Người cha đẻ hành khúc “Lục Quân Việt Nam” đă ra người thiên cổ.
Lê Dinh
Người cha đẻ của hành khúc:
Lục Quân Việt Nam
vừa từ trần tại Melbourne, Úc Đại Lợi..
Lục Quân Việt Nam Cộng Ḥa Hành Khúc
http://www.youtube.com/watch?v=J98GSe8ms7I
Chúng tôi vừa nhận được tin buồn: Nhạc sĩ Văn Giảng tức Thông Đạt Vừa từ
trần tại Melbourne, Úc Đại Lợi Ngày 9 Tháng Năm, 2013 Hưởng Thọ 89 tuổi.
Tang Lễ được cử hành tại Chùa Quang Minh vào ngày 12 & 13-05-2013. Sẽ được
hỏa táng vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Ba 14-05-2013.
Dưới đây là bài viết của nhạc sĩ Lê Dinh về Tiểu Sử của nhạc sĩ Văn Giảng
vài năm trước đây (xin trích) và 1 tấm h́nh 2 Ông Bà nhạc sĩ Lê Văn Khoa
và Ông Bà Văn Giảng chụp chung với nhau trong chuyến viếng thăm Melbourne
của ÔB Lê Văn Khoa (năm 2005) (h́nh do nhạc sĩ Lê Văn Khoa vừa gởi tặng
VH).
Tiểu sử Nhạc Sĩ Văn
Giảng
Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn
Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang
Đi đi đi, lời thề nguyền, tung gươm thiêng, thi gan trai
Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi...
... Phá tan tành ầm ầm đoàn quân xông pha
Thét oai linh tung gươm giết tan quân thù
Đoàn hùng binh say sưa nh́n trong trời sương
Ta anh hùng đời đời lục quân Việt Nam...
Trên đây là lời ca 8 trường canh đầu của bài hành khúc “Lục Quân Việt Nam”
của Văn Giảng mà mọi người Việt Nam, từ cậu học sinh đến anh tân binh ở
quân trường cũng như tất cả quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa đều biết. Bài hát
được tác giả viết vào năm 1950 với cung Ré trưởng, khi được đồng ca bởi
một số đông người, đem lại cho người nghe một cảm giác như hăng say cương
quyết, như nung chí anh hùng:
Nhạc sĩ Văn Giảng sinh ngày 12 tháng 5 năm 1924 tại Huế trong một gia đ́nh
trung lưu. Thừa hưởng năng khiếu thiên phú gia tộc về âm nhạc v́ ông nội
của Văn Giảng cũng là một nhạc sĩ cổ nhạc rất giỏi cho nên Văn Giảng cũng
có khiếu về âm nhạc từ lúc nhỏ và ngày c̣n bé, nghe người ta chơi một loại
nhạc khí nào là ông có thể về ṃ mẫm tự học lấy và thành công trong việc
xử dụng loại nhạc khí đó. Cũng như mọi người thích âm nhạc và quyết tâm
chơi nhạc, loại đàn dễ học nhất cho mọi người là đàn mandoline, nhạc sĩ
Văn Giảng cũng vậy, khi bắt đầu ông học đàn măng cầm và sau đó lần đến
lănh vực tây ban cầm.
Có một người bạn lớn tuổi hơn ông biết đàn tây ban cầm, Văn Giảng muốn tầm
sư học đạo, đến nhà ông này để nhờ chỉ dạy nhưng người này bắt ông phải
trả công bằng một cây đàn guitare. Làm ǵ có tiền ở lứa tuổi c̣n nhỏ? Văn
Giảng về nhà t́m ṭi tự học lấy và chỉ một thời gian sau, ông vượt qua tài
nghệ của ông “thầy hụt” kia và ông này phải nhờ Văn Giảng chỉ lại cho. Nhờ
có biệt tài như vậy mà nhạc sĩ Văn Giảng có thể xử dụng rành rẽ nhiều nhạc
khí cổ kim, trở thành một nhạc sĩ tài giỏi và đào tạo rất nhiều môn sinh
có tŕnh độ sau này.
Không những chỉ trong lănh vực âm nhạc mà thôi, nhạc sĩ Văn Giảng c̣n nổi
bật trong lănh vực văn hóa, mọi thứ, mọi việc ông đều tự học như vừa làm
giáo sư âm nhạc ở Huế, ông vừa tự học để rồi sau đó lặn lội vào Saigon thi
lấy bằng tú tài và bằng cử nhân.
Ông tốt nghiệp Anh văn ở Hội Việt Mỹ và trúng tuyển cuộc thi tuyển sinh
viên nghiên cứu về âm nhạc ở ngoại quốc, được xuất dương du học tại trường
Âm nhạc lớn của Hoa Kỳ ở Hawaii và Bloomington. Ở Hoa Kỳ, Văn Giảng đă tốt
nghiệp với lời khen của Ban Giám khảo và được cấp thêm học bổng để nghiên
cứu bậc cao học âm nhạc. Sau đó ông trở về nước và được đề cử làm Giám đốc
trường Quốc gia Âm nhạc Huế.
Vợ chồng Nhạc sĩ Văn Giảng, chụp năm 1949
Phần đông những sáng tác của nhạc sĩ Văn Giảng thuộc loại hùng ca như
“Thúc Quân” (1949), “Lục Quân Việt Nam” (1950), “Đêm Mê Linh” (1951),
“Quân Hành Ca” (1951), “Qua Đèo” (1952), “Nhảy Lửa” (1953) v.v... nhưng ít
người được biết nhạc sĩ Văn Giảng c̣n có một biệt hiệu khác là “Thông Đạt”
với ca khúc bất hủ “Ai Về Sông Tương” mà mọi người trong giới học sinh,
sinh viên và ở lứa tuổi 40 trở lên đều biết:
Ai có về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Bao ngày ôm mối tơ vương
Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương
Tâm hồn mơ bóng em luôn
Mong vài lời em ngập hương...
Bài ca này được tác giả viết vào năm 1949 với cung La trưởng, uyển chuyển
tha thướt trong phần lời lăng mạn, trữ t́nh, là một bản nhạc gối đầu
giường, nằm ḷng của thanh thiếu niên nam nữ trong những thập niên 50 -
60.
Về ca khúc này, có một câu chuyện khá thú vị như sau: Trong những thập
niên 1940, 1950, ở Huế ai ai cũng biết ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà Xuất
bản Tinh Hoa Huế (xin đừng lẫn lộn với nhà xuất bản Tinh Hoa miền Nam ở
Saigon do nhạc sĩ Lê Mộng Bảo làm giám đốc) in ấn và phát hành một số nhạc
phẩm ít oi của thời đó.
Là nhạc sĩ, đương nhiên Văn Giảng chơi thân với ông Tăng Duyệt v́ một số
hành khúc của ông đều do nhà xuất bản Tinh Hoa Huế của ông Tăng Duyệt ấn
hành. Một hôm trong lúc vui miệng, ông Tăng Duyệt có ngụ ư bảo rằng nhạc
sĩ Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca thôi c̣n về những bài t́nh ca
không phải sở trường của Văn Giảng.
Nghe vậy hay vậy, không cần phải trả lời. Nhạc sĩ Văn Giảng về nhà, âm
thầm lấy giấy bút viết bài “Ai Về Sông Tương”, không ghi tên tác giả là
Văn Giảng như mọi khi mà đề tên tác giả là Thông Đạt, một bút hiệu mới
toanh trong làng tân nhạc Việt Nam thời đó. Bản “Ai Về Sông Tương” được
tác giả Thông Đạt gửi đến các đài phát thanh ở Hà Nội, Huế và Saigon và cả
nước đều nghe “Ai Về Sông Tương” của Thông Đạt trong thời gian sau đó:
...
Thu nay về vương áng thê lương
Vắng người duyên dáng tôi thương
Mối t́nh tôi vẫn cô đơn
Xa muôn trùng lưu luyến nhớ em
Mơ hoài h́nh bóng không quên
Hương t́nh mộng say dịu êm...
Sau nhiều lần được nghe bài “Ai Về Sông Tương” quá hay trên làn sóng điện,
qua các đài phát thanh, ông Tăng Duyệt gặp Văn Giảng và hỏi ở trong giới
nhạc, Văn Giảng có biết Thông Đạt, tác giả bài “Ai Về Sông Tương” là ai
không để ông thương lượng mua bản quyền xuất bản nhạc phẩm này nhưng Văn
Giảng tảng lờ như không biết Thông Đạt là ai!
Rồi một hôm có hai người bạn trẻ của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng, tác
giả bài “Mùa Thi” (Thi ơi là thi, sinh mi làm chi, “bay” nghẹn ngào,
“bám”, ồn áo, buồn vui v́ mi) và nhà văn Lữ Hồ t́nh cờ đến nhà Văn Giảng
chơi và thấy bản thảo bài “Ai Về Sông Tương” với tuồng chữ và lối chép
nhạc của nhạc sĩ Văn Giảng trong xấp nhạc trên bàn viết nên nói cho ông
Tăng Duyệt biết. Ông này mới lái xe ngay tới nhà Văn Giảng và vài ngày sau
đó, giới ngưỡng mộ tân nhạc mới có một ca khúc với thể điệu “Blues” tha
thướt trong tay để mà ngân nga cho đỡ thương đỡ nhớ những khi trái tim
rung động v́ một bóng h́nh nào đó.
Nhạc phẩm “Ai Về Sông Tương” đă chiếm kỷ lục tái bản thời đó với 6 lần in
thêm trong tháng đầu tiên và được thính giả Đài Phát thanh Pháp Á chọn là
bài nhạc hay nhất trong năm 1949. Qua bút hiệu Thông Đạt, chúng ta c̣n
được thưởng thức những sáng tác sau đây: “Đôi Mắt Huyền”, “Hoa Cài Mái
Tóc”, “T́nh Em Biển Rộng Sông Dài”, “Xin Đừng Chờ Em Nữa” v.v...
Ngoài hai bút hiệu trên, Văn Giảng - Thông Đạt c̣n một bút hiệu thứ ba để
sáng tác những bài Phật giáo. Đó là bút hiệu Nguyên Thông được dùng để ghi
trên những nhạc phẩm như “Từ Đàm Quê Hương Tôi”, “Mừng Đản Sanh”, “Ca Tỳ
La Vệ”, “Vô Thường”, “Hoa Cài Áo Lam” v.v...
Trong thời gian làm nhạc trưởng Đài Phát thanh Huế và giáo sư âm nhạc tại
các trường Trung học Hàm Nghi, Quốc Học và trường Sư phạm đào tạo giáo
viên Tiểu học, nhạc sĩ Văn Giảng có sáng tác và ấn hành một tập nhạc dành
cho thiếu nhi mang tên:”Hát Mà Học” gồm có 10 ca khúc: Đến Trường, Chơi
Ná, Chê Tṛ Xấu Nết, Mèo Chuột, Tham Mồi, Gương Sáng Lê Lai, Quang Trung
Hùng Ca, Trăng Trung Thu, Chúc Xuân và Tạm Biệt.
Cũng trong lănh vực âm nhạc, nhờ xuất thân từ một gia đ́nh có truyền thống
âm nhạc, Văn Giảng thích t́m ṭi và nghiên cứu nhạc cổ truyền Việt Nam.
Năm 1956, ông đă t́m ra phương pháp kư âm cho nhạc sĩ cổ truyền có thể
nh́n bài bản mà tŕnh tấu chung với nhạc sĩ tân nhạc và từ đó, ông thành
lập ban cổ kim ḥa điệu “Việt Thanh”, một ban nhạc đầu tiên trong nước
dưới h́nh thức tân cổ ḥa điệu với những nhạc khí tranh, tỳ, nhị huyền,
nhị hồ, đàn nguyệt... hoà tấu chung với dương cầm, tây ban cầm, đại hồ
cầm...
Trong phạm vi này, ông đă hoàn thành tác phẩm độc đáo “Ai Đưa Con Sáo Sang
Sông”, một bản đại ḥa tấu, thời lượng 60 phút, tŕnh diễn bởi các nhạc sĩ
cổ truyền. Ông cũng đă soạn nhiều sách giáo khoa về âm nhạc, hoàn thành
quyển “Kỹ Thuật Hoà Âm” dày 350 trang được dùng làm tài liệu dạy âm nhạc ở
các trường.
Sau Tết Mậu Thân 1968, cảm thấy sinh sống ở Huế bất an - ông Tăng Duyệt,
bạn thân của ông, đă chết trong biến cố này - nhạc sĩ Văn Giảng vào Saigon
lập nghiệp từ năm 1969 và ông nhanh chóng ḥa hợp với nhịp sống âm nhạc
của thủ đô, soạn ḥa âm cho hăng đĩa Asia - Sóng Nhạc, dạy nhạc tại trường
Quốc gia Âm nhạc Saigon, tham gia sinh hoạt ca nhạc ở đài phát thanh, đài
truyền h́nh.
Cũng trong thời gian này, một số nhạc phẩm t́nh cảm với bút hiệu Thông Đạt
của ông được thành h́nh và tung ra thị trường. Đồng thời, Văn Giảng được
Bộ Văn Hóa Giáo Dục đề cử làm Trưởng Pḥng Học Vụ Nha Mỹ Thuật, đảm trách
học vấn của các trường Âm nhạc Saigon, Huế và các trường Cao đẳng Mỹ
thuật.
Năm 1970, ông được huy chương vàng giải Văn học Nghệ thuật của Tổng thống
Việt Nam Cộng Ḥa (âm nhạc loại A) với sáng tác phẩm “Ngũ Tấu Khúc”
(Quintet for Flute and Strings). Cùng năm này, ông được chỉ định làm Giám
đốc Nghệ thuật điều hành Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm 100 nghệ sĩ tân cổ
nhạc và vũ, ban vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách, ban vũ cổ truyền
đại nội Huế do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba điều khiển, để tham dự Hội chợ Quốc
tế Expo 70 tại Osaka (Nhật Bản).
Sau 1975, nhạc sĩ Văn Giảng kẹt lại Việt Nam cho đến năm 1981 mới vượt
biên đến đảo Natuna (Nam Dương) và sau đó được chuyển đến đảo Pulau
Galang. Ở đây, trong 6 tháng, Văn Giảng sáng tác được một số bài nói lên
thân phận lạc loài của người dân mất nước mà bài đầu tiên là “Natuna người
t́nh đầu” cùng một số 70 ca khúc khác.
Ngày 20/5/1982, Văn Giảng định cư tại Úc, ở đây, ông tiếp tục con đường âm
nhạc, soạn và xuất bản nhiều sách nhạc lư như cách dùng hợp âm, tự học tây
ban cầm, ḥa âm, sáng tác, học hát, học đàn v.v...
Ở đây, ông cũng đă sáng tác thêm nhiều t́nh khúc như: 12 t́nh khúc (Tập
I), 12 T́nh Khúc (Tập II) v.v... Những ai thiết tha với tân nhạc, muốn đi
sâu, t́m hiểu hơn về sáng tác và ḥa âm hoặc muốn trau dồi việc xử dụng
các nhạc khí kim cổ, thiết nghĩ không ǵ bằng t́m các sách giáo khoa của
nhạc sĩ Văn Giảng để đi đến nơi đến chốn. Văn Giảng hiện cư ngụ ở thành
phố Footscray, bang Victoria (Úc Châu), điện thoại: (03) 9689-9623.
Ngoài một gia sản âm nhạc đồ sộ, từ những hành khúc hùng dũng đến những
cung bậc uyển chuyển lả lướt của những bài t́nh ca qua những điệu nhạc vui
tươi yêu đời dành cho thiếu nhi và những ca khúc uy nghiêm về Phật giáo,
nhạc sĩ Văn Giảng c̣n đóng góp trong việc phổ biến âm nhạc Việt Nam ở hải
ngoại với một số lượng đáng kể về sách dạy nhạc viết bằng Việt ngữ và Anh
ngữ, chẳng những dành cho thế hệ trẻ Việt Nam ở hải ngoại mà cho cả người
ngoại quốc muốn học hỏi và t́m hiểu về nền âm nhạc Việt Nam.
Một con người giản dị, khiêm nhường, không thích phô trương với một gia
tài âm nhạc to lớn như thế của ḿnh ẩn náu nơi một góc trời Đông sau ngày
mất nước quả thật là một người đáng kính nể, đáng tôn thượng trong làng âm
nhạc Việt Nam.
Lê Dinh
|