Bên Gịng Lịch Sử­ 1940-1965

 

Lm. Cao Văn Luận

 

 

 

 

1

Lư do nào thúc đẩy tôi viết hồi kư

 

Sau khi Tổng thống Ngô Đ́nh Điệm bị giết, những biến chuyển chính trị và quân sự dồn dập xảy ra trên đất nước Việt Nam làm cho tôi nghĩ rằng Ông Diệm không phải là một nhân vật không thể thay thế được. Nhưng ít ra Ông cũng là một nhân vật cần thiết cho đất nước Việt Nam trong một giai đoạn nào đó. Nguyên nhân thất bại của Ông Diệm, của những giấc mơ, những cố gắng, những kế hoạch của Ông Diệm có lẽ là ở chỗ Ông, hay ít ra vài người quanh Ông và thân thiết với Ông không chịu hiểu rằng sự cần thiết của Ông Diệm đối với đất nước Việt Nam chỉ là một sự cần thiết trong một giai đoạn đặc biệt nào đó thôi. Khi giai đoạn lịch sử đó qua đi, th́ sự cần thiết đó cũng không c̣n. Đáng lư Ông Diệm và chế độ phải biết thay đổi nhanh chóng để thích ứng với những đ̣i hỏi của một giai đoạn lịch sử mới, hoặc là phải biết lùi ra khỏi chỗ đứng Ông đă chiếm giữ trong giai đoạn mà sự có mặt của Ông cần thiết cho đất nước.


Với tư cách một người gần gũi, có thể nói là thân thiết với Ông Diệm mà lại không phải lệ thuộc quá nhiều vào quyền hành và sự chỉ huy của Ông tôi đă được nh́n những cố gắng, những thành công, những thất bại và những sai lầm của Ông. Trước những tin tức, những lập luận, những xuyên tạc quanh Ông Diệm và chế độ tôi cảm thấy cần phải viết lại những hiểu biết, những nhận xét, những chứng kiến của tôi về những việc làm cũng như về đời sống, tư cách của Ông để sau này nếu những người nào muốn t́m hiểu sự thật về giai đoạn lịch sử- mà sự có mặt của Ông Diệm là cần thiết và quan trọng- có thêm một soi sáng, một nhận định không có ác ư, không thiên vị.


Những hoàn cảnh đặc biệt, những may mắn lạ lùng đă cho phép tôi gặp gỡ và nhiều lúc tham dự, hợp tác với những nhân vật đă làm nên lịch sử Việt Nam trong 30 năm qua. Luôn luôn tôi đă tham dự vào những biến cố lịch sử này với tư cách một nhân chứng hơn là một kẻ trong cuộc, nhưng lại là nhân chứng đứng ở một vị thế nh́n thấy nhiều việc mà nhiều người không thấy được. Người t́m hiểu lịch sử càng có được nhiều nguồn tin, nhiều tài liệu bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Thiên hồi kư của tôi hy vọng là một trong những nguồn tin và tài liệu đó.


Tôi đă nhiều lần có dự định ghi lại những điều ḿnh nh́n thấy, chứng kiến, tham dự trong mấy chục năm qua. Nhưng luôn luôn tôi phải đ́nh hoăn công việc đó, v́ những việc làm cấp bách, những bận rộn trong nhiều0 nhiệm vụ. Sau khi Ông Ngô Đ́nh Diệm mất, tôi có lần đă nghĩ rằng bây giờ là lúc tôi có thể yên ổn ngồi lại viết thiên hồi kư dự định từ lâu. Nhưng những biến cố dồn dập lại làm cho tôi hồi hộp theo dơi, và một lần nữa hoăn việc ghi chép, với hy vọng rằng những biến cố đó sẽ giúp tôi hiểu thêm vai tṛ và sự cần thiết của Ông Diệm trong giai đoạn 10 năm qua.


Thời gian trôi qua cũng giúp cho tôi, và dân chúng Việt Nam có thể nh́n Ông Diệm với một tầm nh́n khách quan và vô tư hơn. Những kẻ một lần gắt gao chỉ trích bài bác Ông Diệm và những việc làm của Ông, đă có dịp tự đặt câu hỏi: sự thanh toán Ông Diệm và chế độ Ông Diệm phải chăng là một sai lầm tai hại và nguy hiểm? Những hỗn loạn chính trị, những thất bại quân sự sau ngày 1/11/1963 đă trả lời cho câu hỏi đó. Tôi nhớ đại sứ Nolting, đại tướng Harkins đă viết ra, hoặc trả lời những cuộc phỏng vấn xác nhận điều đó; những người đă góp tay thanh toán Ông Diệm và chế chế độ Ông Diệm ít có ai lấy làm hănh diện về việc làm của họ.


Cuối năm 1969 những người bạn trẻ đến gặp tôi, bàn bạc với tôi về sự cần thiết và nên ghi chép lại những điều tôi đă thấy trong những năm qua, trong một thiên hồi kư càng vô tư bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Tôi đồng ư, và với sự góp tay của những người bạn trẻ đó, tôi đă thực hiện thiên hồi kư khi đăng báo đă mang một nhan đề có lẽ hơi khoe khoang:


“Hồi kư lột mặt nạ lịch sử”.


Tôi không đồng ư về cái tên gọi gán cho thiên hồi lư nhỏ bé và khiêm tốn của tôi. Vậy nên khi sửa chữa lại, bổ khuyết thêm để in thành sách, tôi xin chọn một tên gọi khác “Bên gịng lịch sử 1940-1965”.


Đó là tất cả những lư do lớn nhỏ đă thúc đẩy tôi thực hiện thiên hồi kư này. Tôi không hy vọng tất cả những mong ước của tôi đặt vào thiên hồi kư có thể thành tựu. Tôi cũng không dám tin rằng thiên hồi lư này soi sáng được những biến cố lịch sử phức tạp trong mấy chục năm qua. Tôi chỉ muốn góp vào những tài liệu lịch sử một vài hiểu biết riêng của tôi, và giúp cho những kẻ muốn t́m hiểu lịch sử một lối nh́n riêng.

 


L. M. CAO VĂN LUẬN

NGUYÊN VIỆN TRƯỞNG ĐẠI HỌC HUẾ

GIÁO SƯ ĐẠI HỌC VĂN KHOA SAI GON

 

 

2

Những cái mốc trong lịch sử

 

Về những ngày niên thiếu của tôi, cũng như của những đứa trẻ V.N vào thời buổi đó, tôi chỉ c̣n nhớ được cái không khí thanh b́nh, yên ổn, nhưng là một thứ thanh b́nh và yên ổn đe dọa, đau xót, nhục nhă. Tôi ra đời tại Hà Tĩnh, năm 1908. Đó cũng là năm mà nhiều cuộc nổi loạn phát khởi ở tỉnh tôi và nhiều nơi khác. Khi tôi bắt đầu có trí khôn th́ thỉnh thoảng tôi nghe được những lời bàn tán, xầm x́, những nét mặt đầy lo sợ quanh tôi, nhưng tôi không thể hiểu được điều ǵ rơ ràng. Những thanh niên, những trai tráng bị bắt đi lính cho Pháp rồi không mấy ai trở về. Sau này tôi được biết họ được gọi đi lính thợ, được gởi sang Pháp dự thế giới chiến tranh thứ nhất. Có lẽ để đập tan tinh thần phản kháng và cách mạng trong tỉnh Hà Tĩnh, nhà nước Bảo-Hộ đă bắt rất nhiều thanh niên trong tỉnh tôi.


Tôi sinh ra trong một gia đ́nh Công giáo lâu đời. Cho nên khi những người xung quanh nhận thấy tôi học hành dễ dàng th́ ư nghĩ đầu tiên của họ là gửi tôi vào chủng viện. Vào năm lên 13 tuổi, năm 1921, tôi vào học tại Tiểu Chủng Viện Xă-Đoài. Thời đó, Xă-Đoài chỉ có một vài lớp đầu bậc Trung học và v́ đó ít lâu sau tôi được gởi vào học tại trường các Thầy Ḍng La San ở Huế là trường Pellerin. Sau khi thi đậu bằng Thành Chung, tôi lại được gửi ra Hà Nội theo học đại chủng viện Xuân Bích vào năm 1933. Tôi đă đậu hai phần Tú tài. Sáu năm sau tôi được thụ phong Linh mục vào năm 1939.


Sau những cuộc nổi dậy khắp nơi của người VN chính phủ Pháp muốn tỏ ra cởi mở hơn, cho thi hành một chính sách văn hóa tương đối tiến bộ. Ngoài việc mở thêm những trường cho các tỉnh huyện, nhà nước Bảo Hộ c̣n cấp nhiều học bổng cho sinh viên ưu tú. Một số các học bổng này được dành cho một ít tu sĩ Công giáo. Tôi may mắn được cấp một học bổng du học tại Đại Học Đường Sorbonne. Vào mùa thu năm 1939, tôi lên đường sang Ba-Lê.


Mặc dầu thế chiến thứ hai đă bùng nổ, nước Pháp bị Đức chiếm đóng; nhưng nhờ là tu sĩ, nên tôi không gặp một trở ngại lớn lao nào trong đời sống hay trong công việc học hành. Từ 1939 đến 1942 tôi theo học Triết và Văn chương, đậu cử nhân năm 1942. Sau đó tôi học ở trường Á Đông Sinh ngữ và tốt nghiệp ở trường này năm 1945.


Trong những năm chiến tranh, mặc dầu tôi không có dịp tham dự trực tiếp vào những biến cố lịch sử trọng đại, nhưng tôi cũng có dịp gặp gỡ những người Việt Nam trong giới sinh viên học sinh, giới lính thợ, lính khố đỏ và một số người Việt Nam sang Pháp từ đệ nhất thếh chiến rồi ở lại Pháp luôn và nhập quốc tịch Pháp.


Trước lễ Giáng Sinh năm 1940, tôi đến thăm một linh mục thừa sai ở đường Du-Bac, số 128. Vị linh mục này đă sống ở Viễn Đông lâu năm, và trong lần đến thăm này, tôi đă được gặp một thiếu phụ Pháp giàu ḷng từ thiện đang tổ chức những cuộc thăm viếng, giúp đỡ những người Việt Nam đi lính trong quân đội Pháp bị quân Đức bắt làm tù binh. Thấy tôi là người Việt Nam, bà De Seize ngỏ ư yêu cầu tôi theo bà đến thăm những người lính Việt Nam bị giam giữ trong các trại tù binh ở Laval. Tôi nhận lời và những ngày nghỉ lễ sau đó, tôi cùng bà De Seize thường đến trại tù binh Laval thăm viếng những người lính Việt Nam. Công việc của tôi chẳng có ǵ quan trọng. Tôi làm cái nhiệm vụ thông ngôn giữa những người Việt Nam và những nhà hảo tâm Pháp, đôi lúc viết giùm và gửi thư về quê hương cho những người không biết đọc biết viết. Tôi cũng đến thăm những tù binh Việt Nam được điều trị tại các bệnh viện khắp Ba-Lê.


Lúc bấy giờ một số sinh viên Việt Nam cũng tổ chức những nhóm sinh viên thăm viếng và an ủi những thương bệnh binh Việt Nam tại các bệnh viện. Một lần tôi gặp Trần Hữu Phương trong một bệnh viện. Từ sự quen biết đến chỗ thân thiết thật dễ dàng, nhanh chóng giữa những người Việt Nam xa Tổ quốc, cùng chung lư tưởng. Cũng từ đó, tôi có ư nghĩ phối hợp các hoạt động của các sinh viên Việt Nam tại Ba-Lê, và đem chuyện đó ra bàn với Trần Hữu Phương.


Chúng tôi tập hợp các tổ chức sinh viên Việt Nam tại Pháp và các Việt kiều thành một hội duy nhất, lấy tên là hội Liên Hiệp những người Đông Dương tại Pháp (Fédération Des Indochinois de France), với vị chủ tịch đầu tiên là Trần Hữu Phương, cùng các hội sáng lập như Trần Đức Thảo, Phạm Huy Thông, hai anh em Hoàng Xuân Măn, Hoàng Xuân Nhị (em Hoàng Xuân Hăn).


Số sinh viên tham dự trên 300 người. Những Việt kiều ở Pháp và Ba-Lê trên nguyên tắc đều là hội viên, tuy nhiên chỉ có một số ở Ba-Lê tham gia những sinh hoạt thường xuyên của hội. Nhân danh hội Liên Hiệp những người Đông Dương tại Pháp, chúng tôi ra một bản tuyên ngôn đ̣i chính phủ Bảo-Hộ Pháp phải trao trả độc lập cho Việt Nam. Sở dĩ chúng tôi quyết định ra tuyên ngôn nói trên, v́ vào đầu năm 1945, sau khi quân đồng minh thắng quân Đức, Ba-Lê được giải phóng, có hai sinh viên Việt Nam kư tên vào một bản tuyên ngôn cam kết trung thành với mẫu quốc Pháp. Tôi c̣n nhớ tên những người Việt Nam kư vào bản tuyên ngôn nhục nhă này, nhưng thiết tưởng không nên nhắc đến làm ǵ. Tuyên ngôn đ̣i độc lập của chúng tôi được dịch ra nhiều thứ tiếng và được phổ biến khắp nước Pháp. Một vài báo ở Pháp và Âu Châu có đề cập đến tuyên ngôn của chúng tôi.


Chính phủ Pháp lập tức bắt giam một số lănh tụ sinh viên đồng thời cũng là lănh tụ hội Liên Hiệp những người Đông Dương tại Pháp như các anh Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Măn, Hoàng Xuân Nhị, Phạm Huy Thông. Nếu không phải là tu sĩ, được sự che chở của ṭa Tổng Giám mục Ba-Lê chắc chắn tôi đă không thoát khỏi tù tội.


Những sinh viên bắt giam tại khám đường La Santé, nơi đă từng giam giữ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu Trinh ngày trước. Với tư cách và bộ áo một tu sĩ, tôi có lư do chính đáng để tham viếng những người bị bắt giam. Do đó anh em trong hội cử tôi giữ nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế và giúp đỡ các anh em. Tôi t́m đến bà De Seize nhờ bà tiếp tay, v́ tôi biết lúc này thế lực của bà khá lớn. Trước đây bà từng giúp đỡ những tổ chức kháng chiến chống Đức; dĩ nhiên bây giờ nước Pháp đánh đuổi được quân Đức, những nhân vật kháng chiến đang giữ nhiệm vụ quan trọng trong chính quyền Pháp đương thời. Bà De Seize quen biết với vị đại tá giám đốc khám đường La Santé, bà đă dẫn tôi đến giới thiệu thẳng với ông này, với những lời lẽ thành thực và nồng nhiệt. Nếu tôi nhớ không lầm th́ h́nh như ông này tên là Paul Arnoux, từng làm chánh sở mật thám tại Đông Dương dưới thời quan toàn quyền Decoux. Ông có một trí nhớ phi thường. Những phạm nhân quan trọng một lần qua mắt ông đủ để ông nhớ măi. Sau này để xác nhận Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc chỉ là một, chính quyền Pháp đă nhờ đến ông đi nh́n mặt Hồ Chí Minh. Cái chi tiết làm cho ông Arnoux cam đoan Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Văn Ba, Lăo Woong, bác Trần chỉ là một người, là cái tai của họ Hồ.


Điều làm tôi ngạc nhiên lúc đầu là đại tá Arnoux tỏ ra rất cởi mở, niềm nở, ca ngợi những nhà cách mạng Việt Nam, tỏ ra rất kính phục Trần Đức Thảo. Ông cho hành động ái quốc của sinh viên Việt Nam là đúng, và tỏ ư tiếc rằng v́ nhiệim vụ phải giam giữ họ. Bàn về chính trị, ông tỏ ư mong muốn chính phủ Pháp cho thi hành một chính sách thuộc địa tiến bộ và tự do hơn. Ông phê b́nh một điểm về t́nh h́nh chính trị Việt Nam thời bấy giờ, mà cho đến nay, trong t́nh thế này, tôi thấy vẫn c̣n khá đúng. Ông nói rằng Việt Nam có nhiều nhân vật ái quốc lỗi lạc như Nguyễn Ái Quốc, Phan Chu Trinh, Trần Đức Thảo, thật xứng đáng được hưởng một nền độc lập thật sự vững chắc, không chỉ có vài nhân vật lỗi lạc, mà là phải có một lớp trí thức đông đảo và một lớp dân chúng trung b́nh tiến bộ. Ông lo ngại Việt Nam không có lớp người cần thiết đó. Tôi nghĩ một lúc rồi trả lời rằng dưới con mắt của người Pháp th́ nhận xét của ông đúng lắm, nhưng quan niệm của người Việt Nam và Á Đông th́ khác hơn đôi chút. Cái thước đo sự trưởng thành ư thức của người Pháp và người Việt Nam không giống nhau. Dân Việt Nam không phải v́ không biết đọc biết viết và không biết đi bầu mà có thể coi họ như những người dân bán khai mọi rợ. Vả lại cần phải tạo những điều kiện trưởng thành dân trí từ từ. Và không một thế lực nào có thế lấy cái cớ dân Việt Nam chưa hội đủ những tiêu chuẩn trưởng thành dân trí để thay họ cai trị đất nước họ. Nếu như nước Pháp có ḷng khai hóa cho dân Việt Nam, th́ cứ trao trả độc lập, giúp phương tiện và điều kiện cho dân Việt Nam trưởng thành dần dần để giữ vững nền độc lập đó c̣n hơn là cứ giữ tiếp tục chính sách bảo hộ măi.


Sau câu chuyện, đại tá Arnoux cho người dẫn tôi xuống pḥng giam Trần Đức Thảo. Quan nhiều hành lang, nhiều lần cửa sắt, tôi được dẫn đến một pḥng đợi. Sau hàng cửa sắt, tôi thấy Trần Đức Thảo đứng nh́n ra nháy mắt ra hiệu cho tôi. Thảo nói với lính gác rằng tôi là linh mục tuyên úy của các Việt kiều, và nhân danh nhân quyền, đ̣i hỏi được nói chuyện trực tiếp với tôi về chuyện linh hồn. Thảo phản đối việc phải nói chuyện với một linh mục tuyên úy qua lưới sắt. Lính gác lên pḥng giám đốc xin lệnh rồi trở xuống cho phép tôi và Trần Đức Thảo nói chuyện thẳng với nhau trong pḥng đợi. Tôi trao cho Thảo ít quần áo, đồ ăn và những tin tức thời sự.


Vụ bắt bớ này làm cho hội Liên Hiệp những người Đông Dương tại Pháp tan ră. V́ thế vào mùa đông năm 1945, khi nhận được một bản tuyên ngôn của năm Giám mục Việt Nam đ̣i hỏi nước Pháp phải trao trả độc lập cho Việt Nam, chúng ta dựng lên một tổ chức mới lấy danh hiệu là Hội những người Công giáo Việt Nam tại Pháp (Association des catholiques Vietnamiens de France) để có danh nghĩa và lư do phổ biến cái tuyên ngôn hay thông điệp này. Chúng tôi cho dịch và in thông điệp, rồi nhờ những hội Hướng Đạo Pháp phổ biến đến nhiều thành phố lớn khắp nước Pháp. Một số lănh tụ của Hội lại bị mật vụ Pháp bắt giam, trong đó tôi nhớ rơ nhất là anh Nguyễn Hy Hiền. Nhưng lần này nhờ sự can thiệp của ṭa Tổng Giám Mục Ba-Lê và giới Công giáo Pháp đang có nhiều ảnh hưởng trong chính quyền thời bấy giờ, các anh em được trả tự do nhanh chóng. Bản thông điệp kư tên các Giám mục Lê Hữu Từ, Nguyễn Bá Ṭng, có những lời lẽ ôn ḥa, nhưng rắn rỏi, có lă làm cho Pháp lo ng ại hơn những lời chỉ trích, chửi bới. Mặc dầu gặp khó khăn, chúng ta quyết định triệu tập một đại hội những Việt kiều tại Pháp để phổ biến thông điệp. Ông Trương Công Cừu lúc đó lo phần tổ chức. Tôi th́ đi liên lạc với một số chính khách, nhân sĩ Pháp có khuynh hướng tiến bộ như dân biểu Boutoien, bạn thân của Hồ Chí Minh, linh mục Chaillet, chủ nhiệm tạp chí Le Témoignage Chretien.


Lúc đến tiếp xúc với cha Chaillet để mời ông thuyết tŕnh trong đại hội, cha Chaillet đă cho tôi xem một vài tài liệu chứng minh rằng phong trào Việt Minh hiện đang bị chi phối bởi Cộng sản và những lănh tụ Việt Minh phần đông là những đảng viên cộng sản cốt cán. Theo tài liệu này, đảng Cộng sản Quốc tế và Pháp chỉ thị cho các đảng viên tích cực yểm trợ cho phong trào Việt Minh. Cha Chaillet cũng trưng ra những bằng chứng về những lănh tụ Việt Minh như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu, Vơ Nguyên Giáp là những đảng viên cộng sản lâu năm và đang hành động theo kế hoạch chung của cộng sản quốc tế. Cha Chaillet hỏi tôi khi đă biết việc này tôi c̣n quyết định đ̣i độc lập nữa không.


Tôi không ngần ngại trả lời rằng chúng tôi tuy không biết tường tận, nhưng cũng đoán được phong trào Việt Minh do cộng sản chi phối. Nhưng đa số dân Việt Nam th́ tin tưởng phong trào Việt Minh là một phong trào cách mạng ái quốc và tách riêng việc đ̣i độc lập cho Việt Nam, dù do ai chủ xướng, cũng là một hành động xứng đáng. Người công giáo Việt Nam có thể không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, nhưng lại ở cái thế bắt buộc phải ủng hộ việc đ̣i hỏi độc lập cho đất nước ḿnh. Công giáo Việt Nam đă mang tiếng là rước Pháp vào, là theo Pháp phản quốc; nay cách biện hộ tốt nhất là phải cùng với toàn dân Việt Nam đ̣i hỏi độc lập. Hơn nữa người công giáo Việt Nam là những công dân Việt Nam, phải làm những nghĩa vụ công dân cạnh những nghĩa vụ tín đồ công giáo.


Cha Chaillet gật gù, đồng ư thuyết tŕnh trong đại hội. Tôi không nhớ hết nội dung bài thuyết tŕnh của cha Chaillet. Nhưng đại cương, cha nói rằng theo đà tiến bộ và tiến hóa của nhân loại, đến lúc những quốc gia nhược tiểu đảm trách sứ mạng cai trị đất nước họ và những quốc gia văn minh th́ có trách nhiệm phải tạo những điều kiện và phương tiện thuận lợi để những quốc gia nhược tiểu cựu thuộc địa trở thành những quốc gia độc lập thân hữu trong một cộng đồng thế giới ḥa b́nh. Đại hội đă nồng nhiệt tán dương bài thuyết tŕnh của cha Chaillet.


Sau đại hội, Tổng Giám Mục Ba-Lê cho mời tôi lên. Tôi được gặp linh mục tổng thư kư ṭa Tổng Giám Mục. Vị này cho tôi xem một tuyên ngôn kư tên 50 tu sĩ Việt Nam cam kết trung thành với nước Pháp, cùng những tài liệu chứng minh phong trào Việt Minh do cộng sản chi phối. Tôi hỏi lại vị linh mục này rằng cha có nghĩ là 50 linh mục kư tên vào cái tuyên ngôn kỳ cục kia có đủ tư cách đại diện cho hơn triệu giáo dân Việt Nam hay không, nhất là trên phương diện chính trị. Vị linh mục làm một cử chỉ có thể coi như lối trả lời không biết. Tôi c̣n nêu nghi vấn là có thể số tên các tu sĩ ghi dưới tuyên ngôn kia không có sự đồng ư của các tu sĩ đó, một số những chữ kư có thể là giả mạo. Hơn nữa hiện nay có trên 1500 linh mục Việt Nam, hàng ngũ giáo phẩm Việt Nam chưa hề có một thứ đại hội nào đề cử 50 linh mục kia đứng ra lên tiếng thay thế cho họ. Tôi cũng nêu tên những vị linh mục nhiều uy tín mà tôi biết, không hề có tên trong bản tuyên ngôn đó. Vị linh mục tổng thư kư ṭa Tổng Giám Mục Ba-Lê tỏ ra thông cảm và cho biết rằng ông sẽ không phổ biến rộng bản tuyên ngôn này, và khuyên tôi dù sao cần thận trọng trong các hoạt động liên quan đến chính trị.


Trong những trang vừa qua, tôi phải viết về cái tôi rất nhiều, không phải v́ tôi muốn được chú ư, được ca tụng, quan trọng hóa cá nhân ḿnh. Nhưng chỉ v́ tôi muốn tŕnh bày rằng nhờ những hoàn cảnh và cơ hội đặc biệt, tôi đă có dịp tiếp xúc, kết thân, đôi lúc cộng tác với những nhân vật chính trị sau này sẽ làm thay đổi t́nh thế Việt Nam, đóng góp vào việc làm nên lịch sử Việt Nam.


Ba-Lê thời bấy giờ không những chỉ là thủ đô nước Pháp mà c̣n là thủ đô đế quốc Pháp, là nơi tập trung và gặp gỡ những nhà cách mạng sau này sẽ làm sụp đổ đế quốc thực dân Pháp. Thời bấy giờ phần lớn những nhân vật đó đang hoạt động trong bóng tối, đang ở giai đoạn qui tụ lực lương, chiêu hiền đăi sĩ và do đó họ sẵn sàng kết thân với mọi người Việt Nam có chút học vấn và tài năng. Gặp gỡ họ, t́m đến với họ và đôi lúc giúp đỡ họ không phải là chuyện khó. Hơn nữa những người Việt Nam ở Ba-Lê lúc đó ít nhiều ở trong t́nh trạng khốn quẩn, bị theo dơi, bị bắt bớ và do đó rất dễ có thiện cảm với nhau, rất dễ thương yêu đùm bọc nhau.


Bấy nhiêu hoàn cảnh, điều kiện đặc biệt đó đă giúp tôi chứng kiến hoặc tham dự vào nhiều biến cố trọng đại sau này, chuẩn bị cho tôi bước vào cái chỗ đứng mà tôi phải chiếm giữ sau này bên cạnh những nhân vật lịch sử Việt Nam.

 

 

 

3

Hy vọng và tỉnh mộng của người Việt Nam ở Pháp

 

Tôi c̣n nhớ rơ ngày hôm đó, ngày lễ thánh Louis 25-8-1944. Hôm trước vài toán quân đồng minh đă lẻ tẻ tiến vào thành phố Ba-Lê và tàn quân Đức đă rút khỏi Ba-Lê. Vị tướng Đức chỉ huy quân khu Ba-Lê h́nh như không muốn giao tranh để tránh cho Ba-Lê khỏi bị tàn phá. Những toán quân kháng chiến Pháp bắt đầu nổi lên, săn đuổi những đám tàn quân Đức khắp các ngơ đường. Khu tôi ở, Institut Catholique tương đối yên tĩnh. Nhưng tiếng súngnhỏ từ xa vọng lại, các cha, các thầy từng toán vài người tụm lại bàn tán, kháo tin. Tất cả đều lạc quan. Từ lúc biết được quân đồng minh đă bổ bộ lên Normandie, chúng ta biết chắc sớm muộn quân Đức cũng bại trận.


Điều lo lắng nhất của mọi người là quân Đức pḥng thủ Ba-Lê sẽ không chịu rút êm và sẽ chiến đấu liều lĩnh, quân đồng minh bắt buộc phải dùng những phương tiện lớn, như họ đă quen dùng ở nhiều nơi. Như vậy thành phố lịch sử này, với bao nhiêu di tích lịch sử vô giá, sẽ thành tro bụi.


Nhưng rồi một chuyện bất ngờ đă xảy ra. Sáng sớm ngày 25-8-1944, đài phát thanh của lực lượng giải phóng do tướng De Gaulle lănh đạo loan tin đoàn quân thiết giáp Pháp, do tướng Leclerc cầm đầu, sẽ tiếp thu Ba-Lê. Lộ tŕnh đoàn quân giải phóng Pháp không được loan báo v́ lư do an ninh. Nhưng ai cũng đoán được những con đường lớn mà đoàn quân thiết giáp của tường Leclerc sẽ đi qua. Chẳng hạn khu Arc de triomphe, Champs Élysée, Nhà Ga chính v.v…


Chẳng hiểu nhờ một nguồn tin đặc biệt nào, các cha các thầy ở Institut Catholique biết rằng đoàn thiết giáp của tướng Leclerc sẽ vào cửa Porte D’Orléans. Tôi là một trong số những người hăng hái đến đứng chờ ở đó. Sự chen lấn làm tôi lùi lại phía sau đám đông. Tôi nhớ rơ, đang t́m chỗ cao để nh́n đoàn thiết giáp cắm đầy những lá cờ Pháp những bó hoa của dân chúng Pháp ném mừng, th́ một người quen hốt hoảng chạy lại lôi tôi lên hàng đầu.


Đám đông dạt ra người nhường lối cho tôi qua, khi người lôi tôi đi hét to: “Tránh đường, tránh đường, cha đi xức dầu”. Lúc đó tôi mới hiểu v́ sao tôi được lôi ra hàng đầu. H́nh ảnh mà tôi ghi nhận được khi bước ra khỏi rừng người là đoàn thiết giáp của tướng Leclerc đă đi chậm lại. Tôi chợt hiểu nguyên nhân khi nh́n vào lề đường và mặt đường.


Một bà phước đă chồm lên hôn một binh sĩ trên thiết giáp lúc chiếc thiết giáp đang di chuyển với tốc độ tuy không nhanh lắm, nhưng cũng khoảng 10 cây số giờ. Bà đă bị kéo ngă, bánh xích sắt của thiết giáo đă nghiến lên bà, tôi mường tượng cảm thấy rằng ánh mắt bà phước c̣n long lanh, nhấp nháy, má bà c̣n ấm khi tôi đặt tay lên đó. Tôi làm phép xức dầu thánh và cầu nguyện ngắn ngủi cho bà.


Tai nạn này làm tôi bùi ngùi. Sao mới vui đó, hớn hở đó, mà nay đă nhắm mắt. Trong khu vực quanh xác bà phước, những tiếng reo ḥ yếu đi đôi chút. Trên mặt đường, vũng máu c̣n đọng lại. Đoàn thiết giáp chuyển bánh về hướng Ga chính, với tốc độ chậm mà đều. Từ năm năm nay, đây là lần đầu tiên tôi cùng dân chúng Pháp được thấy h́nh ảnh sức mạnh của nước Pháp.

Tôi cũng chung nỗi hân hoan với dân chúng Pháp. Nhưng rồi tôi chợt nghĩ sức mạnh này có thể dày xéo lên dân tộc tôi và tôi đă cúi mặt một lúc. Cuộc vui không c̣n vui được đối với tôi, và tôi đă bỏ về trước đám đông tản mác, trong lúc đoàn thiết giáp của tướng Leclerc vẫn c̣n kéo dài, những tiếng reo ḥ vẫn vang dội, những bó hoa vẫn được tung lên ngập đường.

Tôi bắt đầu suy nghĩ nhiều hơn, suy nghĩ nhiều chuyện. Tôi thoáng nhớ đến những cuộc khởi nghĩa trong và sau thế chiến. Và kết quả của nó như thế nào th́ mọi người đă biết. Ban nhiêu người Việt Nam thất bại và bị lưu đày th́ lịch sử đă ghi. Tôi cũng đă biết được hiện nay ở nước nhà đang có một phong trào khởi nghĩa nhen nhúm, chưa biết do ai cầm đầu và có khả năng, đường lối như thế nào.

Nhưng tôi lo sợ cho họ, cho dân tộc ḿnh. Dù đă bại trận, nhưng sức mạnh quân sự của nước Pháp cũng c̣n thừa đè bẹp mọi cuộc nổi loạn của dân tộc Việt Nam.


Trong các Việt kiều và sinh viên Việt Nam tại Pháp những người lúc bấy giờ tin tưởng rằng sau chiến thắng nước Pháp sẽ có một chính sách cởi mở hơn đối với các thuộc địa.


Họ dựa vào bài diễn văn của tướng De Gaulle đọc tại Brazzaville 30-1-1944. Lúc tôi có vẻ ngờ vực điều đó, một vài người ca tụng De Gaulle nồng nhiệt, cam đoan rằng tướng De Gaulle là người khôn ngoan, sáng suốt đă từng chịu cái khổ nhục của một kẻ mất nước, chiến đấu để giải phóng tổ quốc ḿnh, ắt hẳn sẽ thông cảm được những đ̣i hỏi độc lập của dân tộc Việt Nam.


Họ trích đọc nguyên văn cho tôi nghe vài đoạn hứa hẹn quan trọng trong bài diễn văn đó. Chẳng hạn cái đoạn nói rằng nước Pháp có nhiệm vụ phải làm cách nào để các dân tộc tại các lănh thổ thuộc địa tiến bộ dần đến tŕnh độ có thể tự quản trị. Lại có đoạn chỉ thị cho các quan toàn quyền và Cao ủy các lănh thổ Pháp quốc hải ngoại phải nghiên cứu và áp dụng những cải tổ cần thiết thích hợp với t́nh thế mới và nếu cần không do dự trong việc cải tổ cơ cấu cai trị.


Tôi cũng rất muốn hy vọng như họ. Nhưng tôi hiểu rơ người Pháp và nước Pháp hơn họ. Người Pháp có thể nói là rất tốt, rất hồn nhiên, cởi mở dân chủ văn minh.


Nhưng đối với các nước nhược tiểu th́ nước Pháp có chính sách riêng của nó, chính sách mà nhiều người Pháp có thể không đồng ư, nhưng vẫn được thi hành.


Nước Pháp đă được giải phóng nhanh chóng. Quân Đức pḥng thủ Ba-Lê đầu hàng mà không chiến đấu. Thành phố Ba-Lê không bị tan nát v́ bom đạn trong lúc giao tranh.


Các di tích lsa Ba-Lê vẫn được bảo toàn. Có tin đồn rằng sở dĩ Ba-Lê tránh được cảnh điêu tàn là nhờ sự trung gian của một bậc thẩm quyền trong Giáo hội. Cho đến nay điều này vẫn c̣n là bí mật lịch sử. Không ai hiểu được tại sao. H́nh như Đức Tổng Giám Mục thành Ba-Lê đóng một vai tṛ quan trọng trong vụ này. Cho nên sau khi Ba-Lê được giải phóng, mặc dù nhiều người chỉ trích ngài đă theo chính phủ Vichy và Đức, tướng De Gaulle triệt để ra lệnh tôn trọng ngài, và một chủ nhật tướng De Gaulle đă dự lễ do ngài hành lễ.


Thực ra cho đến nay không ai hiểu nguyên nhân nào đă xui tướng Đức Von Choltitz đầu hàng một cách dễ dàng mà không chiến đấu.


Lịch sử chỉ ghi rằng tướng Choltitz đă đầu hàng sau một cuộc thương thuyết mau chóng với ông Nordling, đại sứ Thụy Sĩ mà chưa chiến đấu và chưa gây cho Ba-Lê một cảnh tàn phá nào.


Những cuộc vui của dân chúng Pháp những ngày sau chiến thắng càng làm cho tôi bùi ngùi.


Nước Pháp chỉ bị chiếm đóng vài năm. Nước Việt Nam tôi đă bị nô lệ mấy chục năm. Nếu được độc lập dân tộc Việt Nam vui sướng đến mực nào. Tôi không bao giờ quên được điều mơ ước đó. Thực ra cái mơ ước cho Việt Nam được độc lập, tự do và tiến bộ đă làm tôi phải bỏ dở luận án tiến sĩ.


Tôi không ân hận ǵ lắm, mặc dầu đôi lúc hơi tiếc. Nghĩ cho cùng th́ lấy thêm vài bằng cấp không chắc ǵ đă có ích cho tôi, cho sự hiểu biết của tôi bằng những hoạt động chung với anh em sinh viên Việt Nam và các Việt kiều ở Pháp. Tôi hiểu tôi là một linh mục, nhưng là một linh mục Việt Nam. Tôi có bổn phận với Chúa, với Giáo hội nhưng tôi cũng có bổn phận với tổ quốc, với dân tộc.


Tuy ngờ vực sự thành tâm của Pháp trong những hứa hẹn thi hành một chính sách cởi mở và tiến bộ đối với các thuộc địa, tôi vẫn chưa tắt hy vọng, vẫn chờ một phép lạ, và vẫn muốn nghĩ rằng những hoạt động của anh em sinh viên và Việt kiều, góp thêm vào những cuộc đấu tranh tại nước nhà sẽ giúp ích cho việc tranh thủ độc lập.


Cho nên tôi vẫn tiếp tục qua lại với các tổ chức sinh viên và Việt kiều như trước. Mọi người đều nuôi một ư thức khẩn trương và hăng hái hoạt động, có điều họ không nắm rơ chiều hướng hoạt động. Chỉ có một việc làm cụ thể nhất mà chúng tôi cố gắng là tập hợp, liên kết và tổ chức những sinh viên và Việt kiều trong khu vực Ba-Lê, hy vọng gây được một thanh thế.


Những hoạt động của tôi và các sinh viên Việt kiều tại khu Ba-Lê trong thời gian này th́ có nhiều người biết, nên tôi thiết tưởng không nhắc đến nhiều làm ǵ.


Tôi chỉ xin kể lại một vài câu chuyện mà tôi cho là có ư nghĩa đặc biệt đă ghi đậm hơn vào trí nhớ tôi. Chẳng hạn mấy lần gặp gỡ với cựu hoàng đế Duy Tân, tức là thái tử Vĩnh San.

 

 

4

Vua Duy Tân và Phong Trào “Cờ Tự Trị” tại Pháp

 

Tôi đứng lên, mở cửa. Trước ngưỡng cửa hiện ra một người đàn ông Việt Nam khoảng 40 hay 45 tuổi, cao lớn, hơi gầy, tai lớn, khoác chiếc áo lạnh dày, khuôn mặt ông hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Tôi cố moi trong trí nhớ xem có người quen biết nào lâu năm không gặp lại, nay đến t́m tôi, nhưng tuyệt nhiên không t́m thấy một nét quen thuộc nào. Tôi nh́n người đàn ông lạ chờ đợi. Ông ta chậm chạp cởi chiếc áo khoác, máng lên móc. Bấy giờ tôi thấy bên trong, ông mặc quân phục Pháp, mang cấp bậc chuẩn úy bộ binh Pháp.


Sau này nước Pháp được giải phóng, những người lính Việt Nam mang cấp bậc sĩ quan Pháp khá nhiều. Cho nên quân phục và cấp bậc không làm cho tôi nhớ lại điều ǵ.


Có thể đây là một người vừa từ các trại tù binh Đức được giải thoát. Có thể từ đoàn quân thuộc địa Pháp được đem vào giải phóng mẫu quốc.


Người đàn ông lạ tự giới thiệu:


- Thưa cha, tôi là Vĩnh San.


Tôi lẩm bẩm, và trong đầu óc cố moi móc ra những cái tên Hoàng phái:

- Vĩnh San… Vĩnh San…


- Xin lỗi ngài, trong Hoàng phái có quá nhiều chi, nào là Bửu, Vĩnh… nên tôi không nhớ…


Người tự xưng là Vĩnh San mỉm cười:


- Thưa cha, có lẽ nếu tôi nói đến một cái tên thứ hai của tôi th́ cha sẽ nhớ lại được. Thưa cha, ngày xưa tôi là hoàng đế Duy Tân.


Tôi giật ḿnh, nh́n người đàn ông hơi kỹ hơn, rồi do ḷng kính phục tự nhiên mà bao nhiêu năm ôm ấp huyền thoại về một vị vua trẻ tuổi, anh hùng đă tạo ra, tôi qú phục xuống theo nghi lễ triều yết:


- Hân hạnh được ra mắt ngài.


Nhưng cựu hoàng Duy Tân, hay Thái tử Vĩnh San vội vàng đỡ tôi dậy, cười tươi tắn, và kéo tôi vào ghế ngồi đối diện nhau:

- Xin cha đừng nhắc nhiều đến chuyện cũ. Tôi đến đây chính ra để thưa với cha những chuyện hiện tại, nhờ cha giúp cho về vài chuyện hiện tại.


- Nếu có thể giúp được việc ǵ tôi xin sẵn sàng, nhưng xin hỏi ngài một câu: làm sao ngài biết tôi, biết địa chỉ tôi mà đến t́m?


- Cha khiêm tốn quá không để ư đó thôi. Danh tiếng cha trong giới Việt kiều ở hải ngoại đâu cũng biết. Khi đến Ba-Lê, đă có người giới thiệu với tôi rằng nếu muốn đi vào giới Việt kiều ở đây, th́ hăy t́m gặp cha Cao Văn Luận. Tôi t́m gặp cha cũng v́ chuyện đó.


- Xin lỗi ngài, cho tôi hỏi thêm một câu để thỏa tính ṭ ṃ: hiện nay t́nh trạng của ngài ra sao?


Cựu hoàng Duy Tân châm thuốc hút, nh́n mơ màng trả lời:


- Bây giờ th́ như cha thấy, tôi là một chuẩn úy trong quân đội Pháp. Ngay sau lúc nghe tin tướng De Gaulle lập lực lượng kháng chiến FFI (Forcés France caises de l’Intérieur) tôi đang bị giam ở đảo La Réunion lập tức xin gặp quan toàn quyền Pháp ở đó, và yêu cầu được gia nhập lực lượng kháng chiến chống quốc xă Đức và họ cho tôi đến Madagascar. Lời yêu cầu của tôi được thỏa măn. Có lẽ v́ họ muốn dùng tôi để lôi cuốn mấy ngàn Việt kiều ở Madagascar và dân Việt Nam ở nước nhà về phe kháng chiến chống Đức. Tôi được mang cấp bậc chuẩn úy, như ngài thấy. Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta giúp nước Pháp trong hoạn nạn, hay ít ra tỏ ḷng hào hiệp với nước Pháp trong lúc đó, th́ có thể gây cho họ sự kính nể đối với ta, về sau họ phải nghĩ lại nhiều hơn khi tái chiếm Đông Pháp.


- Có thể hành động của ngài đúng nhưng chuyện về sau chưa biết thế nào.


- Đành vậy. Chuyện về sau th́ bây giờ tôi đang lo đây. Lúc rời Madagascar, các Việt kiều, các sinh viên Việt Nam du học ở Pháp th́ không có cách nào hay hơn là t́m gặp cha. Cha rất được kính nể và quen biết rất nhiều trong giới Việt kiều ở đây

Tôi có phần cảm động v́ sự tin tưởng của các Việt kiều, cũng như của Cựu hoàng Duy Tân, tôi thú nhận là từ khi sang Ba-Lê, một phần lớn th́ giờ của tôi đă được dành để tiếp xúc, sinh hoạt, hoạt động với các anh em sinh viên Việt Nam du học, các Việt kiều, các lính thợ ở lại Pháp sau đệ nhị thế chiến. Những Việt kiều tại Ba-Lê, tôi đă tụ tập họ vào một hội Việt kiều công giáo Ba-Lê, và sau này trở thành giáo xứ Việt Nam tại Ba-Lê. Tôi không hiểu được tư tưởng, mưu định của nhà vua. Trong câu chuyện trao đổi đêm hôm vua Duy Tân chỉ nói những chi tiết, những giai thoại về đời sốngvk ở Madagascar. Tôi cũng chưa dám hỏi kỹ lưỡng, v́ nghĩ rằng nếu người ta muốn nói th́ không cần hỏi cũng nói, nếu muốn dấu th́ hỏi họ lại càng dấu kín.


Câu chuyện trở lại việc vua Duy Tân muốn tiếp xúc với các Việt kiều, các đoàn thể Việt Nam ở Pháp. Tôi thưa với ngài:


- Chuyện đó th́ tôi có thể giúp ngài được. Tôi xin đề nghị là ngài nên t́m một cơ hội gặp chung một số sinh viên, trí thức ưu tú trước, sau đó tùy nhận xét của ngài, tùy mối thiện cảm của ngài gây ra được, ngài sẽ tiếp xúc riêng với từng người th́ tiện hơn.


Vua Duy Tân gật gù, tán đồng ư kiến đó:


- Mọi việc xin nhờ cha thu xếp.


Tôi hỏi địa chỉ ông ta và hẹn một tuần sau sẽ mời ông đến tham dự một buổi tiếp tân khiêm tốn do các hội đoàn Việt kiều tổ chức để đón mừng ông. Tiễn ông vua cũ mà tôi chỉ nhớ qua những huyền thoại, ra khỏi cửa, ḷng tôi bùi ngùi thương nhớ. Cuộc nổi loạn của vua Duy Tân tuy thất bại, nhưng tiếng vang đă thức tỉnh dân chúng Việt Nam, đă nuôi dưỡng được ư chí quật cường của dân tộc trong bấy lâu nay. Trong lần gặp gỡ này, tôi chưa hiểu được vua Duy Tân có c̣n là vị vua anh hùng ngày xưa, dám đem ngai vàng thách đố với một cuộc phiêu lưu vô vọng.


Tôi chỉ ghi nhớ một việc khá rơ trong câu chuyện đêm hôm đó: vua Duy Tân muốn trở lại hoạt động chính trị. Theo chiều hướng nào th́ tôi chưa được biết. Nhưng tôi nghĩ cái chí nguyện đó rất đáng kính phục và giúp đỡ.



Mỗi người phải được một cơ hội để làm lại, để đem những khôn ngoan, kinh nghiệm học được trong thất bại, trong gian khổ, thử thách một lần nữa. V́ những ư nghĩ như vậy, tôi khá hăng hái lo việc tập họp các sinh viên trí thức Việt Nam tại Ba-Lê và các Việt kiều ưu tú.

 

(c̣n tiếp)

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính