xét của tôi: nước Pháp không thể dễ dàng trao trả độc lập cho Việt Nam, dù với nhân vật chính trị nào.

 

Ít lâu sau, một số nhà trí thức bất hợp tác với Pháp, vừa từ vùng Việt Minh trốn về đến gặp tôi như Hoàng Xuân Hăn, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Dương Đôn v.v… Họ là những người không có một lập trường hay một thái độ nào rơ rệt, dứt khoát.

 

Họ c̣n được gọi, đôi khi tự gọi là những nhà trí thức hay chính trị trùm chăn. Họ không chịu hợp tác với Việt Minh, có lẽ v́ họ thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản, không chấp nhận được chủ nghĩa cộng sản và những thủ đoạn đàn áp tôn giáo, trí thức, địa chủ của Việt Minh. Nhưng họ cũng không muốn hợp tác với Pháp. Nếu hỏi họ muốn làm ǵ, định làm ǵ, th́ họ không thể nào trả lời được, ngoài câu chờ xem.

 

Trong thời gian này tôi có gặp Nguyễn Thế Truyền. Thật là một điều đáng buồn cho tôi và cho cụ. Trước đây tôi từng nghe danh cụ Truyền, biết cụ viết bài tựa cho cuốn sách nhỏ của cụ Hồ: Le Procès de la colonisation Francaise. Lúc ở Pháp tôi nghe tiếng cụ khá lớn, nghe nhiều người ca tụng cụ. Tôi tưởng khi gặp cụ sẽ t́m được một cái ǵ mà tôi chờ đợi không gặp. Tôi gặp, nói chuyện với cụ một cách hết sức kính cẩn. Nhưng câu chuyện càng kéo dài, tôi không thấy được ǵ, ngoài một thời quá khứ đấu tranh của cụ.

 

Sau vài câu hỏi tôi nêu lên không được trả lời, tôi xoay qua một câu chuyện phiếm. Sau đó tôi không có ư mà cũng không c̣n t́m cách gặp lại cụ, dù hai người vẫn ở Hà Nội.

 

Khoảng cuối năm 1947, hai tháng sau khi tôi về Hà Nội th́ nghe tin ông Trần Văn Lư ra Hà Nội. Bấy giờ ông Trần Văn Lư ở trong hội đồng chấp chánh, và quyền thủ hiến Trung Phần. Ông Trần Văn Lư đến gặp tôi mời tôi và cha Bồng cùng về Huế với ông. Tôi nhận lời. Ông Lư trong câu chuyện có cho tôi thoáng thấy rằng sở dĩ ông ra làm việc với Pháp là v́ một cái thế bắt buộc.

 

Ông suy luận rằng không thể nào để cho miền Trung hỗn loạn măi được, hay hoàn toàn đặt dưới quyền cai trị hành chánh trực tiếp của người Pháp. Người Pháp chẳng thành thực ǵ, nhưng chúng ta yếu, chẳng có cách ǵ, theo Việt Minh th́ không được, vậy th́ phải tạm thời hợp tác với người Pháp trước rồi từ từ sẽ tính. Ông Lư có nhắc đến tên Ngô Đ́nh Diệm.

 

H́nh như chủ ư của ông Lư, du ông không nói cho tôi hay là chuẩn bị thời cơ để đưa ông Ngô Đ́nh Diệm giữ một chức vụ lănh đạo quan trọng nào đó, trong một thứ chính quyền mà người Pháp đang tính lập ra.

 

Tôi có nói chuyện hứa về Huế với các người quen như Hoàng Xuân Hăn, Nguyễn Mạnh Hà. Họ đều khuyên tôi chẳng nên về Huế mà làm ǵ, mà cũng chẳng nên hợp tác với những người đang hợp tác với Pháp như ông Lư.

 

Tôi nói mấy câu bênh vực sơ cho ông Lư, đại ư là không nên kết án ai vội, phải chờ xem hành động rồi xét đoán sau cũng không muộn. Tôi cho họ biết là tôi đă hứa về Huế, vậy th́ dù sao tôi cũng vào Huế rồi liệu sau. Tôi muốn vào Huế chẳng phải muốn làm việc ǵ với ông Lư mà chỉ muốn t́m cách trở về địa phận Vinh qua ngă Quăng Trị, Quảng B́nh, v́ lúc bấy giờ tôi nghe quân Pháp đă đổ bộ lên cửa sông Gianh, đă tiến ra sát đèo Ngang và đang dự định vượt đèo Ngang tiến ra Hà Tĩnh, Nghệ An.

 

Có người trong bọn Hoàng Xuân hăn, Nguyễn Mạnh Hà bày cho tôi cái kế là cứ giữ chỗ máy bay (lúc đó Pháp mới mở một đường bay đặc biệt dành cho quan khách, nhân vật quan trọng, dùng loại máy bay 1 và 2 động cơ), lên xe, rồi giả vờ cho xảy ra một tai nạn xe hơi, và tôi vào nằm nhà thương, thế là lỡ luôn chuyện về Huế với ông Lư. Tôi thấy chẳng cần phải bày tṛ này làm chi. Về Huế th́ đă sao?

 

Vả lại thâm tâm tôi cũng muốn được đi nhiều nơi, nh́n thấy nhiều điều, gặp gỡ nhiều người. Những nhà trí thức và chính trị trùm chăn làm cho tôi thất vọng khá nhiều. Họ chẳng đưa ra một giải pháp hay một kế hoạch nào rơ rệt. Họ chỉ ngồi chờ, gọi là trùm chăn mà chờ. Chờ ai chờ cái ǵ chính họ cũng chẳng biết. Khi th́ họ chờ ông Ngô Đ́nh Diệm, khi th́ họ chờ ông Bảo Đại, khi th́ họ mơ Cường Để trở về.

 

Tôi có gặp một người tên là Nguyễn Khuê. Đúng hơn Khuê nhờ Hoàng Bá Vinh dẫn đến gặp tôi. Vinh cho tôi biết Khuê làm thư kư riêng cho ông Ngô Đ́nh Diệm. Lần đầu vào gặp tôi, Khuê có vẻ lúng túng, khép nép. Tôi hỏi thăm mấy câu anh ta trả lời ấp úng. Lúc Khuê về, Hoàng Bá Vinh nói chuyện với tôi là Khuê thấy tôi nghiêm nghị, chẳng dám thưa chuyện ǵ. Tôi ngạc nhiên, đâu có biết ḿnh nghiêm nghị làm cho kẻ khác phải sợ.

 

Hôm sau, Vinh lại đưa Khuê đến và lần này th́ anh ta dạn dĩ hơn. Dĩ nhiên là Khuê ca tụng ông Diệm, khoe rằng lực lượng của ông Diệm khá lắm, và ông Diệm th́ có sẵn một giải pháp cho Việt Nam, một chủ nghĩa đương đầu được với chủ nghĩa cộng sản. Khuê trao cho tôi một tập giấy viết tay, chữ của ông Diệm, đoạn th́ viết bằng tiếng Pháp, đoạn th́ bằng tiếng Việt trong đó ông Diệm tŕnh bày cái giải pháp và cái chủ nghĩa của ông.

 

Trên phương diện một người khảo sát văn chương hay triết lư th́ tôi không thể nào phục cái gọi là chủ nghĩa xă hội quốc gia ǵ đó của ông Diệm được. Lập luận đôi khi lúng túng vấp váp chẳng có ǵ khúc chiết vững chắc. Đại để th́ tôi hiểu là ông Diệm chủ trương xây dựng một lực lượng quốc gia thuần tuư, không phải cộng sản, mà cũng không theo Pháp, nhưng cũng lại không chủ trương đánh Pháp, mà h́nh như là chủ trương một sự thương thuyết nào đó với Pháp, trên căn bản Pháp phải công nhận đương nhiên và trước hết nền độc lập, thống nhất, chủ quyền của Việt Nam từ Cà Mau đến Nam Quan.

 

Lư thuyết th́ không làm cho tôi phục được, nhưng cái tâm huyết của một người muốn t́m một đường đi cho quốc gia Việt Nam trong hoàn cảnh đặc biệt này th́ làm cho tôi thấy thương mến, kính trọng ông.

 

Cái lực lượng của ông Diệm mà Khuê đem ra khoe với tôi là khá mạnh, th́ tôi có nghe nói đến.

 

Nó vốn là nhóm thanh niên Nghệ Tĩnh B́nh do cha Huê thành lập từ năm 1941, với chủ trương ôn hoà, không đổ máu để dành lại độc lập từ tay người Pháp. Phong trào này định chọn Cường Để làm Minh Chủ và lúc thế lực Nhật mạnh th́ muốn mượn thế Nhất diệt Pháp. Về sau thời cuộc biến chuyển, giải pháp Cường Để xem ra không thích hợp, nhóm cha Huê chọn ông Diệm, quyên tiền giúp ông Diệm mở rộng tổ chức, mở những khoá huấn luyện bí mật cho một số cán bộ phần lớn người Công giáo trong vùng Nghệ Tĩnh B́nh. Năm 1945, cha Huê trốn vùng Việt Minh vào Nam để liên lạc với ông Diệm. Rồi vào đầu năm 1945, lúc trên đường từ Sài G̣n đi miền tây, không hiểu do một sứ mạng nào đó, xe cha Huê bị phục kích, và cha Huê tử nạn. Trong nhóm này có anh Hồ Hán Sơn, người Hà Tĩnh, nhỏ bé, nhưng hoạt động, có tài thu hút người đối thoại rất mau.

 

Sơn c̣n có biệt tài vận động và xách động quần chúng, nhất là thanh niên. Những hoạt động của Sơn có lúc bị mật thám Pháp chú ư nên Sơn đổi tên, lánh mặt, tạm thời dạy học ở một trường nhà xứ ở Quảng B́nh. Lúc này Sơn cũng ra Hà Nội, có đến gặp tôi vài lần. Sơn và Vinh là hai người mà tôi mến có thể nói là yêu quư và tin tưởng khá nhiều. Họ đều có nhiệt t́nh, hăng say và trung thành.

 

 

20 Huế điêu tàn và buồn thảm

 

Đă lỡ hứa với ông Trần Văn Lư, tôi vào Huế khoảng cuối năm 1947. Tôi ở lại Huế vài tháng, nói chuyện với ông Lư khá nhiều. Lúc này tôi cũng có cơ hội gặp một số người trong đó có ông Ngô Đ́nh Cẩn, Trần Điền, và dĩ nhiên là các cha sở Huế. Tôi ở lại Huế vài tháng, ông Lư đề nghị mời tôi làm giám đốc nha Văn hoá miền Trung, một nha chưa thành h́nh, có trách nhiệm như một bộ giáo dục thông tin thu hẹp mà ông Lư định thành lập. Ông Lư sống rất đơn giản gần như khắc khổ, mặc dù lúc bấy giờ uy quyền ông, sau người Pháp th́ khá lớn.

 

Uy quyền đó, vào tay người khác đă hét được ra lửa. Riêng với ông Lư, tôi phải công tâm mà nhận xét rằng trong thời gian quyền thủ hiến Trung Việt, ông Lư cố gắng làm những việc tốt, cứu giúp một vài người bị Tây t́nh nghi nhưng ông biết không phải cộng sản.

 

Tôi thấy t́nh thế không cho phép tôi hay bất cứ ai làm việc ǵ. Tôi từ chối và chú tâm lo việc đọc sách t́m hiểu, qua lại với những người mà tôi thấy có tâm huyết.

 

Dịp này tôi có gặp ông Ngô Đ́nh Cẩn một vài lần, nhưng không thân lắm, bà cụ Khả có vẻ mến tôi lắm, thường mỗi lần tôi đến thăm ông Cẩn, bà cụ hay chống gậy ra hỏi thăm dặn ḍ ông Cẩn làm các món ăm ngon đăi tôi. Bà cụ rất mộ đạo, và đôi khi ngồi lại nói chuyện đạo với tôi khá lâu.

 

Nhân một vài lúc rỗi rănh tôi có vào thăm thành nội Huế, bùi ngùi nh́n cung điện nhà Nguyễn nay hoang tàn, đổ nát. Tôi chợt nhớ đến Bảo Đại, người đang được nhắc đến khá nhiều ở Pháp những ngày tôi sắp về nước cũng như ở Việt Nam những tháng vừa qua.

 

Tôi không t́m thấy hy vọng đẹp đẽ nào ở con người đó, chẳng hiểu tại sao. Tôi chưa gặp Bảo Đại, chưa thấy Bảo Đại, và những ư nghĩ của tôi có tính cáhc linh cảm hay trực giác mà thôi. Tôi không một lúc nào tin tưởng dù mong manh rằng Bảo Đại sẽ làm được chuyện ǵ lớn lao xoay chuyển được t́nh thế đất nước xứng đáng đối thoại một mặt với nước Pháp, một mặt với Việt Minh, để trở thành một cơ hội qui tụ những người Việt Nam yêu nước không cộng sản nhưng không thể theo Pháp.

 

Nhận thấy ở tại Huế chẳng ích lợi ǵ, chẳng làm được việc ǵ, tôi tính về Quảng B́nh, thuộc địa phận Vinh.

 

Lúc bấy giờ quân Pháp đă đổ bộ lên cửa sông Gianh, tiến sâu vào đến hết huyện Quảng Trạch, Tuyên Hoá theo hai ngă sông Giang là Nguồn sơn và Nguồn nậy. Quân Pháp và lính bảo vệ đoàn đóng ở hai đồn lớn ở Quảng Khê và Ba Đồn. Những làng Công giáo bắt đầu nổi lên chống lại Việt Minh, xin súng Pháp lập đồng hương vệ trong làng. Tôi muốn t́m hiểu cái giải pháp này, cũng muốn sống trọn vẹn đời sống một Linh mục nên dứt khoát rời Huế đi Đồng Hới, rồi từ đây đi ca nô ra Quảng Khê lên Ba Đồn và về xứ Đan Sa.

 

Thời gian này tôi làm một cha xứ Đan Sa hết bổn phận, thay cha Dụng đă từ trần. Xứ Đan Sa, cũng như các xứ khác ở Hoà Ninh, Hướng Phương, Vĩnh Phước cũng lập đồn hương vệ, rào làng, xin súng Pháp để chống lại Việt Minh. Tôi không tin rằng giải pháp này là đúng, trái lại tôi lo sợ sẽ đem lại nhiều hậu quả tai hại hơn cho người Công giáo mà thôi, nhưng giáo dân có vẻ hăng say, tin tưởng.

 

Lúc đó nếu người Pháp thực tâm th́ t́nh thế không chừng có thể thay đổi, ít ra ở vùng tôi vừa đến, tức là vùng Quảng B́nh từ Đèo Ngang trở vô phía Nam. Nhưng chỉ ít lâu tôi biết ngay rằng người Pháp không thực tâm, mà cũng không có phương tiện, vũ khí để vơ trang đầy đủ cho dân làng nào muốn tự trị chống lại Việt Minh.

 

H́nh như bộ phận lănh đạo Việt Minh trong tỉnh Quảng B́nh, các huyện Quảng Trạch và Tuyên Hoá đă được báo cáo nhiều về tôi, nên thỉnh thoảng tôi nhận được một thư mời của Chính uỷ huyện Tuyên Hoá. Lời lẽ có vẻ tha thiết, tŕnh bày hơn thiệt, mời tôi hợp tác với chính phủ Việt Minh, tố cáo Pháp có những tội ác này nọ.

 

Tôi không hiểu rơ những thư mời này do tự ư Chính uỷ huyện bày ra, hay có chỉ thị từ trên. Tôi chẳng dám hy vọng rằng cụ Hồ c̣n nhớ đến tôi sau mấy lần gặp gỡ, chuyện tṛ, mặc dù tôi biết cụ có trí nhớ kỳ lạ. Cũng có những lá thư gần như là nhân danh cụ Hồ mời tôi nhưng tôi đoán điều đó chỉ là một thủ đoạn để vuốt ve tôi mà thôi.

 

Thời gian làm cha xứ ở Đan Sa tôi được cái an ủi là giúp đỡ dân chúng chẳng những về việc đạo, mà cả về những việc hết sức lẩm cẩm, bất ngờ, như chữa bệnh cảm gió cho một người đàn bà, bày thuốc giục đẻ cho ḅ cái.

 

Sau gần một năm, tôi lên Hướng Phương, tức là nơi cai quản các xứ Công giáo trong hạt Quảng B́nh thuộc địa phận Vinh (bên kia sông Gianh về phía Nam th́ lại thuộc địa phận Huế). Lúc này tôi thường nhận được thư mời của Chính uỷ huyện Tuyên Hoá hơn trước, và cạnh những lời mời mọc, thỉnh thoảng có những đoạn ngụ ư đe doạ.

 

Tôi tŕnh bày với các cha về cách rào làng chống Việt Minh như thế này xem chừng không bền vững được, thà rằng chấp nhận sống như mọi người khác, không lẽ Việt Minh lại giết hết người Công giáo được sao, nhất là trong lúc họ cần thu phục ḷng dân để đánh Pháp. Một vài cha đồng ư điều đó, nhưng nói rằng các giáo dân không chịu.

 

Tôi và cha Khẩn bàn nhau nên nói thẳng, hỏi ư định của người Pháp, và cho biết nếu họ thành thực giúp đỡ th́ họ phải cho thêm súng ống, phương tiện xứng đáng. Tôi thay mặt các Cha đi Đồng Hới tŕnh bày câu chuyện với đại tá cai quản vùng Quảng B́nh. Ông nói thẳng là người Pháp không thể làm hơn được, mà cũng không đủ tin tưởng người Việt Nam, dù là ai để vơ trang thêm.

 

Vào tháng tư 1948 có tin vua Bảo Đại về nước, và dân chúng những vùng Tây chiếm được kêu gọi dân lên huyện Ba Đồn tụ họp để nghe đọc hiệu triệu của hoàng đế. Tôi được cử làm đại diện dân chúng đi họp ở Ba Đồn. Trong lời hiệu triệu, tôi không thấy điều ǵ lạ, đáng mừng.

 

 

21 Câu chuyện bên ḷ sưởi năm 1948

 

Tôi đi ca nô từ Quảng Khê vào Đồng Hới, mua vé máy bay vào Huế. V́ đường bộ và đường thuỷ bị cắt đoạn, người Pháp thời bấy giờ mở một đường máy bay từ Sài G̣n ra Hà Nội, lên Nam Vang, Vạn Tượng.

 

Vào Huế chưa được bao lâu, khoảng một tháng, th́ Bửu Lộc đánh điện mời tôi lên gặp hoàng đế Bảo Đại, và ư chừng muốn nhờ toi thuyết phục ông Ngô Đ́nh Diệm ra thành lập một chính phủ qui tụ được những người quốc gia chân chính, có uy tín, có tài năng.

 

Đi cùng chuyến máy bay đặc biệt của quân đội Pháp, mà Bửu Lộc xoay sở để đem ra Huế dành riêng chở tôi và cụ Đoàn Nậm, một nhân sĩ ở Huế.

 

Lên Đà Lạt, tôi t́m đến ông Ngô Đ́nh Diệm ngay. Lúc đó ông Diệm ở trong biệt thự của ông Nhu. Đây là lần đầu tiên tôi gặp ông Diệm, nhưng đă biết tiếng ông từ khi ông làm thượng thư, rồi từ chức và mới đây qua những lời ca tụng của các cộng sự viên của ông như Hoàng Bá Vinh, Nguyễn Khuê, Nguyễn Văn Châu, các cha và giới Công giáo, cũng như nhiều thành phần quốc gia tôi được tiếp xúc cũng hay nhắc đến ông Diệm, và tỏ vẻ tin tưởng, kính phục ông. Với những cảm t́nh có sẵn đó tôi chỉ định đến gặp thăm hỏi, làm quen và t́m hiểu ông Diệm mà thôi, chớ không có ư định rơ rệt nào.

 

Trời Đà Lạt lạnh, ông Diệm bận bộ đồ com lê ngồi đọc sách trong sa lông, sát bên ḷ sưởi. Ông Diệm thân mật, tươi cười đứng lên mời tôi ngồi xuống chiếc ghế bành cạnh ông, hỏi han tôi về những cảm tưởng, nhận xét của tôi lúc về nước. Tôi tỏ ư lo sợ, xót xa cho đất nước, v́ t́nh trạng chiến tranh, v́ âm mưu của người Pháp, v́ sự chia rẽ nội bộ hàng ngũ quốc gia, v́ hiểm hoạ cộng sản. Ông Diệm ít nói, gật gù có vẻ tán đồng. Tôi vào ngay đề:

 

- Thưa cụ, bây giờ người Pháp đă đưa hoàng đế Bảo Đại về lập lại triều đ́nh nhà Nguyễn, cụ có định ra lập chính phủ không? Ông Diệm lắc đầu, nh́n đăm đăm vào bếp lửa:

 

- Trước cha, vài người cũng đă hỏi tôi điều đó. Thực ra th́ tôi không nên trả lời v́ Bảo Đại hoặc người của ngài chưa nói ǵ với tôi một cách chính thức về điều đó. Theo tôi th́ không thể nào ra lập chính phủ lúc này được. Cha cũng hiểu rồi đó. Thoả hiệp Vịnh Hạ Long đă không đem lại độc lập và thống nhất chân chính cho Việt Nam. Quân đội Pháp, Cao uỷ Pháp đang nắm mọi quyền hành chính trị, quân sự. Về ngoại giao th́ Việt Nam bị giới hạn, chỉ được phép đặt đại diện ở ba nơi là Ba-Lê, Hoa-thịnh-đốn và Luân-đôn.

 

Như thế chủ quyền ngoại giao hoàn toàn không có, hoàn toàn trong tay người Pháp. Điều thứ hai nữa ít người để ư là người Pháp lập ra Hoàng Triều Cương Thổ để biến tất cả vùng cao nguyên Trung và Nam Phần thành đất thuộc địa trực tiếp của Pháp.

 

Ông Diệm trầm ngâm một lúc. Tôi vẫn im lặng. Những lời ông nói ra nửa như suy tư, nửa như phân trần với tôi:

 

- Vùng cao nguyên này có một tầm quan trọng lớn về chiến lược và kinh tế. Về chiến lược, nó nằm ở giữa ba quốc gia Việt, Miên, Lào. Ai chiếm giữ được cao nguyên này có thể gây áp lực đước đối với cả ba quốc gia đó.

 

Người Pháp gọi vùng cao nguyên là Hoàng Triều Cương Thổ chỉ là một lối trá h́nh, trên thực tế chủ tâm của họ là biến vùng này thành thuộc địa Pháp. Về mặt kinh tế, th́ vùng cao nguyên hết sức quan trọng đối với Việt Nam trong tương lai. Ở đó chắc chắn có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhiều khoáng sản chưa được khám phá và khai thác, nhưng chúng ta cần phải bảo vệ cho Việt Nam.

 

Rồi c̣n vấn đề thể diện quốc gia, chủ quyền quốc gia nữa. Không thể bỗng dưng nhường cho Pháp một vùng đất quan trọng như thế, nằm ngay giữa lănh thổ quốc gia, người Việt Nam nào muốn lên lại phải xin thông hành!

 

Tôi chợt nhớ đến một cuốn sách khảo luận về địa dư Đông Pháp, không nhớ rơ tác giả, và tôi đem những ư kiến được nêu lên trong tập sách này tŕnh bày lại với cụ Diệm:

 

- Cụ nói đúng. Tôi có đọc một cuốn sách viết đại ư rằng Pháp muốn ngăn chặn sức bành trướng của dân tộc Việt Nam về phía Tây, muốn để dân tộc Việt Nam dừng lại ở các miền duyên hải, c̣n Pháp th́ phải giữ vững vùng cao nguyên Trường Sơn, vừa để ngăn chặn sức bành trướng của dân tộc Việt Nam, vừa canh pḥng phía Lào. Như vậy khi lập Hoàng Triều Cương Thổ, đặt trực thuộc Pháp, th́ Pháp đă bắt đầu thi hành đúng cái chính sách đó rồi.

 

Cụ Diệm chậm răi:

 

- Trong một vài trường hợp, ḿnh có thể tính chuyện hợp tác với người Pháp trên căn bản thoả hiệp vịnh Hạ Long, với một điều kiện: Bảo Đại không phải là Bảo Đại.

 

Cụ Diệm có vẻ khoái trá với câu nói ư nhị đó, hơi mỉm cười. Tôi hiểu ư cụ, cũng mỉm cười. Cụ Diệm lại tiếp:

 

- Nhưng chuyện đó không thể xảy ra được. Bảo Đại là Bảo Đại tức là một người, th́ chúng ta có thể dùng thoả hiệp vịnh Hạ Long làm bàn đạp để tranh đấu từ ôn hoà đ̣i hỏi thêm những chủ quyền khác mà người Pháp chưa chịu trao trả. Với ai th́ được, nhưng với Bảo Đại th́ không thể được. Dù có thiện chí đến mấy cũng vô ích thôi. Bảo Đại chỉ thích nghi lễ, h́nh thức, bề ngoài lại ham săn bắn, ăn chơi, không có tinh thần trách nhiệm đối với sứ mạng lănh đạo của ông.

 

Giả sử tôi ra lập nội các với Ngài th́ sẽ xảy ra đổ vỡ rất mau. Và dĩ nhiên lúc này th́ tôi là phải chịu ra đi, chịu thiệt tḥi, v́ Pháp c̣n coi nặng lá bài Bảo Đại lắm.

 

Tôi thán phục những nhận định sáng suốt, chính xác của ông Diệm, hỏi thêm:

 

- Thưa cụ, như vậy bây giờ cụ không ra lập nội các, th́ theo cụ bao giờ mới có cơ hội tốt để đem ra một giài pháp hoàn toàn quốc gia?

 

Cụ Diệm nh́n tôi như trách rằng tôi cũng đă biết như cụ rồi mà c̣n hỏi làm chi:

 

- Bên Tàu đằng nào th́ Mao Trạch Đông cũng thắng Tưởng Giới Thạch. Mỹ muốn cho họ Tưởng thoả hiệp chia đất hay chia quyền với Mao cho yên chuyện Trung Hoa lục địa. Quân cộng sản tàu thẳng tiến đến biên giới Bắc Việt Nam, quân Việt Minh được sự giúp đỡ trực tiếp của quân cộng sản Tàu, sẽ mạnh lên, quân Pháp sẽ gặp khó khăn, lúc đó th́ cả Pháp và Bảo Đại sẽ lạy lục người nào đưa ra được một giải pháp quốc gia chân chính. Lúc đó ra cũng chưa muộn.

 

Tôi đứng lên chào ông Diệm định ra về, chợt nhớ rằng đây là nhà của ông Nhu.

 

Tôi hỏi ông Nhu và được ông Diệm cho biết là ông Nhu đang ở pḥng trong. Tôi tiến vào. Đây là một căn pḥng rộng, giữa kê một chiếc bàn dài, có lẽ là bàn ăn, một góc kê chiếc đàn dương cầm. Sát tường có bộ sa lông và mấy chiếc bàn nhỏ, thấp. Ông Nhu ngồi trên chiếc ghếh sa lông đó. Ông Nhu mặc chiếc áo len dày cao cổ. Con gái đầu ḷng của ông là Lệ Thuỷ đang ngồi trên chiếc bàn dài, học bài. Bà Nhu mặc áo dài màu xanh đậm đứng bên con gái la mắng Lệ Thuỷ v́ Lệ Thuỷ làm bài không đúng ư bà.

 

Câu chuyện giữa tôi và ông Nhu cũng tương tự như câu chuyện với ông Diệm. Giọng nói ông Nhu chậm răi, rắn rỏi, đầy tin tưởng. Chợt giữa câu chuyện bà Nhu la lớn mắng Lệ Thuỷ. Tôi quên nói một điều là từ đầu tôi chỉ nghe bà Nhu nói tiếng Pháp thôi.

 

Ông Nhu cau mày:

 

- Ḿnh làm ǵ thế, có cha Luận đến thăm đây này.

 

Ông Nhu nói với vợ bằng tiếng Việt. Bà Nhu không nghe, cứ tiếp tục mắng con, và bằng tiếng Pháp. Ông Nhu thở dài, lắc đầu khẽ:

 

- Thôi cha, chúng ḿnh sang pḥng bên cạnh nói chuyện bớt ồn ào hơn.

 

Tôi và ông Nhu bước sang pḥng khác. Ông Nhu khép cửa lại, tuy vậy những tiếng la hét của bà Nhu bên pḥng vẫn c̣n vọng sang được.

 

Câu chuyện tiếp tục, và ông Nhu cũng nhận định rằng lúc này ra chấp chánh chưa thuận lợi lắm, sẽ bị tràn ngập v́ những khó khăn không giải quyết nổi. Tôi cũng góp ư đại để là nếu v́ nóng ḷng, vội vàng quá mà ra chấp chánh lúc chưa thuận tiện, th́ chẳng những không được việc ǵ mà tiêu tan luôn cả vốn liếng danh dự và sự nghiệp chính trị tương lai của ḿnh. Ông Nhu có vẻ thấm thía cái ư đó, gật gù. Tôi hẹn thế nào cũng đến thăm hai anh em ông lần khác.

 

Ông có vẻ mến tôi, và khi từ giă ra về, tôi bước qua pḥng khách, ông Diệm vẫn đang ngồi ở đó đọc một tờ báo tiếng Pháp. Cả hai người cùng bắt tay tôi và đưa tôi ra cửa.

 

 

22 Bảo Đại: Con người chán chường và thấm mệt

 

Hôm sau tôi được Bửu Lộc cho người đến mời đi yết kiến hoàng đế Bảo Đại.

 

Biệt điện của Bảo Đại ở Đà Lạt nằm trên ngọn đồi thông. Phong cảnh thật đẹp, và dinh thự hết sức sang trọng. Lúc tôi được dẫn vào pḥng khách, th́ chỉ có một thư kư riêng ra tiếp, mời ngồi rồi vào trong tŕnh lại với hoàng đế Bảo Đại. Lát sau, Bảo Đại ra, bước chậm chạp, dáng mệt nhọc. Ông bận âu phục xám, bước thẳng đến chỗ tôi đứng, bắt tay mời ngồi, lấy thuốc mời hút. Tôi nói mấy câu chúc mừng theo phép lịch sự, Bảo Đại chậm răi nói, có vẻ phân trần:

 

- Sở dĩ tôi chấp nhận về nước làm việc cho quốc gia là v́ thấy rằng nước Pháp đă chịu nhượng bộ khá nhiều. Thoả ước vịnh Hạ Long tuy không đem lại cho chúng ta tất cả những ǵ chúng ta đ̣i hỏi, nhưng chúng ta có thể dựa lên đó để tranh đấu thêm, đ̣i hỏi thêm. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng bây giờ là tạo ra cái cớ, cái nơi, cái cơ hội để những người quốc gia chân chính qui tụ lại với nhau mà làm việc. Nhưng thật là khó khăn, người quốc gia th́ ngờ vực nhiều quá, mà Pháp th́ chỗ nào cũng chỉ muốn dùng những tay chân thân tín của họ mà thôi.

 

Tôi đoán chừng ư của Bảo Đại là muốn tôi nhắc đến tên một vài nhân vật quốc gia, chẳng hạn Ngô Đ́nh Diệm. Tôi cũng đoán chừng rằng ông đă biết tôi vừa gặp ông Diệm hôm trước, và tôi quen biết những cộng sự viên thân tín của ông Diệm. Nhưng tôi th́ không muốn nói đến tên ông Diệm trước. Tôi muốn chính Bảo Đại phải dứt khoát và nói ra ư nghĩ thành thật nhất của ông.

 

Nhưng câu chuyện vẫn trôi trên những đề tài chung, không nhắc đến tên tuổi một người nào. Có lúc Bảo Đại than phiền:

 

- Lúc mới về nước tôi đặt nhiều hy vọng vào sự hợp tác của các nhân vật quốc gia chân chính. Tôi có ngỏ ư mời họ nhưng phần đông đều từ chối hoặc đ̣i hỏi những điều kiện quá lư tưởng không thể nào tạo ra được trong hoàn cảnh này.

 

Câu chuyện kéo dài được vài phút th́ Bảo Đại có vẻ mệt nhọc lắm, nằm chuôi dài người ra trên chiếc ghế bành. Tôi thấy kéo dài thêm chẳng ích lợi, đứng lên kiếu từ:

 

- Tôi xin cầu chúc Ngài thành công. Tôi là một tu sĩ, không biết làm ǵ để giúp, nhưng nếu có thể làm được việc hữu ích th́ tôi xin sẵn ḷng.

 

 

23 Cha Houssa, người đưa ông Diệm vào chính trường Mỹ

 

Trong những ngày lưu tại Đà Lạt, tôi gặp thêm ông Diệm và ông Nhu mấy lần. Phan Xứng dành cho tôi một chiếc xe để đi lại. Và chiếc xe này một hôm đă gây ra một tai nạn tưởng đâu tôi thoát chết th́ cũng bị thương nặnt. Trời mưa lớn, chiếc xe đang xuống dốc th́ gặp một xe ngựa đi lên nghênh ngang giữa đường. Tài xế v́ tránh xe ngựa, lao xuống dốc. Tôi không biết ǵ nữa ngất xỉu đi. Lúc tỉnh lại th́ thấy ḿnh nằm trên đám cỏ chỉ bị ê ẩm ḿnh mẩy, trầy trụa sơ sơ, phải vào nhà thương băng bó.

 

Tôi về Huế ở lại ít lâu, đến thăm ông Cẩn vài lần rồi cảm thấy t́nh thế không có nhiều biến chuyển, tôi ra lại Hướng Phương (Quảng B́nh) giữ nhiệm vụ đi giảng tại các xứ đạo. Cũng như lần trước, tôi nhận thấy cái lối rào làng, dựa vào vài khẩu súng cũ kỹ của Pháp cho mà chống lại Việt Minh không thể thành công được. Quanh Hướng Phương, các làng lân cận đều theo Việt Minh, như Pháp Kệ, Trung Thuần. Người Pháp lại không thực tâm giúp đỡ dân chúng chống cộng.

 

Không có một sự phối hợp nào giữa quân Pháp và các làng tự vệ hay giữa các làng tự vệ với nhau. Nh́n tương lai, tôi thấy thật là đen tối. Trong một lần được cử đi gặp đại tá Pháp chỉ huy vùng Quảng B́nh, tôi được ông nói thẳng là toàn tỉnh Quảng B́nh Pháp chỉ có thể tuyển mộ và vơ trang cho 2.000 lính bảo vệ. Tôi về tŕnh bày với cha chính xứ là cha Khẩn. Vào khoảng mùa hè năm 1949, Hướng Phương lại gặp nạn đói, và bệnh dịch bắt đầu phát xuất.

 

Lúc này tôi cũng nhận được nhiều lá thư mời đi họp đầy những lời đe doạ, kư tên chủ tịch huyện Tuyên Hoá là Nguyễn Dần.

 

Tôi nghĩ rằng ḿnh không thể bó tay ngồi chờ được nên xin với cha Khẩn cho vào Huế dạy học, ít ra tôi có thể kiếm được ít tiền bạc mua thuốc men giúp đỡ dân chúng hoặc là tŕnh bày t́nh trạng vùng Quảng B́nh với những người có trách nhiệm ở Huế. Tôi rời Hướng Phương vào Huế đầu niên học 1949 tức là khoảng tháng 9 hay tháng 10. Lớp triết đầu tiên vừa được mở tại trường Quốc học Huế.

 

Tôi phụ trách dạy Triết, và tôi c̣n nhớ người học tṛ chăm nhất là Âu Ngọc Hồ.

 

Ngoài việc t́m cách giúp đỡ giáo dân Hướng Phương tôi viết sách, và liên lạc với Emmanuel Jacques Houssa người Bỉ, từng sống ở Phát Diệm từ 1939 đến 1945, tổ chức cho sinh viên Việt Nam du học nước ngoài. Sở dĩ tôi phải nhắc đến cha Houssa là v́ hai lư do: thứ nhất ông là ân nhân của nhiều nhân tài Việt Nam, giúp đỡ cho nhiều sinh viên du học nên người, thứ hai chính ông đă giúp đỡ ông Diệm, và những sinh viên mà ông giúp học hành đỗ đạt về sau trở thành cán bộ của ông Diệm. Có thể nói rằng nếu không có cha Houssa th́ số phận Việt Nam không chừng đă khác.

 

Tôi gặp cha Houssa ở Ba-Lê vào năm 1946. Ông bàn với tôi rằng vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam là vấn đề cán bộ. Cán bộ hiểu theo nghĩa rộng là lớp người có trách nhiệm làm cho xă hội tiến bộ. Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh, xâu xé, nghèo đói chậm tiến, không thể đào tạo cán bộ ngay trong nước, vậy phải t́m cách gửi những thanh niên ưu tú đi du học.

 

Tôi hoàn toàn đồng ư và bàn với cha Houssa là khi về nước tôi sẽ t́m cách để đưa thanh niên Việt Nam ra khỏi nước, c̣n cha Houssa th́ lo cho thanh niên Việt Nam ở ngoại quốc có thể ăn học. Cha Houssa cũng nói rằng nước Bỉ, quê hương của cha nhỏ bé, không tạo được ảnh hưởng ǵ lớn trên quốc tế, và dù có Hoa Kỳ là đủ sức giúp đỡ Việt Nam. Cha Houssa đă cho tôi biết ư định sang Mỹ của ông từ năm 1946.

 

Lúc tôi vào Huế dạy ở trường Quốc Học, năm 1949, tôi gửi thư liên lạc lại thường xuyên với cha Houssa lúc bấy giờ ở Mỹ. Ông cho tôi biết ông đă vận động để xin cho các thanh niên Việt Nam một số học bổng ở các đại học Công giáo. Ngay năm 1950, nghĩa là khi lớp triết đầu tiên của trường Quốc Học thi xong, tôi chọn một vài thanh niên ưu tú như Âu Ngọc Hồ, Nguyễn Văn Mừng, Nguyễn Thị Quưt, Vơ Thị Hồng Phúc, Phạm Đăng Tải, Phùng Viết Xuân gửi sang Mỹ gặp cha Houssa.

 

Ở Việt Nam th́ nhờ bác sĩ Hồ Quang Phước giúp đỡ công việc xin thông hành xuất ngoại. Bên Mỹ th́ tại Nữu Ước có ông Bùi Công Văn đón tiếp, hướng dẫn c̣n nếu sang ngă Thái B́nh Dương, đến Saint Francisco th́ có ông bác sĩ Nguyễn Thành Nguyên giúp đỡ.

 

Cũng trong năm đó, ông Diệm lấy cớ đi dự năm Thánh để xuất ngoại.

 

Nhờ sự giới thiệu của cha Houssa, ông Diệm được tiếp đón tại ḍng tu Maryknoll thuộc tiểu bang Maryland. Cũng qua sự giới thiệu của cha Houssa và các sinh viên Việt Nam đă sang Mỹ từ trước, ông Diệm lần lượt đi diễn thuyết tại các Đại Học lớn ở Mỹ, như đại học Cornell.

 

Tiếng tăm ông Diệm bắt đầu đước chính giới người đế ư cũng nhờ đó, bào chí Mỹ thỉnh thoảng cũng phỏng vấn ông Diệm. Trong thời gian này, hai người giúp đỡ ông Diệm đắc lực nhất là ông Đỗ Vạn Lư, làm bộ Quốc pḥng Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn và ông Bùi Công Văn làm cho đài tiếng nói Hoa Kỳ ở Nữu Ước.

 

 

24 Ngô Đ́nh Cẩn, người có trí nhớ phi thường

 

Lúc tôi vào Huế lần đầu tiên, từ Hà Nội theo ông Lư, tôi có được ông Cẩn cho người đến mời tôi sang nhà ông nói chuyện. Lần đó tôi đă đến gặp ông vài lần. Lần thứ hai vào Huế dể đi Đà Lạt, tôi củng ghé qua thăm hỏi ông Cẩn, và dĩ nhiên, lần này vào dạy học ở Huế, tôi hay đến nói chuyện với ông Cẩn. Về sau ông Cẩn xin phép Đức Giám mục để tôi đến làm lễ tại nhà ông mỗi chủ nhật.

 

Những câu chuyện thay đổi giữa tôi và ông Cẩn gồm đủ các thứ chuyện, từ chuyện nuôi chim chuyện quá khứ đến chuyện chính trị. Ông Cẩn có ḷng kính phục yêu mến ông Diệm hết ḿnh nhưng h́nh như lại có vẻ không ưa bà Nhu và v́ khi nhắc đến ông Nhu th́ ông tỏ vẻ không thích thú lắm. Câu chuyện mà ông Cẩn hay nói nhất, là những giai thoại vui vui giữa ông Khôi, ông Diệm.

 

Lúc bấy giờ ông Khôi và con cả của ông bị Việt Minh giết, chưa t́m ra xác. Mỗi lần nhắc đến ông Khôi mặt ông Cẩn buồn buồn rồi đanh rắn lại đầy căm phẫn. Ư thức quốc gia dân tộc ở ông Cẩn mơ hồ, không rơ rệt, sáng sủa như ông Diệm, ông Nhu, nhưng ḷng căm thù cộng sản ở ông Cẩn lớn lắm có lẽ v́ ông không quên được cái chết của cha con ông Ngô Đ́nh Khôi, người anh cả mà ông tôn kính, thán phục.

 

Ông Cẩn dành nhiều th́ giờ để hoạt động chính trị. Nhiều nhân vật quốc gia đón gió biết trước sau ông Diệm cũng được mời ra chấp chánh, mon men t́m đến ông Cẩn. Nhiều người biết Pháp Cẩn nể tôi đă nhờ tôi giới thiệu với ông Cẩn, trong đó có một thanh niên trẻ, học luật tên là LTQ.

 

Ông Cẩn bắt đầu thu phục một số cán bộ, dùng những buổi gặp gỡ, nói chuyện để học hỏi với nhau đọc những lá thư từ Mỹ của ông Diệm gửi về, hay một số tài liệu hiếm hoi do ông Diệm biên soạn. Về sau ông Nhu thường gửi các tài liệu chính trị ra cho các cán bộ ở Huế đọc.

 

Trong số những người hay qua lại nhà ông Cẩn khoảng 1949 trở đi, tôi thấy có Trần Điền, Nguyễn Trân, Đỗ Mậu, ông Vinh (Đại tá). Tôi cũng có làm quen với những người này.

 

Mỗi chủ nhật, tôi đến nhà ông Cẩn ngay dưới cái dốc đi lên nhà thờ Phú Cam làm lễ, trong một nhà nguyện nhỏ chưng bày đơn sơ nhưng trang trọng. Bà cụ Khả có một bàn quỳ lót nệm. Ông Cẩn quỳ bên cạnh. Thỉnh thoảng bà Cả lễ, đứa con gái lớn của bà lúc bấy giờ khoảng 14 tuổi, những lúc nghỉ hè cũng theo mẹ đến dự lễ.

 

Xong lễ, ông Cẩn mời tôi ở lại nói chuyện khá lâu, nhiều hôm suốt cả buổi sáng. Ông cười nói rằng nếu tôi không ở lại ăn sáng với ông th́ bà cụ (Khà) sẽ la ông. Bà cụ Khả rất mộ đạo, thường quỳ lạy cầu nguyện trong nhà thờ khá lâu. Có lúc tôi và ông Cẩn ngồi nói chuyện một lúc, bà mới ra khỏi nhà nguyện, đến thăm hỏi tôi. Bà săn sóc đến bữa ăn sáng của tôi, thường hỏi ông Cẩn hôm ni làm ǵ cho cha Luận ăn sáng. Cái món mà bà cụ muốn người nhà nấu cho tôi dùng, v́ theo bà đó là món bổ nhất, ngon nhất, là cháo bồ câu. Nhà ông Cẩn rộng, nuôi được nhiều bồ câu. Bà Khả la người đàn bà Việt Nam gương mẫu, chỉ biết lo lắng cho con cái.

 

Cái chết của cha con ông Khôi làm cho bà đau khổ vô cùng, và từ đó bà ít khi vui cười được. Bà không bao giờ nói đến chuyện chính trị, bà chỉ cần biết đến sức khỏe của các con cháu bà mà thôi. Thường th́ bà mặc áo bà ba trắng hay nâu. Ngày chủ nhật, bà mặc áo dài, thường bằng hàng gấm, đoạn, hay nhung. Bà nói ngày chủ nhật phải tỏ ra kính Chúa như vậy.

 

Ông Cẩn thường mặc áo màu đen, những lúc ông cho là làm tốt, th́ ông mặc áo dài the hai lớp. Ông sống rất đơn giản, thanh bạch, ăn trầu hút thuốc lá vấn. Trong mọi việc ông Cẩn không bao giờ ghi chép cũng không dùng thư kư riêng để ghi chép bất cứ điều ǵ. Nhưng ông có trí nhớ kỳ lạ.

 

Tôi c̣n nhớ một câu chuyện nhỏ làm tôi phục cái trí nhớ phi thường của ông. Một hôn có một cậu thanh niên là LTQ đến nhờ tôi dẫn đến giới thiệu với ông Cẩn. Tôi thấy anh ta thông minh, mặt mũi sáng sủa, cũng có thiện cảm. Một hôm sau lễ chủ nhật, tôi nhắc đến tên anh ta với ông Cẩn, và xin ông hôm khác cho hắn lên tŕnh diện ông Cẩn, xem ông dùng hắn được việc chi không.

 

Hai tháng sau, trong một buổi họp mặt khá đông người, bàn chuyện mở rộng hoạt động chính trị trong miền Trung, một người khác, tôi không nhớ là ai, lên tiếng giới thiệu anh LTQ lúc đó đứng trong đám đông vây quanh ông Cẩn.

 

Ông Cẩn nh́n anh ta:

 

- À chú là LTQ hả? Cách đây hai tháng, cha Luận có giới thiệu anh với tui. Chú muốn hoạt động hả. Được, đễ tui giúp cho.

 

Một lần khác, anh Lê Mộng Hoàng, một trong số sinh viên tôi giới thiệu đă đi du họcở Pháp về, cùng tôi đến gặp ông Cẩn, cũng với ư định giới thiệu Hoàng với ông Cẩn. Nghe nói đến Lê Mộng Hoàng, ông Cẩn sực nhớ ra điều ǵ, hỏi gốc gác, cha mẹ, rồi cười vui vẻ:

 

- Ḿnh nhớ ra rồi. Bố chú mi trước làm tri huyện, nhà ở chợ Cống. Hồi nhỏ ḿnh hay chạy sang phía đó bắt chim gặp bố ḿnh hoài, nhưng lúc đó ḿnh chưa sinh ra?

 

Một hôm khác, tôi nói chuyện với ông về việc trở lại đạo của em vợ Trần Điền. Ông Cẩn nhớ và nhắc ngay:

 

- Bố của cô ấy làm tri huyện Hương Thuỷ phải không? Hồi đó bố cô thua bạc hết cả tiền thuế, sợ bị tội, giả gây ra tai nạn ô tô ở Phú Bài để khai bậy chạy tội đó, chắc cô không biết mô.

 

Những mẫu chuyện này đủ chứng minh trí nhớ phi thường của ông Cẩn nhưng cũng v́ trí nhớ đó cho nên ông thường nặng thành kiến, ân oán rất phân minh. Ông đă không tin ai, th́ khó có cách ǵ làm cho ông đổi ư kiến. Ông đă ghét ai, th́ cũng không làm thế nào để ông có thể ngơ được.

 

Khoảng thời gian này, Phan Văn Giáo được Bảo Đại cho làm thủ hiến Trung Phần. Tôi chỉ thỉnh thoảng gặp trong các buổi lễ công cộng và không một lần nào tôi có ư định làm quen nhiều với ông Giáo, có lẽ v́ tư cách của ông không làm cho tôi kính phục được chút nào. Những chuyện tốt xâu, và h́nh như xấu nhiều hơn tốt của ông Giáo làm trong thời kỳ làm thủ hiến Trung Phần, th́ tôi cũng chỉ nghe dân chúng ta thán, đồn đại không để ư mấy. Mấy đứa học tṛ, hay mấy người quen có nhắc đến, th́ tôi cũng chẳng để vào tai làm ǵ.

 

Theo chỗ tôi biết, giữa ông Cẩn và ông Giáo lúc bấy giờ đôi bên gờm nhau hơn là thân nhau. Một vài cán bộ của ông Cẩn tuy làm việc trong chính quyền tức là dưới quyền ông Giáo nhưng cũng không phục ông Giáo. Có lẽ biết chẳng có ai theo ḿnh, kính phục ḿnh, ông Giáo lo làm giàu, lo chơi hưởng thụ hơn là lo làm việc ích quốc lợi dân.

 

Nhưng ông có tài ăn nói trôi chảy. Phần nhiều những lần ra trước công chúng, ông thường ứng khẩu các diễn văn ngắn, có lúc ông nói hay đến nỗi nhiều người cảm động. Tôi nhớ một lần khánh thành quân y viện Mang Cá. Ông Giáo nói cách chi hay đến nỗi nhiều người sụt sùi khóc, thương cảm cho số phận các thương bệnh binh.

 

Trong thời gian này nhiều biến chuyển quan trọng xảy ra trong nước và ở ngoại quốc. Quân Cộng sản Trung Hoa đă chiếm trọn lục địa, đuổi Tưởng Giới Thạch ra Đài Loan, Đài Phát thanh Việt Minh loan báo Trung Cộng, rồi Nga Sô đă nh́n nhận chính phủ Việt Minh. Phái bộ đại diện của chính phủ Việt Minh tại Pháp do ông Trần Ngọc Danh cầm đầu rời Ba-Lê, huỷ bỏ phái bộ, và lên đường sang Tiệp Khắc.

 

Hành động này đánh dấu sự tan vỡ ngoại giao một cách chính thức giữa Pháp và Việt Minh. Mọi hy vọng thương thuyết với Việt Minh kể như tan vỡ hết.

 

Trên chiến trường quân Việt Minh lần lượt chiến thắng ở Cao Bằng, Lạng Sơn buộc quân Pháp rút khỏi hai tỉnh này, và biến trọn vùng cao nguyên Bắc Việt thành khu giải phóng dưới quyền chính phủ Việt Minh. Đài Hà Nội bắt đầu khoe khoang, sẽ ăn tết ở Hà Nội.

 

Chính quyền Bảo Đại, nhờ quân Pháp, và cũng nhờ bộ máy công an khá hữu hiệu trong tay Nguyễn Văn Tâm, đă tạo được một ảo tưởng an ninh tại các thành phố lớn. Nhưng dân chúng, nhất là các chính khách, các nhân sĩ vẫn giữ thái độ hoài nghi, bất hợp tác với Bảo Đại.

 

Lúc bấy giờ nhiều người đă tin chắc Việt Minh sẽ chiến thắng không lâu lắm… Nhưng rồi một biến cố quan trọng làm thay đổi lịch sử: Ngày 6 tháng 12-1950, tướng De Lattre De Tassigny, một tướng lănh tài giỏi của Pháp nắm quyền tư lệnh quân đội Pháp ở Việt Nam.

 

Thời gian này, một mặt tướng De Lattre cho tổ chức thêm các đơn vị vơ trang Việt Nam, trao thêm quyền hành cho chính Bảo Đại, mặt khác chận đứng cuộc tiến quân về vùng châu thổ sông Nhị Hà và Hà Nội của Việt Minh. Quân Việt Minh trên đường tiến về Hà Nội bị đánh tan ở Vĩnh Yên, Đông Triều, Sông Đáy vào tháng Giêng 1951.

 

Tại miền Trung, nhiều tiểu đoàn Bảo vệ quân được thành lập, với hạ sĩ quan và sĩ quan Việt Nam. Ông Giáo được Pháp tặng cho cái danh hàm tướng và ông hí hởn may một bộ quân phục cấp tướng đúng kiểu, cũng có những nhánh lá viền quanh cổ tay. Nghe một lần trong một cuộc lễ hỗn hợp Việt Pháp, ông Giáo đă mặc quân phục tứ tướng đến dự, làm nhiều tướng thật của Pháp che miệng cười. Sau đó người Pháp cố vấn cho ông Giáo đă khuyên ông không nên mặc quân phục nữa, sợ có lúc các tướng thiệt của Pháp thấy gai mắt sẽ sỉ nhục công khai th́ phiền lắm. Quả thực sau mấy lần mặc áo tướng, ông Giáo chẳng hiểu v́ lư do nào không c̣n dùng nữa.

 

Nhưng Bảo Đại không biết dụng thời cơ này để qui tụ người quốc gia thuần tuư yêu nước. Ông ham săn bắn chơi thuyền hơn là ham việc nước. Mọi công việc của chính phủ nằm trong tay thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và Nguyễn Văn Hinh tư lệnh quân đội Việt Nam.

 

 

 

(c̣n tiếp)

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính