“Xem quả th́ biết vườn cây, nghe lời miệng nói biết ngay ḷng người.”

 

Linh Mục Thái Nguyên



 

Sức mạnh của lời nói (2)

“Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương,

để anh em biết đối đáp sao cho phải với mỗi người.” (Cl 4, 6).

 

 

Lời nói phát xuất từ bên trong

Lời nói thể hiện con người: “Xem quả th́ biết vườn cây, nghe lời miệng nói biết ngay ḷng người.” (Hc 27, 6). Nguyên nhân sâu thẳm của lời nói phát xuất từ bên trong, do tâm ư mà có. V́ thế, những lời nói tồi tệ phóng ra qua cửa miệng bên ngoài chứng tỏ người ta đă trở nên ô uế từ ở cơi ḷng ḿnh: “C̣n những cái ǵ từ miệng xuất ra, là phát xuất tự ḷng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. V́ tự ḷng phát xuất những ư định gian tà, những tội giết người, trộm cắp... xuyên tạc sự thật, làm chứng gian và vu khống.” (Mt 15, 18-20 ).

 

Ḷng đă xấu th́ không thể phát ra điều tốt được. Chính v́ nhận thấy điều gian ác nơi ḷng những người Pharisêu, nên Chúa Giêsu đă từng nói thẳng với họ: “Loài rắn độc kia, xấu như các người, th́ làm sao nói điều tốt được? V́ ḷng có đầy, miệng mới nói ra. Người tốt th́ rút cái tốt từ kho tàng tốt của ḿnh; kẻ xấu th́ rút cái xấu từ kho tàng xấu của ḿnh.” (Mt 12, 34-35 ).

 

Do ḷng ganh tị và ghen ghét ít nhiều nằm vùng trong tâm hồn mỗi người, nên ta dễ bị cám dỗ phát ra những lời nói tai hại với một ai đó, làm hủy hoại thanh danh và đời sống tinh thần của họ. V́ thế, để có thể nói những ǵ tốt lành và hữu ích đ̣i ta phải chỉnh sửa và thanh lọc từ bên trong của ḷng ḿnh. Điều quan trọng nhất là có được tấm ḷng yêu thương. Khi có một tấm ḷng thực sự biết thương yêu mọi người, tự nhiên người ta biết cách phải nói như thế nào cho thích hợp và sinh ích lợi cho người nghe.

 

Khi dùng những lời phê phán tiêu cực chứng tỏ ḿnh không có t́nh thương. Phê phán tiêu cực là một cách thế cố t́m cách bôi xóa tên của kẻ khác để thay thế tên ḿnh vào đó. Điều đó nói lên sự đố kỵ và ư đồ muốn chiếm đoạt cách bất công và bất nghĩa. Quả là một cách thế bần tiện, nhưng rồi đó vẫn là điều xảy ra hằng ngày trong đời sống xă hội và cộng đoàn. Lề thói vô tâm này là điều oan trái nhất cho chính ḿnh, “V́ Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót.” (Gc 2, 13).

         Nói xấu, nói tốt

         Căn bản trong t́nh yêu thương là muốn sự tốt, sự lành cho người khác. Ai cũng muốn thấy ḿnh tốt ở giữa mọi người, nhưng khi nói xấu một người th́ bên trong ḿnh không c̣n tốt nữa. Làm sao ta có thể nói xấu người khác được khi bên trong ta muốn yêu thương và làm điều tốt cho họ. Sự mâu thuẫn này cho thấy con người ḿnh đang bị phân rẽ và hỗn loạn. Hơn nữa, khi nói xấu người khác là ta muốn xét đoán họ, và muốn chiếm đoạt quyền hành của Thiên Chúa. Thánh Giacôbê cho chúng ta biết rằng:  “Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em ḿnh là nói xấu và xét đoán Lề Luật… Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?” (Gc 4, 12).

 

         Sách Thánh đă từng lên án những kẻ nói xấu: “Đáng nguyền rủa thay kẻ nói xấu.” (Hc 28, 13). Nếu ta không ư thức và quyết liệt ngăn chặn bằng mọi cách th́ nói xấu trở thành một thói quen bệnh tật suốt đời: “Người đă quen nói những lời nhục mạ th́ suốt đời không ai sửa dạy nổi.” (Hc 23, 15).

 

         Lời nói xấu đưa đến một thảm hại cho chính người nói. Chúng ta hăy nhớ lại câu chuyện Mariam và Aaron nói xấu ông Môsê (Ds 12, 4-15), sau đó Chúa đă phạt Mariam bị cùi và bị liệt giường luôn 7 ngày, nhờ Môsê kêu xin, nên Chúa mới tha cho.

 

   Khi nói về người khác, nếu nói tốt được cho họ th́ hăy nói, không nói được th́ hăy kềm giữ miệng lưỡi lại, kẻo thanh danh người khác bị hại mà chính ḿnh cũng tự chuốc lấy tai họa. Nói xấu người khác là muốn chứng chứng tỏ ḿnh tốt, nhưng người tốt th́ lại không nói xấu người khác. Chỉ những ai có trách nhiệm mới có bổn phận để phán đoán về người khác mà thôi.

 

Ta thường phóng chiếu con người ḿnh lên người khác bằng lời nói mà ta ít khi ư thức được. Mọi lời nói cũng chỉ là cách thức phô diễn nội tâm của ḿnh. Lời nói tốt đẹp cho người khác th́ chứng tỏ sự tốt đẹp của ḷng ḿnh. Trái lại, lời nói xấu xa về người khác th́ chứng tỏ sự xấu xa của ḷng ta. Đặc biệt là những lời nói mang tính dối trá, tự đại, ghen tị, cho thấy một sự thảm hại của tâm hồn. Đức Phật đă nói về những điều đó như sau:

 

“Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.

Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại

         Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị”.

 

         Nói ít, nói nhiều

Nói ít hay ít nói là tốt? Tùy bản tính mỗi người, nhưng nói ít, rơ ràng, gọn nhẹ vẫn tốt hơn. Nói ít không phải là ít nói, mà là nói vừa đủ cho từng vấn đề. Đang khi đó, ít nói có nhiều khi làm người khác khó hiểu ḿnh, hoặc hiểu lầm. Đành rằng, người ta tin ở việc làm chứ không tin ở lời nói, nhưng ít nói quá dễ mất đi sự thông giao và bầu khí cởi mở cần phải có trong đời thường.

 

Điều đáng ngại là nói nhiều. Sách Châm ngôn cho thấy: “Người năng nói năng lỗi, ai dè giữ lời nói mới là người khôn.” (Cn 10, 19). Thật vậy, “Nói hay đến đâu mặc ḷng, khi nói nhiều bao giờ cũng đâm ra nói đến điều bậy” (Dumas Père). Chúng ta có hai tai mà chỉ có một cái lưỡi, để chúng ta nghe nhiều hơn và nói ít thôi. Cũng vậy, “Không phải câu hỏi nào cũng đáng được trả lời”. Phải hiểu rơ được tâm ư người muốn hỏi, hỏi chân thành hay muốn khiêu khích, muốn t́m hiểu hay muốn bắt bẻ, hoặc hỏi để mà hỏi thế thôi. Có những câu hỏi mà Chúa Giêsu không hề trả lời (x. Mt 27, 14); hoặc trả lời cách khác (x. Ga 8, 4-8); hoặc hỏi lại kẻ hỏi Ngài (x. Mt 21, 21-24).

 

Mục đích của mọi lời nói là đạt đến sự thông giao, để hiểu biết lẫn nhau, để t́m đến chân lư và đưa đến sự ḥa hợp trong một cuộc sống an vui. Điều quan trọng và bổ ích không phải là số lượng lời nói, mà là phẩm chất của những ǵ ḿnh nói, đồng thời cũng phải biết cân nhắc liều lượng cho vừa đủ và thích hợp trong từng hoàn cảnh và con người.

 

         Lời khen, tiếng chê

Nhiều khi ta quá dè sẻn và keo kiệt những lời nói mang tính động viên, khuyến khích và khen lao người khác, mà quá lạm dụng và phung phí những lời chê bai, coi thường và khích bác anh em ḿnh, làm họ dễ sờn ḷng nản chí, không c̣n hứng thú phát triển khả năng và sáng tạo trong công việc. Phát ngôn những lời lẽ như vậy chứng tỏ một tâm hồn nông cạn và nghèo nàn. V́ nông cạn nên hời hợt trong nhận định, không thấy được cái hay, cái tốt của người khác để khen; v́ nghèo nàn nên chẳng có ǵ để cho người khác, có cho cũng là cho những tai hại bằng những lời chê bai, khinh dễ.

 

Không phải là ta không thấy điều hay lẽ phải, cũng như những cái sáng giá nơi người anh em ḿnh, nhưng rồi v́ thói kiêu căng, trịch thượng, háo danh và đố kỵ, ta không muốn thấy, không muốn đề cao họ, mà trái lại c̣n muốn t́m cách chê bai để hạ bệ. Hơn nữa, có khi c̣n phạm vào điều tối kỵ là moi móc chuyện riêng tư quá khứ của người khác để phê b́nh, chỉ trích... Thật ra khi làm như vậy là ta hạ bệ chính ḿnh, và hủy diệt nhân cách của ḿnh. 

 

Ngoài ra, đừng nghĩ rằng, nói những lời mạnh bạo, gắt gao mà người khác có thể nghe ta. Những lời nói càng mạnh bạo và chua cay gắt gỏng càng chứng tỏ một lư lẽ yếu đuối, càng chứng tỏ một tâm hồn non nớt, không có sức thuyết phục. V́ vậy, “Lời nhă nhặn, lời ôn tồn, tựu trung là lời mănh liệt nhất” (Glodden). Thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta: “Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương, để anh em biết đối đáp sao cho phải với mỗi người.” (Cl 4, 6). Sách Châm ngôn cũng nói:  “Câu đáp dịu dàng khiến cơn giận tiêu tan, lời nói khiêu khích làm nổi cơn thịnh nộ.” (Cn 15,1).

 

Đứng trước những lời khen, chê, nói tốt hay nói xấu về ḿnh, ta cần phải phải tập cho ḿnh thái độ b́nh thản: không háo hức v́ lời khen, cũng không buồn bực v́ tiếng chê; không vui mừng sung sướng khi nghe người khác nói tốt, mà cũng không nản chí buồn phiền v́ người ta nói xấu. Lời nói khen, chê, tốt, xấu của người khác cũng chỉ tương đối thôi. Không phải v́ người khác nói tốt mà ḿnh tốt, nói xấu mà ḿnh xấu. Tốt xấu tự chúng ta biết. Đừng để cho sự đàm tiếu hoặc bưng bít của người khác thao túng tâm hồn ḿnh: lời khen dễ làm cho ta bị ảo tưởng; tiếng chê dễ làm ta bị lầm tưởng.  Hăy coi lời khen như một sự động viên, tiếng chê như một điều cảnh báo. Tuy nhiên, cũng phải thận trọng suy xét trước lời khen, chê. Khổng Tử nói rằng: “Kẻ khen ta mà khen sai là kẻ thù của ta, kẻ chê ta mà chê đúng là thầy ta”.

 

Đừng sợ người ta trách móc, cũng đừng chuộng những lời khen ngợi: “Có những điều trách móc là khen ngợi, và có những điều khen ngợi là phỉ báng” (La Rochefoucauld). Thật sự th́ nhiều khi người ta chê ḿnh cũng đúng, và nói xấu ḿnh cũng đáng. Tất cả đều phải được đón nhận và thanh lọc từ phía ḿnh, chứ không được sinh ra những phản ứng tiêu cực. Phản ứng tiêu cực là lựa chọn một thái độ thấp kém, tự hạ giá bản thân ḿnh một cách vô lư do lời nói của người khác. Hăy coi đó một thách đố để vượt qua chính ḿnh. Đó mới là thái độ chân chính của con người biết tự trọng, và tôn trọng những giá trị bản thân như một tiếng gọi vươn lên khỏi những tầm thường.

 

Kẻ nói, người nghe

“Kẻ nói tức là gieo, kẻ nghe tức là gặt” (Plutaroue). Gieo th́ phải biết ḿnh gieo cái ǵ, giống tốt hay giống xấu. Gặt cũng phải biết ḿnh gặt cái ǵ, gặt cỏ hay gặt lúa. Biết cái xấu mà vẫn gieo là hạng ác nhân, biết cỏ mà vẫn gặt là dại dột. Ngoài sự cố ư gieo tin độc địa của người nói và sự ham thích những điều càn dở của người nghe, th́ c̣n là một sự đồng t́nh và đồng lơa với sự dữ tạo thêm sự hỗn loạn trong đời sống con người. Đang khi Chúa muốn qui tụ và hợp nhất mọi người th́ ta lại gây chia rẽ, đó là những người “sống theo tính tự nhiên, không có Thần Khí.” (Gđ 1, 19). Đang khi Chúa muốn ngọn lửa t́nh yêu mang xuống từ trời được cháy lên, th́ kẻ nghe và người nói lại hùa nhau dập tắt, đó là những người đă quen sống theo tác động của ác thần. Đă quen bị kềm chế trong tâm bởi những điều xấu, người ta không c̣n khả năng để nói và nghe những điều tốt. Chẳng ai chịu nhận ḿnh như vậy đâu và coi như ḿnh bị xúc phạm. Nhưng xem quả th́ biết cây, thực tế đă chứng minh, ḿnh không thể phủ nhận, nhưng cần khiêm tốn thú nhận để bắt đầu lại trong tự do của Thánh Thần.

 

Người nói, cho dù nói về người khác th́ cũng là một cách nói về ḿnh, một cách phơi trần bản thân ḿnh. Những điều xấu, điều tốt, tâm chất và tính cách đều được hiển lộ ra trong lời nói. Những người ít kinh nghiệm th́ không thấy, nhưng những người từng trải th́ thấy khá rơ. Ngôn từ, giọng điệu, bộ dạng, kiểu cách của lời nói cho người khác một đánh giá khá chính xác về ḷng dạ ḿnh. Dĩ nhiên cũng có những tay “cáo già” có thể ḷe bịp và qua mắt được thiên hạ, nhưng rồi thời gian vẫn là phương cách hữu hiệu để biết những điều căn bản nơi một con người. 

 

 

Khi nói, cũng phải biết ḿnh đang nói với ai, nói về ai, đáng nói hay không. Đức Khổng Tử khuyên rằng: Khả dữ ngôn nhi bất dữ chi ngôn, thất nhân. Bất khả dữ ngôn nhi dữ chi ngôn, thất ngôn”: Người nào đáng nói mà ḿnh không nói th́ mất người. Người nào không đáng nói mà ḿnh lại nói th́ mất lời. Mất cái nào cũng đáng tiếc, nhưng đáng tiếc nhất là mất chính ḿnh, khi nói những điều không cần nói, không nên nói và không được phép nói, hoặc nói không đúng lúc, đúng thời, đúng nơi, đúng người. Sách Châm ngôn viết rằng: “Lời nói ra đúng lúc đúng thời khác chi táo vàng trên đĩa bạc chạm trổ” (Cn 25, 11).

 

1.     Người nghe cũng vậy, phải rất thận trọng, không phải cái ǵ cũng nghe, và biết ḿnh đang nghe cái ǵ. Ta chỉ nghe những ǵ đáng nghe và loại bỏ những ǵ không cần nghe. Nghe điều ǵ, bao giờ chúng ta cũng phải suy nghĩ lại, không thể hùa theo dư luận hay đám đông, ngay cả những người có uy thế cũng vậy. Không thể để ḿnh nghe theo người khác một cách dễ dàng. Nếu thế th́  ḿnh đâu c̣n là ḿnh, bởi v́ đă đánh đánh mất tư thế chủ động của ḿnh, do chính ḿnh chưa có sự cân nhắc và phân định thực hư.

2.      V́ thế, không phải nghe cái ǵ cũng đón nhận, mà biết cẩn thận phán đoán và chọn lọc những ǵ ḿnh nghe. Cần lắng nghe bằng lư trí và con tim chứ không phải bằng lỗ tai. Lỗ tai chỉ là đường vào, c̣n sự thật như thế nào th́ phải để lư trí sàng lọc và con tim cảm nhận một cách chính trực.

 

Có những người nói rất hay, tuy nhiên, Khổng Tử nói rằng: “Hữu đức giả tất hữu ngôn, hữu ngôn giả bất tất hữu đức”: người có đức ắt có tài ngôn ngữ, người có tài ngôn ngữ chưa chắc là có đức. Trong quan hệ với mọi người, dù là người thân thích đi nữa, th́ nghe không bao giờ đi liền với tin, nhập nhằng hai điều này thành một là kẻ dại dột nhất, dễ bị lợi dụng nhất, dễ thất bại nhất. Bất cứ nghe điều ǵ cũng phải được kiểm chứng lại bằng thực tế, không phải chỉ nghe gián tiếp mà c̣n phải nghe trực tiếp để nhận thấy; không phải chỉ nhận thấy bằng tai, mắt, tâm, trí, mà c̣n bằng chính kinh nghiệm của ḿnh cũng như người khác. Đó mới là thái độ khôn ngoan nhất. Đành rằng, có thể người ta nói với ḿnh bằng sự thật, nhưng nhiều khi sự thật đă bị bóp méo ít nhiều, do cảm xúc chủ quan và thành kiến khi nói lại với ta.

 

Hơn nữa, để hiểu điều người khác nói, không phải là hiểu ngôn từ, lư lẽ hay biện luận của họ mà là để hiểu tâm ư của họ. Đối với những kẻ gian trá th́ thường lại rất khôn ranh trong những điều họ nói, để dụ dỗ hay lôi kéo ta về phía họ, và luôn có những cái bẫy ngầm làm cho người nghe dễ mắc vào. Chính Chúa Giêsu cũng đă từng bị giăng bẫy qua những lời đạo đức và ngon ngọt của đối phương (x. Mt 22, 19-22; Lc 11, 54).

 

Thánh Phaolô cũng cảnh giác chúng ta như sau: “Hăy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lư và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Kitô.” (Cl 2, 8). Có điều oan khiên là nhiều khi lời nói mưu mô, tà ư và vô tâm của người khác lại phù hợp với những định kiến và dục vọng của ḷng ta, nên ta không c̣n khả năng kiểm chứng nữa, và như thế làm cho ta càng thêm cuồng tín hơn, và những đối tượng bị nói đến lại càng hứng chịu bất công một cách nghiệt ngă hơn

 

Nh́n về Chúa Giêsu

Những ai phải hứng chịu những bất công do những lời nói xấu xa của người khác, th́ “Hăy nh́n về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn không phải hổ ngươi bẽ mặt.” (Tv 34, 6). Hăy nh́n về Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, Đấng phải chịu biết bao lời sỉ nhục, nguyền rủa và vu khống của con người. Chúa c̣n như vậy nữa, huống chi chúng ta. Điều đó cho thấy sự tệ rạc của con người nhân loại chúng ta trong cách cư xử với nhau, nhưng rồi trên thập giá, Chúa vẫn nói lời yêu thương tha thứ.

 

V́ thế, khi phải chịu những nỗi đắng cay do lời nói người khác gây ra, th́ chúng ta biết là Chúa đă chịu thay cho chúng ta và đang cùng chịu với chúng ta, để rồi khi phải nói, chúng ta cũng nói lời yêu thương tha thứ cho mọi người như Chúa đă nói. Nhưng cũng đừng quên rằng, bản thân ta vẫn luôn mỏng gịn và yếu đuối, nên có nhiều khi người khác phải chịu những lời thóa mạ của ta c̣n hơn là ta chịu v́ họ. V́ thế, bù qua sớt lại cũng khó mà cân lượng.

 

Lạy Chúa, chỉ khi nào con biết dùng những lời nói chân thật, khiêm tốn và khoan dung để đem lại an vui thuận ḥa, để yêu thương và tha thứ, để bênh vực và che chở, để quan tâm nâng đỡ và khích lệ, đồng thời dám để cho người khác trổi vượt hơn con th́ tâm hồn con mới thực sự trong sáng và cao đẹp. Khi biết dùng những lời lẽ như thế con mới biết ḿnh là người sống trong Chúa và Chúa sống trong con.

 

Xin cho con biết tha thiết sống hiệp nhất với Chúa và khao khát lắng nghe tiếng Chúa nói trong thâm tâm con, để ư Chúa muốn nói trở thành lời con nói, và đó chính là những lời nói gieo rắc mầm sống của ơn cứu độ mà Chúa muốn mời gọi con góp phần để xây dựng một trời mới đất mới mà Chúa đang kiến tạo cho nhân loại chúng con. Amen.

 

Linh Mục Thái Nguyên

 

 

 

 

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính