Điều ǵ khiến Việt Cộng phá tiền lệ đưa Mỹ lên làm đối tác ngang hàng với Tàu Cộng

 

18/09/2023

Linh Đan

 

 

Tổng bí thư VC Nguyễn Phú Trọng (phải) đón tiếp Tổng thống Joe Biden (trái) trong một buổi lễ tại Phủ Chủ tịch ở Hà Nội hôm 10/9.

 

Xem b́nh luận (2)

 

Tổng thống Joe Biden đă khiến nhiều người bất ngờ khi tiết lộ tại một buổi gây quỹ tài trợ cho chiến dịch tranh cử vào Bạch Ốc lần 2 của ông  đầu tháng trước rằng ông sẽ đi thăm Hà Nội v́ Việt Nam muốn đặt Mỹ ngang hàng với Tàu Cộng trong quan hệ đối tác.

 

Theo thông lệ, Việt Nam nâng tầm quan hệ với các nước từng bậc một trên hệ thống quan hệ ngoại giao 3 nấc của Hà Nội, với Mỹ lúc đó ở mức thấp nhất – đối tác toàn diện – trong khi Tàu Cộng ở tầm cao nhất – đối tác chiến lược toàn diện.

 

Chính quyền Biden đă thúc ép Việt Cộng nâng cấp quan hệ nhưng Hà Nội do dự v́ lo ngại phản ứng của Tàu Cộng, quốc gia Cộng sản cùng ư  thức hệ và là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.

 

Ư tưởng của Mỹ?

 

Tuy nhiên một chuyến thăm Washington của Thứ trưởng Ngoại giao kiêm Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Lê Hoài Trung hồi tháng 6 năm nay đă cho thấy phía Việt Cộng bật đèn xanh cho khả năng đó. Theo một quan chức của chính quyền Biden nói với CNN, ông Trung và cố vấn an  ninh quốc gia Hoa Kỳ Jake Sullivan đă bàn thảo về khả năng nâng cấp quan hệ trong chuyến thăm này.

 

Nhưng sau cuộc thảo luận đó, ông Sullivan tự hỏi liệu Mỹ có thể tham vọng hơn trong việc nâng cấp mối quan hệ với Việt Nam qua cả bậc “đối tác chiến lược” hay không. Theo CNN, ông Sullivan sau đó gửi đề nghị tới ông Trung, muốn đưa mối quan hệ lên mức cao nhất có thể để Mỹ ngang hàng với các “đối tác chiến lược” khác của Việt Nam, gồm Tàu Cộng, Nga, Ấn Độ và Nam Hàn.

 

Ông Sullivan sau đó nhắc lại lời đề nghị lúc gặp ông Trung vào giữa tháng 7 khi cùng Tổng thống Biden dự Hội nghị Thượng đỉnh NATO ở Helsinki,  Phần Lan. Theo CNN, quan chức này cho biết cuộc đối thoại thúc đẩy khả năng nâng 2 cấp đi theo hướng tích cực nhưng phải đến chuyến thăm  Bạch Ốc vào giữa tháng 8 của Đại sứ Việt Nam tại Washington, một thỏa thuận mới được đưa ra. Trong văn pḥng ở cánh Tây của Bạch Ốc,

 

 hai bên đă hoàn tất kế hoạch đưa quan hệ Mỹ-Việt lên một tầm cao mới, trong đó người đứng đầu Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng sẽ đón Tổng  thống Biden và bắt tay ông tại Hà Nội.

 

VOA đă gửi đề nghị b́nh luận về những tiết lộ trên tới Bạch Ốc và Bộ Ngoại giao Việt Nam ở Washington DC.

 

Vào ngày 10/9, Tổng thống Biden đă bỏ qua cuộc họp thượng đỉnh của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á để đến Việt Nam, gặp mặt toàn bộ các

 

lănh đạo ‘tứ trụ’ ở Hà Nội và cùng ông Trọng tuyên bố nâng cấp quan hệ Mỹ-Việt lên tầm cao nhất. Ông Biden gọi đây là cột mốc lịch sử trong quan hệ hai nước, từ cựu thù trở thành đối tác chiến lược toàn diện.

 

‘Tàu Cộng là tác giả cuối cùng’

 

“Việc nâng cấp quan hệ Mỹ-Việt lên ‘đối tác chiến lược toàn diện’ sẽ mang lại cho Hà Nội một đối trọng tốt hơn trước Tàu Cộng, một vị thế cân bằng  hơn giữa các cường quốc, trong đó có Mỹ, Tàu Cộng và Nga,” Giáo sư Alexander Vuving của Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á Thái B́nh Dương ở Hawaii nhận định với VOA.

 

Theo ông Vuving, quan hệ chiến lược toàn diện với Mỹ đặt Việt Nam vào thế “cân bằng” chưa từng có giữa các cường quốc và Tàu Cộng là “tác giả cuối cùng”, tức nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp cho việc Việt Cộng quyết định đưa Mỹ vào nhóm đối tác chiến lược cao nhất của ḿnh.

 

“Một cách trực tiếp, việc Tàu Cộng xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đă khiến Việt Cộng xích lại gần Mỹ hơn,” ông Vuving nói và đưa ra ví dụ về sự hiện diện ngày càng tăng của Bắc Kinh ở lưu vực Nam Côn Sơn trên Biển Đông và Căn cứ Hải quân Ream của Campuchia, mà ông gọi là “những giọt nước làm tràn ly” dẫn đến quyết định của Việt Cộng.

 

Tàu Cộng trong những năm qua đă nỗ lực ngăn cản việc khai thác dầu khí của Việt Nam trên Biển Đông bằng cách đưa tàu thuyền đến vùng biển mà  Hà Nội tuyên bố chủ quyền. Các khu vực khai thác dầu khí, trong đó có Nam Côn Sơn, đóng vai tṛ rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Việt  Nam. Sức ép của Tàu Cộng được cho là đă khiến Việt Nam phải hủy bỏ các hoạt động khai thác ở các khu vực tranh chấp với thiệt hại lên đến 1 tỷ USD.

 

 Chính quyền Việt Cộng chưa bao giờ công khai thừa nhận việc này nhưng nhiều lần lên tiếng phản đối các tàu thuyền của Tàu Cộng “xâm nhập trái phép” vùng lănh hải của Việt Nam.

 

Việc Campuchia cho Tàu Cộng đặt căn cứ quân sự tại đây cũng được cho là khiến Việt Nam lo ngại. Trước thông tin mà cả Campuchia và Tàu Cộng đều phủ nhận, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Cộng kêu gọi các quốc gia “cần đóng góp tích cực vào ḥa b́nh, an ninh, ổn định và thịnh vượng của khu vực.” Theo nhận định của Tiến sỹ luật Cù Huy Hà Vũ, Tàu Cộng có thể lập gọng ḱm “xâm lăng” Việt Nam khi đặt căn cứ quân sự ở Campuchia, nước có 1.200km đường biên giới với Việt Nam.

 

Cùng nhận định, ông Vũ Xuân Khang, nghiên cứu sinh tiến sĩ chuyên ngành An ninh Quốc tế của Đại học Boston (Boston College), cho rằng sự “hung hăng”  trở lại của Tàu Cộng vào năm nay là “động cơ chính khiến Việt Cộng chấp thuận nâng cấp quan hệ với Mỹ vượt cấp thành đối tác chiến lược toàn diện.”

 

“Tàu Cộng đă tăng số lượng tàu vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cũng như quấy rối các hoạt động thăm ḍ dầu khí của Việt Nam,” ông Khang  nhận định với VOA, và cho rằng Hà Nội đă từ chối nâng cấp quan hệ thành đối tác chiến lược với Mỹ trong chuyến thăm của Phó Tổng thống Kamala Harris vào năm 2021 v́ “chưa có các áp lực từ Tàu Cộng như năm 2023.”

 

Theo cách gián tiếp, GS Vuving cho rằng mối đe dọa của Tàu Cộng đối với quyền lực toàn cầu của Mỹ khiến Washington kết thân hơn với các quốc gia cam kết chống lại sự thống trị của Tàu Cộng và muốn “làm bạn” trong chuỗi cung ứng của Mỹ.

 

“Cả hai chiến lược này hội tụ thành một cơ hội lớn cho Việt Nam, nhờ vị trí chiến lược dọc theo các tuyến thương mại sầm uất nhất nối Tàu Cộng với Ấn Độ Dương, tiềm năng kinh tế ấn tượng và cam kết chống lại sự thống trị của Tàu Cộng,” ông Vuving nói.

 

Cả Việt Nam và Mỹ đều phản đối các hoạt động quân sự hóa trên Biển Đông của Tàu Cộng và nhiều lần kêu gọi Bắc Kinh hành xử theo luật lệ quốc tế.

 

Tuy nhiên, các quan chức Mỹ vẫn thận trọng không mô tả việc xích lại gần với Việt Cộng – hay với các đối tác khác trong khu vực như Ấn Độ hay Philippines hoặc các đồng minh AUKUS như Anh và Úc – là một phần của chiến lược toàn diện nhằm chống lại sức mạnh kinh tế và quân sự của Tàu Cộng.

 

Tại Hà Nội, Tổng thống Biden nói Mỹ không muốn “kiềm chế” Tàu Cộng và không muốn phát động một cuộc “chiến tranh lạnh” với nước này. Ông Biden nói ông muốn thấy Tàu Cộng “thành công” nhưng “theo luật lệ.”

 

Tuy nhiên, động cơ để Việt Cộng nâng cấp quan hệ với Mỹ lên tầm cao nhất, theo ông Vuving, “không chỉ là sự hung hăng của Tàu Cộng mà c̣n là công nghệ,  vốn, thị trường và chuỗi cung ứng của Mỹ.”

 

“Điều này đóng vai tṛ quan trọng trong việc thuyết phục các nhà lănh đạo Hà Nội nhảy cóc lên ‘đối tác chiến lược toàn diện’ (với Mỹ),” ông Vuving nhận định.

 

Tại Hà Nội, các thương vụ kinh doanh quan trọng trị giá nhiều tỷ USD – trong đó có thỏa thuận trị giá 7,5 tỷ USD của Boeing với Vietnam Airlines và kế hoạch xây nhà máy trị giá 1,6 tỷ USD của Amkor tại Bắc Ninh – được công bố sau khi ông Biden và ông Trọng tuyên bố nâng tầm quan hệ Mỹ-Việt. Hơn thế nữa, với hợp tác chiến lược toàn diện, Mỹ sẽ hợp tác với Việt Nam trong các ngành công nghệ quan trọng và mới nổi, đặc biệt là xung quanh việc xây dựng chuỗi cung ứng chất bán dẫn trong lúc Hoa Kỳ đang t́m cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng chip ra khỏi Tàu Cộng.

 

‘Nghệ thuật quyền lực mềm’

 

GS Vuving, người thường có các phân tích về t́nh h́nh Việt Nam, cho rằng việc nâng quan hệ Mỹ-Việt lên hàng đầu trong hệ thống quan hệ đối ngoại của Việt Cộng, ngang hàng với Tàu Cộng và Nga, là kết quả của sự kết hợp của hai quá tŕnh.

 

“Đầu tiên, Mỹ mang quà rất lớn đến Việt Nam mà không kèm theo điều kiện ràng buộc nào – bao gồm việc Washington tặng vô điều kiện một lượng rất lớn vaccine  chống COVID (trong khi tài trợ của Tàu Cộng có điều kiện và chưa bằng một nửa số viện trợ của Mỹ),” GS Vuving nói, và cho rằng sự thuyết phục của Mỹ c̣n bao gồm đề nghị Việt Nam tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng công nghệ cao của Hoa Kỳ ‘tại các quốc gia bằng hữu’.

 

Trong thời gian đại dịch, chính phủ Mỹ tặng Việt Nam khoảng 40 triệu liều vaccine Pfizer và Moderna, nhiều hơn bất kỳ khoản quyên góp của bất cứ nước nào, gồm cả Tàu Cộng, cho Việt Nam. Chính phủ Hà Nội gọi sự trợ giúp này là “vô cùng quư giá” cho nhân dân Việt Nam giữa đại dịch.

 

Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen, khi đến thăm Việt Nam hồi cuối tháng 7, nói rằng Việt Nam là “đối tác chủ chốt” của Mỹ trong việc “friendshoring”, tức chuyển chuỗi cung ứng sang các nước bằng hữu của Hoa Kỳ để tránh rủi ro từ Tàu Cộng.

 

Quá tŕnh thứ hai, theo GS Vuving, là Việt Cộng đă phải “xoa dịu Tàu Cộng và gửi những tín hiệu tới Nga rằng Hà Nội sẽ vẫn là bạn thân của Moscow.”

 

Sau khi Nga bị Mỹ và phương Tây lên án cũng như cô lập v́ xâm lăng Ukraine, Việt Cộng cùng Tàu Cộng từ chối bỏ phiếu chống lại Nga tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cũng như tiếp tục quan hệ với Nga trong mọi mặt.

 

GS Vuving cho rằng Việt Cộng đă “lùi một bước để tiến hai bước” trong quan hệ với Mỹ và gọi quan hệ đối tác chiến lược toàn diện mới được Mỹ và Việt thiết lập là một “kiệt tác của nghệ thuật quyền lực mềm”.

 

Theo phân tích của The Economist Intelligence Unit (EIU) việc nâng cấp quan hệ với Mỹ cũng giúp Việt Nam tránh được rủi ro trong quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ.

 

“Mối quan hệ địa chính trị chặt chẽ hơn sẽ giúp giảm nguy cơ xảy ra các hành động trừng phạt thương mại trong bối cảnh Mỹ giám sát chặt chẽ về tỷ lệ gian lận trung chuyển, với xu hướng hàng hóa Tàu Cộng thường được tái xuất dưới dạng hàng xuất cảng của Việt Nam,” nhóm phân tích của EIU nhận định.

 

Mỹ đă mở các cuộc điều tra vào các sản phẩm nhập từ Việt Nam, bao gồm pin mặt trời và các sản phẩm gỗ nội thất, v́ bị nghi được sản xuất với các chất liệu có nguồn gốc từ Tàu Cộng, nước đang bị Mỹ áp nhiều loại thuế trong cuộc thương chiến mà Tổng thống Donald Trump phát động khi lên cầm quyền vào năm 2017.

 

Việc nâng cấp quan hệ, theo nhóm phân tích của EIU, cũng sẽ giúp giảm nguy cơ Việt Nam bị Mỹ coi là nước thao túng tiền tệ trong giai đoạn dự báo 2023-2027. Bộ tài chính Mỹ dưới thời Tổng thống Trump đưa Việt Nam vào danh sách thao túng tiền tệ nhưng đưa quốc gia Đông Nam Á ra khỏi danh sách này khi chính quyền Biden lên thay.

 

Theo GS Vuving, ngoài “sự thúc đẩy lớn cho cả nền kinh tế Việt Nam” nhờ vào những thương vụ kinh doanh từ các công ty Mỹ, sự nâng cấp quan hệ với Mỹ c̣n tăng cường “tính hợp pháp của Đảng Cộng sản.”

 

Tổng thống Biden đến Việt Nam theo lời mời của Tổng bí thư VC Trọng và đây là lần đầu tiên một vị tổng thống Mỹ đến công du cấp nhà nước ở Hà Nội mà không phải do người đồng cấp mời. Ông Biden gặp người đứng đầu đảng Cộng sản trước khi gặp những người c̣n lại trong ‘tứ trụ’ lănh đạo Việt Cộng. Tuyên bố chung nâng cấp quan hệ cũng do ông Trọng đưa ra cùng Tổng thống Biden.

 

Nhà nghiên cứu Hoàng Việt, giảng viên Đại học Luật TPHCM cũng nhận định với VOA trong một phỏng vấn gần đây rằng màn tiếp xúc của ông Biden ở Hà Nội “đem đến cho Đảng Cộng sản tính chính danh.”

 

Cựu Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc, từng là Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, gọi đây là một “thắng lợi” và cho rằng khuôn khổ quan hệ mới – tức đối tác chiến lược toàn diện – sẽ “củng cố sự đồng thuận của hai đảng ở Mỹ với Việt Nam, làm chính sách của Mỹ với Việt Nam ổn định, bền vững và dễ đoán định hơn dù đảng nào của Mỹ lên cầm quyền.”

 

C̣n Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper gọi việc nâng cấp 2 bậc này là “phi thường và chưa từng có tiền lệ”.

 

 

 

Quan hệ Việt - Mỹ nâng cấp: Không bạn-thù, mà ‘đa ái’

 

16/09/2023

VOA Việt  Ngữ

 

 

Việc hai nước cựu thù chiến tranh Hoa Kỳ - Việt Nam tiến tới nâng cấp quan hệ lên mức Đối tác chiến lược toàn diện vào đầu tuần này cho thấy sự tồn tại và tiềm năng của h́nh thái ngoại giao “đa ái”, tương phản với cách tiếp cận truyền thống theo kiểu “một mất một c̣n” hay phương thức “bạn-thù”, theo nhận định của một chuyên gia cấp cao nghiên cứu về Việt Nam tại Mỹ.

 

Việt Nam sẽ xa Trung khi gần Mỹ: Chưa đúng và chưa đủ!

 

Kể cả trước và sau khi Việt Nam và Mỹ nâng cấp mối quan hệ lên mức cao nhất, một luồng quan điểm nổi lên rất rơ xoay quanh sự kiện này là Mỹ đang bắt tay với Việt Cộng để “chống Tàu Cộng” và Hà Nội đang t́m cách “thoát Trung” khi tiến gần hơn với Mỹ.

 

Tiến sĩ Andrew Wells-Dang, chuyên gia cấp cao tại Trung tâm Đông Nam Á thuộc Viện Ḥa b́nh Mỹ (USIP), cho rằng nhận định này không hoàn toàn chính xác, hay nói đúng hơn là chưa đủ, bởi mối quan hệ Việt – Mỹ có rất nhiều nội dung đặc biệt và quan trọng khác ngoài vấn đề an ninh – quốc pḥng.

 

“Một là đối tác chiến lược về an ninh trong khu vực Đông Nam Á. Hai là hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đă tăng cường rất mạnh sau khi b́nh thường hóa quan hệ và kư thỏa thuận về thương mại Việt Mỹ năm 2001. Bây giờ th́ Mỹ là đối tác kinh tế thứ hai của Việt Nam.

 

 Và rơ ràng bây giờ Việt Nam có một chiến lược phát triển kinh tế liên quan đến công nghệ cao. Chính cái này là Việt Nam muốn tăng cường cộng tác với Mỹ. Có người nói, để Việt Nam tránh cái bẫy thu nhập trung b́nh, th́ Việt Nam phải hợp tác với Mỹ và các nước giàu hơn. Nếu cộng tác với Tàu Cộng và các nước xung quanh ở châu Á th́ rất khó phát triển tiếp”, TS. Wells-Dang phân tích.

 

Ngoài ra, Việt Nam và Mỹ cũng có những quan hệ đặc biệt khác như hàng triệu người Việt đă sang Mỹ tị nạn sau chiến tranh và trở thành công dân Mỹ, các chương tŕnh hợp tác giải quyết hậu quả chiến tranh, bên cạnh những chương tŕnh hợp tác về giáo dục-đào tạo...

 

V́ vậy, theo ông, nếu xét về khía cạnh an ninh khu vực th́ việc nâng cấp quan hệ có liên quan đến Tàu Cộng là “đúng nhưng chưa đủ”, và điều này đă được thể hiện trong lời khẳng định của Tổng thống Biden khi ông ở Hà Nội vào đầu tuần này.

 

“Chính Tổng thống Biden nói rất rơ rằng việc tăng cường quan hệ đối tác với Việt Cộng không phải là v́ Tàu Cộng hay Chiến tranh lạnh mới, mà là một cách để tiếp tục ủng hộ sự phát triển và thịnh vượng của Việt Nam và Đông Nam Á”, TS. Wells-Dang nói với VOA.

 

Việt Cộng “thực dụng”, Mỹ “uyển chuyển”

 

Theo nhận định của Tiến sĩ Andrew Wells-Dang, việc Hoa Kỳ - Việt Cộng nâng cấp quan hệ lên mức đối tác chiến lược toàn diện là kết quả của một quá tŕnh dài nhiều thập niên nỗ lực của cả hai phía, mà trong đó có sự linh hoạt đáng kể của các thế hệ lănh đạo trong việc đáp ứng yêu cầu của “phía bên kia” và mang lại lợi ích cho cả hai nước.

 

Ông cho rằng sau những trải nghiệm chiến tranh thương đau trong suốt chiều dài lịch sử, Việt Cộng đă có những tính toán “thực dụng”.

 

“Họ biết rằng các cường quốc có lợi ích xung đột nhau. Thay v́ liên minh với một cường quốc này để chống lại một cường quốc khác, vốn đă gây ra những hậu quả tai hại như vậy ở một nước Việt Nam bị chia cắt (trong chiến tranh), họ sẽ t́m cách hợp tác với tất cả mọi người”, TS. Wells-Dang nhận định.

 

Mục tiêu này được xác định tại Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ VII vào năm 1991 khi Hà Nội tuyên bố “trở thành bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu v́ hoà b́nh, độc lập và phát triển”.

 

Bước chuyến biến về chính sách này đă mở đường cho những bước tiến mạnh mẽ sau đó trong mối quan hệ giữa Việt Nam với cựu thù Hoa Kỳ.

 

C̣n xét về phía Mỹ, TS. Wells-Dang cho rằng chuyến thăm của Tổng bí thư VC Nguyễn Phú Trọng đến Mỹ vào năm 2015 dưới thời Tổng thống Obama là một thời điểm rất quan trọng.

 

“V́ đây là lần đầu tiên Mỹ tôn trọng đảng cộng sản Việt Nam (trong tư cách) là lănh đạo”, chuyên gia của USIP nói.

 

Trước đó, theo lời TS. Wells-Dang, những chuyến thăm gặp được thực hiện chỉ là v́ lư do “phải hợp tác với Việt Cộng mà thôi” và thường là với người đứng đầu nhà nước, chứ không phải với một lănh đạo đảng cộng sản.

 

“Sau đó th́ tất cả các tổng thống Mỹ đều nói là Mỹ tôn trọng hệ thống chính trị của Việt Nam, và lănh đạo Việt Nam cũng luôn luôn nhắc lại việc đó. Nhưng đây cũng là một nguyên tắc căn bản trong quan hệ quốc tế thôi, nước nào cũng vậy. [Điều này] không có ư là Mỹ phải đồng ư với hệ thống chính trị hay là các quyết định của Việt Nam, và Việt Nam cũng không cần thiết phải đồng ư với những cái Mỹ đang làm hay hệ thống dân chủ ở Mỹ, nhưng hai bên vẫn sẽ hợp tác với nhau”.

 

TS. Wells-Dang tin rằng một khi mối quan hệ giữa hai bên chặt chẽ hơn, hai phía sẽ có nhiều cơ hội “trao đổi” với nhau hơn để giải quyết những khúc mắc và khác biệt, chẳng hạn như vấn đề nhân quyền.

 

Chuyến đi “quan trọng” và “cần thiết” đến Bắc Kinh của Nguyễn Phú Trọng

 

Mặc dù việc nâng cấp quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam đă được lên kế hoạch và được một số nguồn tin tiết lộ từ cuối năm ngoái, nhưng những chuyển biến bất ngờ về chính trị tại Việt Nam trong thời gian qua đă dẫn đến nhiều lo ngại về khả năng kế hoạch không thành sự.

 

Hồi đầu năm nay, vốn được xem là năm “đẹp” và “thích hợp” để hai bên tổ chức sự kiện quan trọng này sau 10 năm thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, Hà Nội bất ngờ “thay tướng” giữa đường. Những người được xem là “hiểu biết” hay thiên về Mỹ như Thủ tướng VC Nguyễn Xuân Phúc và Bộ trưởng Ngoại giao VC Phạm B́nh Minh bất ngờ bị băi chức, khiến không ít người lo ngại về khả năng bất thành của việc nâng cấp quan hệ trong năm nay và thậm chí cả sự can thiệp của Tàu Cộng.

 

Tuy nhiên, TS. Wells-Dang nói có 2 điều có thể quan sát thấy và ngầm hiểu trong những diễn biến chính trị tại Việt Nam thời gian qua.

 

“Một là, việc Nguyễn Phú Trọng đi Bắc Kinh là rất quan trọng và phải làm thế. Nếu không, Tàu Cộng lại không đồng ư và không hiểu tại sao Việt Nam lại nâng cấp với Mỹ. Tôi không biết hai lănh đạo Việt Cộng, Tàu Cộng đă nói ǵ, nhưng chắc chắn là phía Việt Cộng đă nói ǵ đấy giải thích với Tàu Cộng về chính sách đối ngoại độc lập của họ”.

 

“Thứ hai, đúng là trong năm nay có một số lănh đạo mới thay các ông phải từ chức, nên những người mới chưa có nhiều kinh nghiệm về Mỹ và phương Tây bằng các lănh đạo trước. Nhưng chính v́ thế, có thể họ muốn tham gia và muốn cho thấy là bây giờ dù ai lănh đạo th́ cũng sẽ tiếp tục chính sách đối ngoại của Việt Cộng từ trước”.

 

H́nh thái “đa ái” trong ngoại giao

 

Theo TS. Wells-Dang, hệ thống chính trị toàn cầu sau thế chiến thứ hai rồi đến Chiến tranh lạnh đă phân cực thế giới thành hai phe, một bên là các nước chủ nghĩa xă hội và bên kia là các nước tư bản. Ông nói, từ góc nh́n của Mỹ, th́ chỉ có hai lựa chọn: hoặc “bạn đi cùng chúng tôi” (là “bạn”), hai là ở bên phía kia – là “thù”.

 

Chuyên gia của USIP nói mối quan hệ Mỹ - Việt hiện tại cho thấy các mối quan hệ chính trị trong thế giới hôm nay không đơn thuần chỉ là “bạn – thù” nữa, mà nổi lên h́nh thái “đa ái trong ngoại giao” (diplomatic polyamory) – làm bạn với tất cả.

 

“Chính sách đối ngoại của Việt Cộng là một cách để thử xem có một cách nào mà không cần phải ở bên này hay bên kia nhưng hợp tác với tất cả.

 

Thành công đến mức nào th́ chúng ta phải tiếp tục để ư, nhưng đến giờ th́ Việt Nam có một số thành tựu lớn từ chính sách đó”, TS. Wells-Dang nói thêm.

 

Do đó, nếu xét trong khía cạnh này, sau khi nâng cấp quan hệ với Mỹ, nếu Việt Cộng tiếp tục đẩy mạnh hợp tác với Tàu Cộng, Nga và các nước khác th́ điều này, theo ông, cũng là b́nh thường.

 

Khi được hỏi liệu sau cột mốc quan trọng vừa qua, Hà Nội và Washington đă vượt qua những “lấn cấn” về ḷng tin giữa hai bên hay chưa, v́ đây là một thực tế mà một số chuyên gia vẫn đề cập đến bất chấp những lời tán dương của cả hai phía lănh đạo về những thành quả của việc “xây dựng ḷng tin”, TS. Wells-Dang nói:

 

“Chưa nói được là lănh đạo hai nước nghĩ ǵ. Ḿnh chỉ biết là họ nói ǵ và làm ǵ. Nhưng suy nghĩ th́ có thể vẫn có một số lo ngại trong đầu. Thứ hai, cả Mỹ và Việt Nam không phải hoàn toàn giống nhau và cả giữa những bộ ngành khác nhau ở Việt Nam th́ có những quan điểm khác nhau...”

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính