Suy nghĩ về một bài phỏng vấn ông Nguyễn Đắc Xuân

 

Lê Học Lănh Vân

 

 

Một Nhóm Sinh viên Sử 4, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Huế, đă tŕnh bày báo cáo về cuộc phỏng vấn nhà Nghiên cứu Lịch sử Nguyễn Đắc Xuân, được tiến hành trong mối quan tâm về việc hai giáo sĩ Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes cũng có tên trong đề án đặt đổi tên đường tại Đà Nẵng (1). Tôi xin tŕnh bày những suy nghĩ sau khi đọc bài báo cáo này.

 

1)

 

Ông Nguyễn Đắc Xuân trả lời: “Trong vốn ngôn ngữ vốn có của ta mang đậm hồn dân tộc Việt: “Thị tại môn huyền náo/ Nguyệt lai môn hạ nhàn”“

 

“Thị tại môn HUYỀN náo/ Nguyệt lai môn hạ nhàn.

 

Cái sai của câu này nhiều người đă nêu lên, chính là cái sai của chữ HUYỀN trong khi phải là chữ TIỀN.

 

Chỉ nghĩ rằng không hiểu sao một người mang tiếng học giả, nhà Nghiên cứu Lịch sử Nguyễn Đắc Xuân, lại có thể sai cái sai khá sơ đẳng đó. Những học sinh dưới mái trường trung học Việt Nam Cộng Ḥa, trong giờ học cổ văn đều được giảng giải rất rơ hai câu này, chính là hai câu đầu trong bài hát nói CHỮ NHÀN của nhà thơ tướng quân Nguyễn Công Trứ.

 

Thị tại môn TIỀN náo

Nguyệt lai môn hạ nhàn

 

Khi viết trật chữ TIỀN thành chữ HUYỀN ông Xuân cho thấy hai cái sai:

 

Sai thứ nhất là về ư nghĩa chơi chữ của câu. Chữ THỊ (chợ) đứng trước (TIỀN) chữ MÔN (cửa) thành ra chữ NÁO. Chữ HUYỀN của ông Xuân chép là vô nghĩa!

 

Sai thứ hai là về phép đối. Đây là hai câu b́nh đối, chữ trong vế đối là HẠ (dưới) th́ chữ trong vế ra cũng phải chỉ vị trí. Chữ HUYỀN của ông Xuân hoàn toàn không đáp ứng! Phải là chữ TIỀN (trước) mới đủ tư cách đối!

 

Đây chính là hai câu chơi chữ, các chữ Thị, Náo, Nguyệt, Nhàn, đều là những chữ Hán. Ông Nguyễn Đắc Xuân thấy bốn chữ thuần Hán kia mang “đậm đặc tâm hồn Việt”? Phần tôi, tôi thích hai câu đó v́ chúng mang một triết lư nhân sinh. Về Ư th́ đẹp, cái đẹp từ tâm hồn cụ Nguyễn Công Trứ, chớ không phải đẹp v́ là chữ Hán. Về chữ viết, chúng rơ ràng mang dáng dấp, h́nh hài Đường Tống, chính là hồn HÁN tộc chứ phải đâu “hồn dân tộc Việt”!

 

2)

 

Ông Nguyễn Đắc Xuân cho rằng: “việc dịch truyện Kiều ra chữ quốc ngữ đă làm mất đi một phần, nếu không nói mất đi rất nhiều giá trị của tác tác phẩm này”

 

Ở đây, nhà “Huế học” lại phạm một lỗi đơn giản nữa! Cần biết rằng không có việc DỊCH nào ở đây hết! Truyện Kiều là truyện Kiều, Nguyễn Du viết bằng chữ Nôm. Sau này, khi đă có chữ Quốc Ngữ, người đời sau viết bằng chữ Quốc Ngữ.

 

Trăm năm truyện vẫn Truyện Kiều

 

Dù thay chữ viết, chẳng điều tiếng chi!

 

Do đó, tôi thực t́nh không hiểu nổi v́ sao khi viết Truyện Kiều bằng chữ Quốc Ngữ th́ “đă làm mất đi một phần, nếu không nói mất đi rất nhiều giá trị của tác tác phẩm này” như cách thẩm định của ông Nguyễn Đắc Xuân!

 

3)

 

Khi nêu lên hai điểm trên, tôi thực ḷng phân vân, không dám nghĩ rằng ông Nguyễn Đắc Xuân thiếu kiến thức. Có thể v́ ông đă lớn tuổi, cũng có thể v́ bài phỏng vấn viết không đúng lời của ông chăng?

 

Thông thường, bài pḥng vấn trước khi công bố phải được đưa cho người trả lời pḥng vấn duyệt xem bài có viết đúng, trung thực các câu trả lời hay không. Vậy nên cái sai đó cho thấy sự cẩu thả khi phát ngôn trước công chúng, hoặc của người trả lời phỏng vấn, hoặc của người thực hiện cuộc pḥng vấn nếu không đưa cho người trả lời phỏng vấn xem lại.

 

Sự cẩu thả cho thấy sự coi thường công chúng, phải chăng nghĩ rằng công chúng không đủ tŕnh độ thẩm định, phân biệt đúng sai? Người trí thức thật sự không bao giờ dám coi thường như vậy. Không chỉ có ông Nguyễn Đắc Xuân, nhưng từ thí dụ này gợi nhớ bao thí dụ khác, bao phát ngôn khác cũng mang nhiều sai lầm học thuật. Nền học thuật Việt Nam cho thấy đang có sự suy thoái không nhẹ, các môn học như văn, lịch sử, triết học không c̣n thu hút được học sinh, hay nói như một số người, bị học sinh ngoảnh mặt quay lưng, có mối liên hệ ǵ không tới những vị có số má như thế này trong giới học thuật chính thống? Thực là một vực một trời, “nhẹ như bấc, nặng như ch́” nếu ta nhớ lại những Linh Mục Thanh Lăng, Cao Văn Luận, Nghiêm Toản, Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi… thời trước.

 

Trong học thuật, sự nghiêm cẩn là một giá trị. Tính trung thực là một giá trị khác. Tính độc lập trong suy nghĩ và tính hoài nghi là những giá trị khác nữa!

 

Thiếu nghiêm túc trong kiến thức, thiếu nghiêm túc trong cách tŕnh bày, làm sao có nghiêm túc trong tư duy, trong tác phong, và cả trong quan điểm? Và nếu không có những điều này th́ làm sao có đủ tầm kiến thức và tác phong tri thức để suy nghĩ độc lập trong khi vẫn tôn trọng tinh thần hoài nghi khoa học? Làm sao để đứng được như một nhà trí thức độc lập chứ không phải trí thức công cụ, cho dù công cụ tự giác hay công cụ phát do tiềm thức?

 

4)

 

Khi nói tới tính nghiêm túc trong học thuật, tôi nhớ tới các vị tiên phong trong thời tạo ra chữ Quốc Ngữ. Đó là các ông Francisco de Pina, Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa, Alexandre de Rhodes cùng rất nhiều người Việt cùng thời. Những vị này đă làm việc rất nghiêm túc, ghi chép cẩn thận. Các ông đă học hỏi tiếng Việt qua từ vựng, cú pháp, và xác định chính xác ngữ âm của từ vựng để kư âm. Những công việc này cần tinh thần làm việc cần mẫn, nghiêm túc, khoa học. Các ông đă t́m những người Việt trẻ mà các ông nghĩ rằng dễ chấp nhận đổi mới, để cùng với các ông sáng tạo ra chữ viết cho tiếng Việt mà các ông yêu mến. Lư do sâu xa là “để cho phép nền văn hóa Việt Nam tiến bộ một cách độc lập, tách khỏi nền văn hóa Trung Hoa, và để có năng lực sáng tạo, cần có những người trẻ, dám cởi mở để chấp nhận sự mới lạ này. Các bạn trẻ này sẽ hoàn toàn thoải mái với cả hai hệ thống chữ viết; như Pina viết: “với chữ của họ lẫn chữ của chúng ta”” (ref. 2). Tấm ḷng của những vị này đă vượt ra ngoài phận sự của một nhà truyền giáo, đă là sự thấu hiểu, trân trọng và yêu mến nền văn hóa Việt. Người nay, mấy ai có tấm ḷng như các vị?

 

Công việc rất có ích cho người Việt này được tiến hành từ thời đó, cách nay gần bốn trăm năm, và tiếp nối về sau bởi các học giả miệt mài và cẩn trọng, xin kể vài cái tên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX như Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Kư, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… cùng các cộng sự. Từ hơn trăm năm nay bao thế hệ người Việt đă dùng chữ Quốc Ngữ ghi lại tâm t́nh, suy nghĩ, ước mơ, truyền bá kiến thức, thảo luận các đề tài khoa học, xă hội, tạo nên nền văn chương Việt bùng phát rạng rỡ…

 

Chữ Quốc Ngữ là món quà vô giá những học giả tiền bối chân chính của thế hệ trước gởi lại cho người Việt hôm nay, là phương tiện đưa người Việt tới nền văn minh nhân loại, giữ ǵn các giá trị tinh thần của cha ông, độc lập với chữ Hán, thoát khỏi sự kiềm tỏa của nền văn hóa Hán.

 

5)

 

Chữ Quốc Ngữ được h́nh thành với những bước sáng tạo đầu tiên thuộc về các nhà truyền giáo đạo Ki-tô. Sau đó giai đoạn đầu được dùng nhiều và phát triển trong thời Pháp thuộc. Đây là điều tự nhiên, bởi kư tự La-tinh thuộc về phương Tây. Tuy nhiên, khi được người Việt dùng rộng răi, nó đă trở thành lợi khí, thành công cụ được dùng rộng răi nhất, thiết thân nhất, được yêu mến nhất của cả dân tộc. Cho nên, đừng gắn liền chữ Quốc Ngữ với một nhóm người nào, một tôn giáo nào, một chế độ nào mà kỳ thị, kỳ thị những người có công với nó, và kỳ thị cả với nó.

 

Trong hai câu nói của ông Nguyễn Đắc Xuân:

 

“Chữ quốc ngữ không chỉ là công cụ để truyền giáo mà hơn thế nữa, thực dân Pháp đă sử dụng nó để cai trị dân ta. Chúng ta không thể phủ nhận vai tṛ của chữ quốc ngữ, nhưng không được nghĩ rằng chữ quốc ngữ làm cho đất nước ta giàu mạnh, văn minh hơn.”, “[…] chữ quốc ngữ không nhằm mục đích phát triển văn minh của dân tộc ta, mà chỉ là một phương tiện để truyền giáo, một công cụ để thực dân Pháp xâm lăng nước ta”, tôi cảm nhận “hơi nóng đời đời” từ địa ngục của ḷng ông hậm hực thổi lên.

 

Cho dù “không thể phủ nhận vai tṛ của chữ quốc ngữ”, mà làm sao phủ nhận được, tôi không thấy chút t́nh cảm nào đối với chữ viết đă gắn kết người Việt và được người Việt mến yêu tôn quí.

 

Pháp đă rời nước Việt từ hơn nửa thế kỷ rồi mà ḷng căm thù của ông c̣n mạnh vậy sao? Pháp, cho dù chiếm nước Việt, nhưng trong 80 năm trên đất Việt, họ cũng xây dựng nhiều công tŕnh dân sinh như thành phố, đường sắt, đường bộ, bến cảng… cho dăy non sông này. Họ đă đem tới dân Việt nền văn minh Tây Phương nhân bản, khai phóng. Sao cứ măi giữ ngọn lửa hậm hực với quá khứ đă từ lâu trở thành cái bóng mà nhắm mắt với những nguy cơ mất biển đảo bời Trung Cộng đang như lửa cháy trước mắt?

 

Có phải hơi nóng đời đời từ ḷng hậm hực đó đă khiến người ta chọn dùng vũ khí, bạo lực thay v́ thuyết phục, ôn ḥa? Có phải hơi nóng đó khiến người ta nh́n nhau như thế lực thù địch thay v́ anh em cùng chung gia sản, chung nguồn cội tổ tiên?

 

“Thiên đàng, địa ngục hai bên”, nên chọn lối Thiên Đàng hay nên đâm đầu vào Địa Ngục?

 

Lê Học Lănh Vân

Ngày 30 tháng 11 năm 2019

-----------------------------------------

Tham khảo:

 

1) https://www.sachhiem.net/DOITHOAI/Rhodes.php

 

2) GS.TS. Roland Jacques, Vài suy niệm về Francisco de Pina và những bước đầu tiên trong việc h́nh thành chữ Quốc Ngữ. FB. Tran Duc Anh Son, November 3 at 3:57 PM.

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính