Bên Gịng Lịch Sử­ 1940-1965

 

- P2 -

 

Lm. Cao Văn Luận

 

 

5  Những bí ẩn từ “lon” Chuẩn uư đến “lon” Đại tá của ông vua cách mạng

 

Tôi kể chuyện lại với bạn Trần Hữu Phương, Trương Công Cừu và các anh em trong hội L’Amicale Des Annamites de France. Tất cả đồng ư tổ chức tại trụ sở của hội một buổi tiếp tân đơn giản chào mừng cựu hoàng Duy Tân. Việc thu xếp, chuẩn bị chẳng có ǵ đáng nói. Chúng tôi thông báo rỉ tai cho nhau, và đến ngày đó, khoảng 30 người có mặt tại trụ sở. Một một người được đề cử liên lạc với vua Duy Tân và hẹn giờ, ngày địa điểm, đón ngài đến hội.


Khi hay tin vua Duy Tân đă đến Ba-Lê và muốn gặp anh em, nhiều người có vẻ hồi hộp, hy vọng, dựng lên khá nhiều giấc mộng. Nhưng cũng có một số nhún vai: cái ǵ đă qua nên cho nó qua luôn, kể cả những triều đại vua chúa. Nhưng tất cả cũng vui vẻ muốn gặp lại vua Duy Tân ít ra là v́ cảm phục, ṭ ṃ, nếu không phải là v́ hy vọng vào tương lai.


Tôi nghĩ rằng cần phải giúp cho mọi người một cơ hội, cho nên ngoài việc triệu tập cuộc họp mặt giới hạn tại trụ sở hội L’Amicale Des Annamites de France tôi c̣n loan truyền tin vua Duy Tân đến Ba-Lê trong giới Việt kiều ở Pháp. Tôi phải nh́n nhận là huyền thoại về vua Duy Tân vẫn c̣n đẹp lắm, vẫn c̣n được nhiều người say mê.


Trong câu chuyện, tôi thoáng nghe các Việt kiều kể lại với nhau cảm tưởng của họ, ḷng kính phục của họ về cuộc khởi nghĩa thất bại, và sự thương xót của họ về số phận tù đày của nhà vua. Có lúc tôi cũng như một vài anh em lạc quan và mơ mộng, ước mong rằng cái tên vua Duy Tân, uy tín và danh tiếng của ngài có khả năng tập họp được những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, ở hải ngoại và tại nước nhà.


Lúc bấy giờ tôi đă phong phanh nghe tin về những hoạt động của đảng Cộng sản Đông Dương, về những tên tuổi vang rền như Tôn Đức Thắng, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Lương Bằng. Một chế độ quân chủ lập hiến tiến bộ sẽ bảo đảm cho Việt Nam không trôi vào một chế độ Cộng sản, mà với tư cách người Công giáo tôi không thể chấp nhận được. Tôi hy vọng thật mong manh. Mấy mươi năm tù đày, sống dưới sự kiềm tỏa của Pháp, không biết tâm tính của vua Duy Tân có thay đổi ǵ không. Không có ǵ bảo đảm rằng vị vua trẻ tuổi dám đề xướng cách mạng, dám hy sinh ngai vàng hồi c̣n là cậu thanh niên 16 tuổi, vẫn c̣n sống trong người đàn ông trên 40 tuổi, mang cấp bậc Chuẩn Úy trong quân đội Pháp.


Nhưng tôi không lúc nào hối hận hay do dự trong việc giúp đỡ vua Duy Tân, v́ theo tôi sự giúp đỡ không có tính cách ràng buộc và dấn thân mà chỉ có giá trị đưa ra một cơ hội, với nhiều chọn lựa. Nếu sự chọn lựa về sau của nhà vua không phù hợp với ư hướng, mong ước của tôi, th́ tôi vẫn có thể rút lui, và chỉ làm nhân chứng mà thôi.


Tôi thoáng hiểu rằng vua Duy Tân muốn dựa vào nước Pháp. Điều đó có thể là một cái thế bắt buộc đối với Việt Nam và Đông Pháp. Nước Pháp không thể nào để mất Đông Pháp. Việc thu xếp với nước Pháp cho Việt Nam có một chỗ đứng thích hợp, xứng đáng là điều cần thiết, miễn là chỗ đứng không quá thiệt tḥi nhục nhă và giữ vẹn những khả năng, những cơ hội để tiến bộ, dành thêm những chủ quyền quốc gia.


Tôi suy nghĩ cũng khá nhiều về tương lại, về số phận đất nước và nhất là về những đe dọa đè nặng lên số phận đó trong lịch sử những phong trào khởi nghĩa. Khuôn mặt một minh chủ rất cần thiết, đó là điều dĩ nhiên. Nhưng ai sẽ là minh chủ xứng đáng để qui tụ quần thần, tả hữu, toàn dân.


Trong giới khuynh tả, Cộng sản, h́nh như một thứ minh chủ đă bắt đầu xuất hiện, một cụ già thường được gọi là Bác, một con người bí mật mà mỗi khi nói đến nhiều người dù bất đồng chính kiến cũng phải cảm phục. Nhưng trong giới người Việt Nam yêu nước, khuynh hữu, bảo hoàng, th́ chưa có một vóc dáng minh chủ nào hiện rơ. Có ba vị vua đôi lúc được nhắc đến Bảo Đại, Hàm Nghi, Duy Tân.


Đến buổi tiếp tân, anh em sinh viên và Việt kiều đến đủ trước giờ. Vua Duy Tân đến, tươi cười bắt tay mọi người. Một số như Phạm Huy Thông, Vơ Văn Thái, Trần Hữu Chương, Trần Đức Thảo xúm lại hỏi về quá khứ.


Cựu Hoàng lắc đầu, vẻ mặt trầm ngâm, như thẹn thùng, như đau xót:


- Xin các anh em hăy cho những việc đă qua được đi qua luôn. Chúng ta nên nói những chuyện hiện tại. Bây giờ chúng ta nên làm ǵ?


Các anh em chờ đợi. Vua Duy Tân ngừng một phút, cho mọi người chăm chú hơn rồi nói tiếp:


- Quân Đồng Minh sẽ thắng ở Thái B́nh Dương. Phát xít Nhật sẽ bại trận ở Á châu, cũng như Đức Ư đă bại trận ở Âu châu. Và nước Pháp với binh hùng tướng mạnh sẽ trở lại Việt Nam. Chúng ta cần phải chọn lựa một thái độ. Chống Pháp hay thân Pháp. Hiện nay tại nước nhà một phong trào Cộng sản đang nổi lên, liên kết với phong trào Cộng sản quốc tế. Chúng ta lại phải cần hợp tác với Pháp để chống lại phong trào Cộng sản. Chúng ta vẫn đ̣i độc lập, tuy nhiên cũng đành chấp nhận một số những điều kiện của người Pháp.


Một người thắc mắc hỏi thêm:


- Thưa ông…


Mọi người vẫn gọi vua Duy Tân là ông, và đó là ư muốn của ông, ông không muốn được gọi là Đức Vua hay Hoàng đế bệ hạ chi cả. Vậy một người hỏi:


- Thưa ông, hợp tác với Pháp cũng được, nhưng hợp tác như thế nào? Theo cương vị nào?


Vua Duy Tân do dự một lúc. Nét mặt ông có vẻ băn khoăn, rồi cuối cùng nhà vua trả lời:


- Người Pháp đang cần sự hợp tác của chúng ta để tái chiếm Đông Pháp. Họ có thể chấp nhận cho ta thành một quốc gia tự trị trong liên hiệp Pháp.


Thiết tưởng điều đó cũng không trái với quyền lợi quốc gia. Dần dà chúng ta đ̣i thêm quyền hành về cho chúng ta. Trước binh lực hùng hậu của Pháp, và hậu thuẫn của đồng minh Tây phương. Chúng ta biết làm ǵ hơn? Chống Pháp. Chúng ta đă thấy những tấm gương chống Pháp, và tôi đây là nạn nhân của một lối chống Pháp nóng nảy vụng về. Rồi đất nước chúng ta sẽ phải chịu một cảnh chiến tranh tàn khốc mà kết quả chưa biết là thắng hay bại.


Nhiều người vẫn chưa hài ḷng về những câu trả lời của vua Duy Tân; nhưng phần lớn e ngại không muốn bộc lộ. Bữa tiệc trà kết thúc, và có thể nói mọi người ra về với cả băn khoăn. Tôi có phần thất vọng. Ở vua Duy Tân, tôi không thấy tài năng hay đức độ. Tuy nhiên trước con người dày dạn, da sạm đen, tai rộng, mặt nở nang tôi thấy kính nể vài phần.


Trước khi chia tay, tất cả mọi người đứng chung chụp vài tấm h́nh kỷ niệm. Có lẽ ngày nay không c̣n ai có một bức h́nh này, v́ có một lúc mọi người tự coi là ở cái thế bắt buộc phải chối mọi liên hệ với vua Duy Tân. Điều này tôi xin kể sau.


Khoảng hơn hai tuần, có lẽ vào cuối năm 1944, vua Duy Tân trở lại gặp tôi và các anh em Việt kiều, sinh viên. Lần này, tôi thấy ông thay đổi nhiều. Trước hết là y phục. Ông mặc quân phục sang trọng, đúng một thẳng nếp và lại là loại quân phục dạo phố. Ở cầu vai ông mang có cấp hiệu Đại tá bộ binh Pháp. Tôi linh cảm như có một sự thay đổi trọng đại hơn ở vua Duy Tân, trọng đại gấp mấy lần sự thay đổi h́nh thức y phục.


Vua Duy Tân cho biết rằng, ông được người Pháp giúp đỡ thành lập một đạo quân toàn người Việt Nam, với mục đích sẽ đi tiền phong trong cuộc hành quân tái chiếm Đông Pháp. Hiện nay đạo quân này do ông cầm đầu, và tuyển mộ được một tiểu đoàn. Tiểu đoàn này được đem sang đóng ở Constance, bên Đức.


Phần lớn quân số tiểu đoàn này là những lính thợ, lính khố đỏ, và một số ít người Việt Nam gia nhập kháng chiến ở Madagascar và các thuộc địa khác. Tôi bắt đầu thấy rơ mưu mô của người Pháp. Họ muốn dùng vua Duy Tân như một lá bài. Chính vua Duy Tân biết điều đó, nhưng lại chấp nhận hợp tác với người Pháp.


Pháp đă để lộ ư định chia Việt Nam làm ba quốc gia tự trị trá h́nh, riêng biệt: Nam Việt, hay Cochinchine, thành một vương quốc do vua Duy Tân cai trị. Trung Việt, hay Annam, sẽ trao cho Bảo Đại, và h́nh như miền Bắc, th́ do áp lực của Mỹ, Pháp phải đành cho các đảng phái cách mạng. Tôi không được biết lúc bấy giờ người Pháp có nghĩ đến chuyện giao miền Bắc cho Hồ Chí Minh hay không.

Vua Duy Tân đề xướng ra phong trào cờ Tự Trị, dự định tổ chức các Việt kiều ở Pháp thiện cảm với ông thành một đảng. Tôi thấy quá rơ là nỗ lực của ông sẽ thất bại, se không qui tụ được bao nhiêu người. Những thành phần ưu tú thấy ông đă quá dễ dăi với Pháp, bắt đầu xa lánh ông.


Tuy nhiên cái huyền thoại ngày xưa của ông cũng lôi cuốn được một số nhỏ, phần lớn là lớp lính thợ, lính khố đỏ hay Việt kiều gốc lính thợ ở lại lập nghiệp trên đất Pháp.

Tôi cũng xin kể ra cái t́nh trạng của các Việt kiều ở Pháp trong thời gian này, để hiểu rơ hơn v́ sau vua Duy Tân không qui tụ được đông đảo Việt kiều. Lúc bấy giờ Việt kiều tại các xưởng máy được đối xử thua thiệt vô cùng so với thợ thuyền Pháp đồng khả năng và nhiệim vụ. Lương của họ có thể chỉ bằng 1 phần 3. Muốn được đối xử và hưởng quyền lợi ngang hàng như thợ thuyền Pháp, th́ người Việt Nam ở Pháp lúc bấy giờ có một cách gần như là duy nhất: gia nhập Tổng Liên Đoàn Lao Động Pháp (CGT). Lúc đó và cho đến bây giờ, Tổng Liên Đoàn Lao Động Pháp chi phối vào trong tổ chức này th́ kể như đă trở thành cảm t́nh viên của đảng cộng sản Pháp.


Tôi và các cha hiểu rơ t́nh trạng này, riêng tôi cố gắng hoạt động trong giới thợ thuyền Việt kiều ở Pháp khuyên họ gia nhập Liên đoàn Công nhân Công giáo.


Về quyền lợi, nếu gia nhập Liên đoàn Công nhân Công giáo (CFTC), Việt kiều cũng sẽ được hưởng đồng đều như người Pháp, nhưng v́ người Việt Nam thích a dua, và thấy đă có nhiều Việt kiều vào CGT, họ cũng gia nhập luôn cho tiện.


Tôi nghe nhiều người đồn rằng phong trào Cờ Tự Trị của vua Duy Tân gặp nhiều trở ngại từ một tổ chức chính trị Việt Nam ở Pháp, có lẽ chi nhánh đảng Cộng sản Đông Dương. Trong các trại lính Việt Nam ở Pháp, những đảng viên Cờ Tự Trị có thể bị thủ tiêu rồi chôn ngay trong trại lính. Nhiều trường hợp như vậy xảy ra mà các sĩ quan Pháp không có cách ǵ khám phá và trừng phạt thủ phạm, v́ những người chung quanh quá sợ sự khủng bố, không bao giờ tố cáo.


Sau lần gặp gỡ vua Duy Tân nói trên, tôi không c̣n gặp ǵ ông nữa. Tôi có hay tin ông sắp về nước, và trước khi về được người Pháp cho mượn máy bay quân sự Pháp sang Algérie thăm vua Hàm Nghi đang bị giam lỏng ở đó. Một buổi sáng tôi đang đọc sách trước pḥng th́ một anh sinh viên Việt Nam đến gơ cửa, trao cho tôi một tờ báo Pháp. Tiếng anh run cảm xúc:


- Thưa cha, vua Duy Tân tử nạn rồi.


Tôi cũng giật ḿnh hỏi lại:


- Tử nạn làm sao?


Anh sinh viên chỉ tờ báo. Tôi đứng lật tờ báo ra đọc. Chỉ là một tường thuật ngắn ngủi tai nạn máy bay trên đường từ Pháp sang Algérie. Nạn nhân được chú ư nhất trên máy bay là Vua Duy Tân. Tờ báo cũng đăng mấy ḍng tiểu sử của nhà vua, và ca ngợi ḷng trung thành với Pháp quốc của ông.


Tôi không hiểu rơ chuyện ǵ xảy ra. Trong thời kỳ nước Pháp vừa được giải phóng, những cuộc thủ tiêu, ám sát ngay trong hàng ngũ Pháp cũng là chuyện thường bữa. Nhiều tin đồn cho rằng máy bay không bị tai nạn kỹ thuật, mà bị phá hoại. Trong quân đội Pháp, ở mọi ngành, đều có những đảng viên Cộng sản và cũng có một số lính thợ, lính gác Việt Nam. Rất có thể một trái bom nổ chậm có đồng hồ đă được gài sẵn trong máy bay, và khi máy bay ra giữa Địa trung hải th́ bom nổ.Từ Pháp sang Algérie, máy bay chỉ bay qua biển. Một chiếc máy bay bị nạn rơi trên mặt biển mênh mông th́ c̣n dấu tích ǵ nữa. Giả thuyết thứ nhất được nhiều người nói đến là Cộng sản đă thủ tiêu vua Duy Tân, v́ nhận thấy uy tín của ông sẽ gây trở ngại cho họ hơn là những nhân vật như Bảo Đại, Hàm Nghi. Vua Duy Tân là một yếu tố bất ngờ trong ván bài của Cộng sản. Họ không chắc hẳn vua Duy Tân ngoan ngoăn đầu hàng người Pháp, hay là vua Duy Tân c̣n có mưu mô nào.


Giả thuyết thứ hai được nhắc đến lúc bấy giờ th́ do những người thiện cảm với vua Duy Tân, đưa ra. Giả thuyết này nói rằng chính Pháp hăm hại vua Duy Tân, v́ nhận thấy ngài tuyên bố hợp tác ngoài mặt, nhưng thâm tâm đă có dự tính lúc được lên ngôi, sẽ tuyên cáo với quốc dân một nền độc lập hoàn toàn, đặt người Pháp trước một việc đă rồi rất khó xử.


Cho đến nay bí mật về cái chết của vua Duy Tân vẫn c̣n hoàn toàn, và xem chừng lịch sử không c̣n chịu vén lên một lần nào nữa. Sau cái chết của vua Duy Tân, phong trào Cờ Tự Trị do ông sáng lập sống leo lét thêm vài tháng nữa rồi tan ră dần, không thấy ai nhắc lại nữa. Đất nước bắt đầu những biến chuyển lớn và câu chuyện vua Duy Tân bị quên lăng mau chóng. Thỉnh thoảng nhớ lại, tôi vẫn bùi ngùi, thắc mắc. Bao nhiêu năm tù đày đă không dạy khôn được cho vua Duy Tân hay sao? Sự hợp tác với Pháp mà vua Duy Tân chọn là thựa tâm hay chỉ là chiến thuật, là thủ đoạn, là một lối hoăn binh chi kế? Có lẽ v́ nhận xét vội về vua Duy Tân cho nên trong những tháng cuối cùng đời ông, tôi đă không t́m dịp làm thân và gặp gỡ nhiều. Ông cũng không thân với một ai mà tôi được biết ở Ba-Lê. Lúc bấy giờ tôi lại chưa hề có ư nghĩ là những lời nói, những ư kiến của tôi có thể giúp ích ǵ cho vua Duy Tân. Tôi chưa có một dự tính nào về một vai tṛ cho ḿnh trong lịch sử Việt Nam, hay cạnh những người có hy vọng làm lịch sử Việt Nam. Đôi lúc tôi tự hỏi nếu tôi giảng giải, khuyên ngăn, đưa ư kiến th́ vua Duy Tân có thay đổi kế hoạch không, và lúc đó, lịch sử Việt Nam sẽ được viết lại như thế nào? Một triều đại Duy Tân có khá hơn một triều đại Bảo Đại không? Đôi lúc nghĩ tôi không khỏi cảm thấy ân hận đă bỏ lỡ cơ hội, có lẽ v́ sự ân hận do việc này gây ra, mà sau này có đôi lúc tôi làm việc có phần hăng hái, đối với một vài người làm chính trị và làm lịch sử. Có lẽ v́ vậy nên về sau tôi thẳng thắn và nhanh miệng hơn.

 

 

6  Trung thành với mẫu quốc…

 

Sang năm 1945, nước Pháp sau những niềm hân hoan chính trị thù nghịch bắt đầu mâu thuẫn. Tướng De Gaulle thấy khó làm được việc ǵ, đă tự ư rút lui, và ông Bidault thuộc đảng MRP lên làm thủ tướng. Chủ trương của ông Bidault cũng như của đảng này, và có thể nói là của tất cả các đảng chính trị Pháp, là phải giữ các thuộc địa, v́ có thuộc địa th́ nước Pháp mới được liệt vào hàng cường quốc trên thế giới.


Trong số các thuộc địa của Đông Pháp được coi là quan trọng nhất v́ những lư do dễ hiểu: vị trí chiến lược của Đông Pháp, cách riêng Việt Nam trên thế giới, quyền lợi của Pháp ở Đông Pháp rất nhiều và rất lớn, vốn liếng Pháp bỏ ra ở Việt Nam kể ra khá lớn, và Pháp muốn có th́ giờ nhiều hơn để thu lời về gấp trăm ngàn lần vốn.


Trong thời gian này tôi có tiếp xúc với một vài nhân vật chính trị Pháp, hoặc là những lănh tụ trong các chánh đảng, hoặc là các dân biểu. Ở ai, tôi cũng nghe họ nói đến quyền lợi nước Pháp là trên hết, và không thể nào suy suyển cái quyền lợi tối thượng đó, v́ những sự đấu tranh gành độc lập dù rất chính đáng của các nhược tiểu.

Bài diễn văn của tướng De Gaulle tuy chẳng hứa hẹn ǵ nhiều cho các xứ thuộc địa; vậy mà các đảng phái chính trị cũng lo ngại là đă hứa hẹn quá nhiều, và họ không muốn nhắc lại nữa. Họ coi những hứa hẹn đó chỉ là thủ đoạn trong lúc hoạn nạn, để tranh thủ dân thuộc địa khỏi nổi lên phản lại Pháp, nay Pháp đă mạnh, không cần giữ lời hứa. Hơn nữa tướng De Gaulle đă ra đi.


Một lănh tụ trong đảng MRP của ông Bidault đă nói chuyện với tôi khá lâu và thành thật. Ông biết tôi đang chú ư đến những phong trào đấu tranh ở nước nhà. Người Pháp có sự thành thật rất dễ thương. Họ có thể tách rời những thiện cảm riêng tư với ḷng ái quốc của người Pháp.


Kẻ mà tôi nói trên đây, tỏ ra rất thông cảm những lo âu, những mong muốn của tôi, và có lẽ v́ thế, v́ không muốn cho tôi rơi vào những tính toán ngây thơ, đă không cho tôi biết về những kế hoạch của Pháp đối với Đông Pháp và các thuộc địa.

Cách riêng đối với Đông Pháp, th́ chủ trương của đảng MRP và hầu hết các đảng chính trị Pháp lúc bấy giờ, là phải chiếm lại bằng mọi giá. Những cuộc thương thuyết với Anh, Mỹ, Trung Hoa hiện đang diễn ra trong hậu trường để chuẩn bị cho cuộc tái chiếm Đông Pháp. Những quan toàn quyền, những lực lượng tái chiếm đă được chỉ định.


Phương lược tiếp thu Đông Pháp cũng đă được thỏa thuận với Anh, Mỹ và Trung Hoa. Tuy nhiên người Pháp cũng hiểu rằng chẳng có ǵ bất biến, v́ vậy rất có thể v́ áp lực từ phía Mỹ, Trung Hoa, và v́ những cuộc tranh đấu của dân chúng Đông Pháp, Pháp có thể bằng ḷng cho Việt Nam một nền tự trị rất hạn chế, nhưng trước khi cho tự trị, Pháp đă mưu mô chia Việt Nam ra làm ba hay bốn quốc gia riêng biệt, t́nh trạng Lào, Cao Miên, th́ Pháp cho là không cần thay đổi. Họ quan niệm rằng một khi giải quyết được vấn đề Việt Nam, tức là giải quyết được cả Đông Pháp. Lào là một dân tộc dễ dăi, tinh thần quốc gia c̣n non yếu, ư thức chính trị không được vững vàng, dân số thưa thớt, đất đai th́ rộng quá. Chẳng những họ không nghĩ đến chuyện chống Pháp đ̣i độc lập, mà không chừng họ c̣n mời Pháp ở lại lâu hơn, nếu họ hiểu rằng không có Pháp th́ đe dọa lớn nhất đối với họ là khối dân Việt Nam bên kia dăy Trường Sơn.


Tôi nói cho vị lănh tụ đảng MRP biết rằng những tính toán của nước Pháp chưa chắc ǵ đă tốt đẹp và có lợi cho nước Pháp. Rất có thể v́ ham hố, muốn giữ cả, mà rồi theo như tục ngữ Việt Nam, lại phải “ngă về không”.


Ông ta cũng có những lo ngại như vậy, nhưng ông ta cho biết v́ tự ái dân tộc, nước Pháp không thể để uy thế của ḿnh suy suyển một chút ǵ, nhất là mới sau chiến thắng.


Bất cứ chánh phủ nào không giải quyết vấn đề thuộc địa một cách khôn khéo, thích hợp, sẽ bị đổ lập tức. Nếu trả độc lập ngay cho các thuộc địa, th́ dễ dàng quá, nhưng sẽ làm cho nhiều đảng đối lập vịn vào cớ đó chê chính phủ yếu, đầu hàng, phản quốc, và lật đổ chính phủ này trong 24 tiếng đồng hồ.


Trong thời gian đầu năm 1945, nhiều biến cố dồn dập. Các sinh viên và Việt kiều linh cảm được sẽ có những biến cố trọng đại xảy đến cho dân tộc Việt Nam đều nao nức muốn làm một cái ǵ, nhưng cái ǵ phải làm th́ họ chưa hiểu rơ. Việc đầu tiên mà tôi khuyên họ nên làm là tập họp các Việt kiều sinh viên lại trong một đoàn thể có tổ chức, có sinh hoạt. Công việc này đang được xúc tiến th́ chúng tôi hay tin hai sinh viên Việt Nam được Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại, tức là Bộ Thuộc Địa gọi lên, và ít hôm sau trên đài phát thanh Pháp, trên đài phát thanh Viễn Đông, trên một số báo chí Pháp, một tuyên ngôn mệnh danh là của những Việt kiều, sinh viên Việt Nam du học ở Pháp được phổ biến.


Tuyên ngôn này, nhân danh những Việt kiều ở Pháp, những sinh viên Việt Nam du học ở Pháp, nhận thấy rằng những người Việt Nam ở Pháp, cũng như cả dân tộc Việt Nam rất lấy làm hân hoan thấy nước Pháp trở lại địa vị cường quốc trên thế giới, chúc tụng nước Pháp chiến tháng Quốc xă Đức, cầu mong cho nước Pháp và đồng minh đánh đuổi phát xít Nhật khỏi Việt Nam và Đông Pháp. Vậy nhân danh những Việt Nam sinh viên Việt Nam ở Pháp, và thay cho dân tộc Việt Nam, tuyên bố trung thành với nước Pháp, sẵn sàng đem Việt Nam vào Liên Hiệp Pháp.


Khi bản tuyên ngôn này được phổ biến, mọi giới Việt kiều sinh viên đều phẫn nộ và muốn phải hành động, phải lên tiếng. Lập tức hội Federation Des Indochinois De France được thành lập, với một ban chấp hành gồm 12 ủy viên. Bửu Hội làm chủ tịch, Trần Hữu Phương tổng thư kư, các ủy viên khác th́ cũng toàn là những sinh viên mà tôi quen thân, như Trần Đức Thảo, Phạm Huy Thông, Hoàng Xuân Măn.


Công việc đầu tiên, là ra một tuyên ngôn bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp và Anh, phủ nhận tuyên ngôn của hai sinh viên kia, và không chấp nhận trở lại t́nh trạng thuộc địa của Pháp, đ̣i cho Việt Nam phải được độc lập trật tự. Tuyên ngôn này lời lẽ rắn rỏi, lập luận vững chắc, và đọc lên người Việt Nam nào cũng phải cảm động, v́ từng tiếng, từng ḍng hàm chứa cả linh hồn yêu nước của anh em sinh viên, Việt kiều. Sau khi bàn luận, Trần Đức Thảo có nhiệm vụ soạn tuyên ngôn, tuyên ngôn được in ra, nhân danh hội Federation Des Indochinois, và được gửi đi các sứ quán ngoại quốc, các ṭa lănh sự, đại diện cơ quan báo chí khắp nước. Nó làm cho chính phủ Pháp có vẻ bối rối, và tức giận. Chỉ mấy hôm sau th́ chúng tôi hiểu rơ phản ứng của chính phủ Pháp: Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Măn, Phạm Huy Thông bị bắt giam vào nhà lao Prison De La Santé.


Tôi được ṭa Tổng Giám mục Ba-Lê can thiệp nên không bị bắt giam. Nagy vài hôm sau, tôi có t́m cách vào thăm Trần Đức Thảo và mang quần áo, thức ăn cho các anh em trong nhà lao Prison De La Santé. Đây cũng là nơi trước kia có lần đă giam giữ Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu Trinh.


Sau vụ bắt bớ này hội Federation Des Indochinois không hoạt động công khai được nữa. Tôi lại tập hợp các Việt kiều Công giáo thành một hội mới là Association Des Catholiques Vietnamiens De France, gọi tắt là ACVNF, sẽ là nguồn gốc của giáo xứ Việt Nam tại Ba-Lê sau này.


Tôi không nhớ rơ là vào tháng nào, nhưng khoảng mùa thu năm 1945, có thể đầu tháng 9, Bộ Thông Tin Pháp trao cho chúng tôi một bản thông điệp của 5 vị Giám mục Việt Nam (có các đức cha Nguyễn Bá Ṭng, Lê Hữu Từ…) đ̣i nước Pháp phải trao trả độc lập cho Việt Nam, và kêu gọi những thành phần dân chúng Pháp tiến bộ hăy ủng hộ sự đ̣i hỏi chính đáng này, để tránh cho hai nước cái cảnh trở nên thù nghịch nhau.

 

 

7  Cộng sản Pháp và nền độc lập ở Việt Nam

 

Tin Nhật đầu hàng, và chính phủ Việt Nam tuyên bố độc lập cũng đă đến tai chúng tôi. Người Pháp, trên tư cách một người, th́ tôi thấy có rất nhiều người thiện cảm với phong trào đ̣i độc lập của Việt Nam. Khi nhận được thông điệp của các Giám mục Việt Nam, tôi in ra khoảng một trăm ngàn bản, nhờ các hướng đạo sinh Pháp đi phát ở các nhà thờ tại Ba-Lê, khu phụ cận và những tỉnh quanh Ba-Lê.


Sau khi thông điệp này được phổ biến vài hôm th́ một số anh em trong ACVNF bị bắt, trong đó có Nguyễn Hy Hiền, nhưng chỉ vài ngày là được thả, có lẽ nhờ có sự can thiệp bên trong của ṭa Giám mục Ba-Lê.


Tôi nhận thấy t́nh thế đă khẩn trương lắm rồi, và phải cố gắng làm cho những người có trách nhiệm trong chính phủ Pháp suy nghĩ kỹ hơn trước khi quyết định điều ǵ về Việt Nam.


Có lẽ chúng tôi đă hành động v́ tuyệt vọng th́ nhiều hơn. Chúng tôi rất ít hy vọng những hoạt động của chúng tôi có thể thay đổi chiều hướng lịch sử. Tuy nhiên chúng tôi không thể nào ngồi yên nh́n lịch sử bi thảm diễn ra.


Tôi tổ chức một buổi họp mặt, hay gọi là hội nghị, một cuộc hội thảo ǵ cũng được. Ngoài anh em sinh viên, Việt kiều, tôi c̣n mời nhiều nhân vật Pháp, và những người bạn Pháp có thiện cảm với Việt Nam.


Trong số này tôi nhớ có dân biểu hạt là ông Borthien, thuộc đảng Xă Hội Pháp, nổi tiếng là rất tiến bộ và chủ trương trả độc lập cho Việt Nam, ông là bạn thân của Hồ Chí Minh. Cha Chaillel, chủ nhiệm tạp chí Temoignage Chrétien th́ được mời thuyết tŕnh.


Cha Chaillel đă ngần ngại lâu trước khi nhận lời. Kúc tôi ngỏ ư mời cha thuyết tŕnh quanh vấn đề nước Pháp với nền độc lập của Việt Nam, thái độ của người Công giáo đối với vấn đề chính trị v.v…, ông tỏ ra trầm ngâm, đi bách bộ trong pḥng riêng của ông mấy ṿng rồi ông rút ở một hộc tủ khóa ra một tập hồ sơ khá dày, trao cho tôi.


- Cha đă biết những điều này chưa?


Dĩ nhiên là tôi chưa biết, v́ tôi chưa đọc những hồ sơ tài liệu này bao giờ. Tôi đọc vội. Đó là những báo cáo và những chỉ thị của trung ương đảng Cộng sản Pháp, cho các phân bộ đảng tại Pháp và Đông Pháp.


Nội dung chỉ thị nói rằng hiện nay ở Việt Nam, một phong trào cộng sản đang nổi lên đ̣i độc lập, phong trào này hành động theo đường lối cộng sản quốc tế. Vậy th́ những đảng viên ṇng cốt của cộng sản Pháp phải kín đáo nhưng tích cực giúp đỡ phong trào cộng sản Việt Minh.


Tập tài liệu có chỗ nêu rơ tên những lănh tụ cộng sản như Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Văn Đồng và những lư lịch, thành tích của họ, nhằm chứng minh rằng họ là đảng viên cộng sản trung kiên, có đảng tịch lâu năm, và đáng tin cậy lắm.


Trong năm 1945, các Việt kiều và sinh viên Việt Nam tại Pháp chưa biết chia rẽ là ǵ. Niềm hân hoan, hănh diện dân tộc đă phủ lên mọi bất đồng chính kiến có thể có. Cộng sản cũng chưa để lộ tính chất tàn bạo của nó. Tại Pháp chắc chắn đă có những tổ chức của đảng cộng sản Đông Dương, nhưng chưa công khai ra mặt, chưa nhân danh cộng sản để lên tiếng. Mọi người Việt Nam lưu lạc tại Pháp chỉ biết một điều: nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam.


Nhưng bắt đầu từ năm 1946, những mầm mống chia rẽ bắt đầu. Ngay trong nội bộ những đoàn thể Việt kiều và sinh viên Việt Nam mà tôi đă góp công gây dựng nên, cũng bắt đầu xuất hiện sự chia rẽ. Một vài anh em đặt chính kiến lên trên t́nh đồng bào… Trong những cuộc gặp mặt, nhiều anh em không đến. Một lần, hai lần không đến th́ có thể cho là t́nh cờ, là bận rộn, nhưng năm mười lần không đến th́ chỉ có thể là cố t́nh.


Lại có một số anh em công khai lên tiếng biện hộ cho chính kiến của họ. Những cuộc tranh luận thoát ra khỏi khuôn khổ của sự thảo luận, của sự học hỏi, mà trở thành những cuộc căi vă lớn tiếng đầy thù hằn thường xuyên xảy ra giữa các tổ chức Việt kiều và sinh viên. Chỉ trong ít lâu th́ hầu hết những tổ chức Việt kiều và sinh viên Việt Nam tại Pháp mà chúng tôi gây dựng nên không c̣n hoạt động đều đặn, thường xuyên nữa, mà chỉ hoạt động tùy hứng, tùy nhu cầu, nghĩa là khi có việc th́ anh em vẫn c̣n họp mặt lại với nhau được.


Cái ngày đánh dấu sự cáo chung của t́nh đoàn kết, có thể là ngày phái đoàn Phạm Văn Đồng sang Ba-Lê. Tôi không thấy lịch sử nói đến phái đoàn này. Tôi nhớ là vào độ mùa xuân 1946, như là cuối tháng ba, đầu tháng tư th́ phải. Nhất định là sau cái gọi là thỏa ước 6 tháng ba giữa Sainteny và chính phủ Việt Minh.

Phái đoàn Phạm Văn Đồng, trên danh nghĩa là phái đoàn quốc hội Việt Nam thăm viếng thiện chí nước Pháp. Phái đoàn gồm có Phạm Văn Đồng, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Tấn Gi Trọng, Hoàng Minh Giám, và một số người tôi không nhớ tên hết.


Báo chí, tin tức Pháp chẳng nói ǵ đến chuyến viếng thăm của phái đoàn Phạm Văn Đồng, tuy nhiên các Việt kiều đă được thông báo bằng điện tín không phải từ nước nhà, mà h́nh như là từ một tổ chức công chức ở Pháp. Tôi được cử dẫn đầu những anh em sinh viên, Việt kiều ra phi trường Orly đón tiếp phái đoàn Phạm Văn Đồng.


Tôi ngạc nhiên v́ phi trường không có vẻ ǵ là sắp đón tiếp một phái đoàn quốc hội của một quốc gia, dù là quốc gia nhỏ bé. Pḥng khách nơi mà phái đoàn sẽ đến trước tiên vẫn không khác ǵ ngày thường. Chính phủ Pháp h́nh như chẳng cử nhân vật nào quan trọng ra đón tiếp, và cũng chẳng có nghi lễ đón tiếp chi đáng kể cả.


Lúc phi cơ đến, chúng tôi được báo tin, và ra sân phi cơ đậu đứng chờ. Đây là lần đầu tiên tôi được chứng kiến một phái đoàn công du của một chính phủ Việt Nam độc lập. Dĩ nhiên là tất cả chúng tôi hồi hộp và ṭ ṃ. Phạm Văn Đồng từ phi cơ bước xuống, nh́n rộng trước mặt, rồi tia nh́n của ông dừng lại trên phái đoàn Việt kiều.

Ông mặc một bộ âu phục màu sẫm, khoác áo lạnh kéo cổ lên tận cằm. Sau ông là Hoàng Minh Giám, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Tấn Gi Trọng và vài ba nhân viên vô danh.


Ông Phạm Văn Đồng được một vài nhân viên thuộc bộ ngoại giao Pháp ra đón tiếp tận thang máy bay.


H́nh như nhân viên cao cấp nhất ở ngạch thơ kư bộ ngoại giao Pháp. Ông hơi cau mày, mặt xám lại một lúc, và bắt tay người Pháp rất nhanh rồi tiến ngay đến phía chúng tôi. Lúc này th́ mặt ông có vẻ tươi vui, cởi mở. Ông lên tiếng chào hỏi chúng tôi bằng tiếng Việt, nhờ một anh em, h́nh như là Trần Đức Thảo, giới thiệu từng người cho ông.


Ông dừng lại nói chuyện với tôi khá lâu, hỏi han những công việc của anh em sinh viên và Việt kiều. Khi phái đoàn đi đến các nhóm Việt kiều đứng hơi xa tôi một chút, th́ Nguyễn Mạnh Hà đi chậm lại, và đến nói nhỏ với tôi:


- Con có chuyện quan trọng muốn thưa với cha. Tối con sẽ đến.


Phái đoàn Phạm Văn Đồng được các nhân viên bộ ngoại giao Pháp mời lên một chiếc xe ca, loại xe buưt thông thường, có những dăy ghế ngang thường dùng chở khách đi tỉnh, và được đem về một khách sạn hạng ba. Sự khinh miệt của chính phủ Pháp đối với phái đoàn quốc hội Việt Nam đầu tiên thật là rơ ràng.


Tối hôm đó, tôi chờ Nguyễn Mạnh Hà. Lúc bấy giờ tôi đă rời khỏi Institut Catholique, và dọn đến ở trong khu 70 Arondissement. Ông có vẻ nghiêm trọng, lo âu. Ông đưa cho tôi mấy tập báo Cứu quốc và Hồn Công giáo cùng một ít tài liệu về Việt Nam. Ông cho biết, đúng như những điều tôi đă biết sơ qua, chính phủ Việt Minh, từ trên xuống dưới đều là những nhân vật cộng sản cốt cán.

Một vài chính khách quốc gia được đem vào trong chính phủ v́ áp lực của tướng Tàu Lữ Hán trước đây, và nay đang bị Vơ Nguyên Giáp t́m cách thanh toán dần, nếu không th́ bao vây và tước hết quyền hành. Ông cũng kể cho tôi nghe t́nh trạng Việt Nam và những tin đồn nói về những vụ thanh toán ở Thái Nguyên, Cao Bằng giữa Việt Minh và các đảng phái quốc gia.


Ông tỏ ra lo lắng và buồn phiền, v́ nhận thấy tương lai nước nhà nhiều rối rắm. Ông hiểu nhiều về nước Pháp nên ông cũng lo sợ rằng nền độc lập của Việt Nam không bền vững được. Lúc ông sang Pháp th́ quân Leclerc đă vào Hà Nội và đă bắt đầu có những đụng chạm giữa quân Pháp và quân tự vệ Việt Minh ở vài nơi tại Hải Pḥng và Hà Nội.


Nhiều lúc ông được cụ Hồ dùng làm thông ngôn, mặc dầu cụ Hồ rất thông thạo tiếng Pháp. Đó là thói quen của cụ. Những lúc không muốn nói vội vàng, muốn nhiều th́ giờ để suy nghĩ, th́ cụ làm như không hiểu tiếng Pháp để cho thông ngôn dịch qua lại hai lần. Nhờ đó ông cũng được biết những xích mích, dằng co giữa cụ Hồ và quan Cao ủy Pháp Argenlieu.


Theo ông th́ Sainteny được cụ Hồ tin cậy hơn đôi chút, và Sainteny cũng tỏ ra hiểu biết t́nh cảnh Việt Nam, thông cảm những khó khăn của chính phủ Việt Minh. Tướng Leclerc cũng được cụ Hồ kính nể lắm. Ông kể một mẫu chuyện về sự khôn ngoan khéo léo của tướng Leclerc khi vào Hà Nội.


Ông đă tươi cười bắt ay Vơ Nguyên Giáp, khi Giáp ra đón tiếp và chào ông bằng câu mở đầu: nhân danh những người kháng chiến Việt Nam, tôi xin chào mừng người đồng chí kháng chiến Pháp nơi ông. Leclerc c̣n tỏ ra khéo léo hơn, khi ông đề nghị với Vơ Nguyên Giáp về việc thành lập một tiểu đoàn hỗn hợp Pháp Việt để canh gác và dàn chào cho ông. Tiểu đoàn hỗn hợp này sẽ gồm một phần người lính Pháp, và 3 phần lính Việt. Như vậy v́ vấn đề lễ nghi, thể diện các đơn vị lính tự vệ Việt Minh sẽ được cung cấp quân phục chỉnh tề, vơ trang những loại súng tối tân hơn, y như lính Pháp vậy.


Nguyễn Mạnh Hà c̣n cho tôi biết là kẻ có nhiều quyền hành lại không phải là Jean Sainteny, hay Leclerc mà là D’Arbenlieu, một thầy tu ḍng Trappe khó tính, ít hiểu biết về Việt Nam, và say sưa với danh dự, uy quyền của nước Pháp.


Ông tiên đoán sớm muộn những xích mích giữa người Pháp và chính phủ Việt Minh không thể nào tránh được, và chưa biết sẽ biến chuyển đến mức độ nào, có giới hạn được trong ṿng phải chăng và có thể dàn xếp được không.


Mấy hôm sau, Phạm Văn Đồng tổ chức một buổi tiếp tân dành cho các Việt kiều. Ngoài những sinh viên, Việt kiều mà tôi quen biết, tôi nhận thấy có một số lạ mặt. Phạm Văn Đồng ngồi cạnh tôi, và nói chuyện rất cởi mở. Có lẽ lo sợ những cuộc căi vă v́ chính kiến, ông đă không đề cập ǵ nhiều đến các vấn đề chính trị mà chỉ nói những chuyện thông thường. Ông nói chuyện có duyên, cởi mở, vui vẻ.


Phái đoàn Phạm Văn Đồng ở lại Pháp đâu vào khoảng vài ba tuần lễ mà thôi. Về những hoạt động của phái đoàn này, tôi nghe phong phanh rằng họ sang Pháp để chuẩn bị cho một cuộc tham viếng nước Pháp của cụ Hồ. Phạm Văn Đồng và các nhân viên phái đoàn tiếp xúc nhiều với các tổ chức Việt kiều ở Ba-Lê.


Riêng ông th́ h́nh như gặp gỡ các dân biểu Pháp thuộc khuynh hướng xă hội và cộng sản như Paul Rivet Jean Rous là những bạn của cụ Hồ.


Lúc tiễn đưa phái đoàn Phạm Văn Đồng về nước, tôi và các Việt kiều cũng ra tận phi trường. Phạm Văn Đồng có vẻ buồn phiền hơn lúc đến, và sự đưa tiễn của chính phủ Pháp lần này cũng chẳng long trọng ǵ hơn lúc đến. Tôi nhận thấy có thêm vài dân biểu cộng sản, vài người Pháp có thiện cảm với cụ Hồ.


Phái đoàn đưa tiễn của chính phủ Pháp th́ cũng vẫn là những thư kư bộ ngoại giao. Và các xe ca đă chở Đồng trước đấy, nay cũng chở ông và phái đoàn trở lại phi trường.


Lúc lên khỏi thang phi cơ, quay lại vẫy tay chào các Việt kiều, h́nh như Phạm Văn Đồng cười chua chát cay đắng. Mắt ông đăm đăm và dáng người có vẻ mệt mỏi, chịu đựng, nhẫn nhục.


Từ đây sự chia rẽ v́ chính kiến, chủ nghĩa bắt đầu trở nên trầm trọng và lộ liễu trong hàng ngũ Việt kiều, sinh viên ở Pháp.


Trần Đức Thảo ít tới lui với anh em, và h́nh như đă thiên hẳn sang phía cộng sản không biết từ lúc nào. Tôi thấy như vậy cũng hết ham sinh hoạt với các đoàn thể Việt kiều. Tôi có nghĩ đến chuyện về nước, cùng với các cha như cha Mai, cha Lập, nhưng v́ thấy t́nh h́nh Việt Nam chưa ngă ngũ ra sao cả, nên hơi ngần ngại.


Những tin tức về Việt Nam th́ thật là thiếu sót, mơ hồ, thư từ ở Việt Nam gửi sang cũng rất thưa hiếm. Lâu lắm tôi mới nhận được một lá thư của các cha từ địa phận Vinh. Tôi cảm thấy băn khoăn thật nhiều, và không biết quyết định như thế nào. Các sinh viên, trí thức, một số lẻ tẻ về nước, số c̣n lại th́ chăm chú vào việc sinh sống.


Pháp chuẩn bị quân đội để can thiệp và tái chiếm Đông Pháp. Những cuộc căi vă, tranh luận trong nội bộ đảng cộng sản Pháp về Việt Nam lọt ra ngoài, cho thấy rằng cộng sản Pháp không hoàn toàn ủng hộ phong trào cộng sản Việt Minh. Một đoạn hồi kư của Maurice Thorez lănh tụ cộng sản Pháp, bạn thân và đồng chí của Hồ Chí Minh viết rằng ông hy vọng cờ tam tài sẽ bay phấp phới khắp Liên Hiệp Pháp, ông không hề nghĩ là đảng cộng sản Pháp chủ trương từ bỏ địa vị của Pháp ở Đông Pháp. Chính phủ Pháp cũng có hai khuynh hướng.


Khuynh hướng thứ nhất th́ cho Việt Nam tự trị rộng răi và thực sự trong một Liên Hiệp Pháp được sửa đổi. Khuynh hướng thứ hai chủ trương phải tái lập uy quyền của đế quốc Pháp như cũ và nếu cần th́ bằng quân đội.


Tại Nam bộ, quân Pháp đă thay thế quân Anh, và đang có những âm mưu lộ liễu thành lập một nước Nam Kỳ tự trị.


Những cuộc thương thuyết với chính phủ Tưởng Giới Thạch diễn ra ở Trùng Khánh, Côn Ninh, để nhắm ḥa giải áp lực và sự can thiệp của Tàu vào Việt Nam, và về phía này h́nh như Pháp cũng đang thành công.


Những tin tức trên, thêm những tiết lộ của Nguyễn Mạnh Hà, của cha Chaillet làm cho tôi băn khoăn rất nhiều.


Lại nói đến Nguyễn Mạnh Hà, những tiết lộ, tâm sự của ông làm cho tôi nghĩ rằng không thể nào theo cộng sản thực t́nh được. Cả bây giờ tôi cũng c̣n như vậy. Ông là người trí thức, là người Công giáo chân thành, lại sinh trưởng trong một gia đ́nh khá giả. Cho nên khó mà trở thành người cộng sản cuồng nhiệt. Có lẽ hoàn cảnh nào đó đă bắt buộc ông phải hợp tác với cộng sản.


Ít lâu sau khi phái đoàn Phạm Văn Đồng rời Pháp, tôi nghe tin nói rằng cụ Hồ đă đích thân sang Ba-Lê để thương thuyết với chính phủ Pháp về vấn đề quyền tự trị, nền thống nhất của Việt Nam, và vai tṛ Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp. Tin này được loan đi từ giới cộng sản Pháp.

 

 

(c̣n tiếp)

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính