Hân Hoan Chào Mừng Ngày 1 Tháng 7! Kỷ niệm Ngày Không Lực VNCH!

 

(Ngày Sinh Nhật Của Quân Chủng Không Quân!)

 

 

 

- “Giờ từng đoàn người vượt qua biên giới quyết chiến thắng / Đi không ai t́m xác rơi! / Lúc đất nước muốn / Bao người con thân yêu ra đi tiếc tấm thân làm chi!…” (KQ hành khúc)

 

Không Quân VNCH là một Quân chủng được thành lập từ ngày 25 tháng 6, 1951, thời Vua Bảo Đại. Lúc đầu chỉ có một Bộ Chỉ Huy, một Tiểu Đoàn Không Quân, với quân số 40 sĩ quan, 120 Hạ Sĩ Quan và 500 binh sĩ.

 

Đến ngày 1 tháng 7, 1955, khi lá cờ Tam Tài của Pháp, bị hạ xuống và thượng cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của VN lên kỳ đài, tại căn cứ Không Quân Nha Trang, th́ từ ngày lịch sử đó, được coi là “Ngày Không Lực VNCH!”

 

Quân chủng Không Quân phát triển rất nhanh, lớn mạnh như Phù Đổng Thiên Vương! Để bảo vệ an toàn cho Bầu Trời Quê Mẹ, qua cuộc chiến kéo dài trên 20 năm!

 

Chỉ sau 19 năm, sau ngày bàn giao, Không Quân VNCH đă có 2,071 phi cơ đủ loại. Có 6 Phi Đoàn KQ. Đặt căn cứ tại Đà Nẵng (SĐ.1), tại Nha Trang (SĐ 2), tại Biên Ḥa (SĐ 3) tại B́nh Thủy Cần Thơ (SĐ 4) tại Tân Sơn Nhất (SĐ 5) và tại Pleiku (SĐ 6)

 

Với hàng trăm phi công được huấn luyện tại Hoa Kỳ và Quốc nội VN. Có thể điều khiển các phi cơ cánh quạt, phản lực tối tân nhất, đă được trang bị trong cuộc chiến VN. Các phi công VNCH từng được các nước trên thế giới nể phục, về tài ba bay bổng và sự can đảm, cũng như tinh thần yêu nước quên ḿnh. Trong các quân chủng QLVNCH, th́ KQ là quân chủng duy nhất, đặc biệt có nhiều sĩ quan hy sinh nhất! Nhiều bài ca, vinh danh những Cánh Chim oai hùng, anh dũng này.

Ngoài các phi công gan dạ, Quân chủng KQ/VNCH, c̣n có hàng ngàn, chuyên viên giỏi chuyên môn, được đào tạo tại các trường huấn luyện kỹ thuật, để bảo tŕ và sửa chữa các phi cơ, cũng như các thiết bị quân đội.

 

Tất cả các chiến hữu Không Quân dù hoạt động dưới đất, hay bay trên bầu trời, t́m và diệt địch, đều mang một phù hiệu chung “Tổ Quốc – Không Gian”, đều là Anh Em! Đă gọi là “Lính Không có Quân”, nên cấp bậc không có khoảng cách nhiều trong Quân chủng, đeo “lon” chỉ để làm việc mà thôi!

 

 

 

NHỚ NGÀY KHÔNG LỰC

VIỆT-NAM CỘNG-H̉A 1-7-1955

 

Nhớ thưở thanh xuân ngang dọc trời

Trấn không nhiệm vụ dám nào lơi

Phi hành sát địch mong ǵn nước

Phi vận an dân để giúp đời

Gác lại t́nh nhà, thương để dạ

Làm tṛn phận sự, khắc ghi lời

Thế thời chớ luận thành hay bại

Tổ-Quốc ḷng trung giữ vẹn ngời…

 

(DUY ANH July1st )

 

 

 

Chút Nét Trong Quân Sử, Về Quân Chủng Không Quân VNCH

 

- Không lực Việt Nam Cộng ḥa (tiếng Anh: Republic of Vietnam Air Force, RVNAF) là lực lượng không quân chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa. Tiền thân là những phi cơ ném bom nhỏ và cũ do quân đội Liên hiệp Pháp chuyển giao, cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, sau khi rút khỏi Việt Nam. Sau đó dần dần được bổ sung cải tiến, bằng những phi cơ vận tải, chiến đấu tối tân, hiện đại, do đồng minh Hoa Kỳ viện trợ. Trở nên ngày càng mạnh mẽ, về số lượng, cùng hỏa lực. Trong cuộc chiến, Không quân đă đóng vai tṛ quan trọng trong việc yểm trợ các Binh chủng Bộ binh Việt Nam Cộng ḥa trên mặt đất. Làm chủ bầu trời! Chính v́ sức mạnh này, CSVN rất sợ hăi, nên cả chiều dài hơn 20 năm chiến tranh, không có lấy một trận “không chiến!”

 

Không lực Việt Nam Cộng ḥa, được Hoa Kỳ viện trợ số lượng máy bay rất lớn, được xếp hạng sức mạnh thứ 4 trên thế giới và thứ 2 tại châu Á. (Chỉ đứng sau Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc) theo số lượng máy bay và binh sĩ. Một số nguồn tài liệu cho rằng, KLVNCH lớn thứ 6 trên thế giới. (Chỉ sau Liên Xô, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Pháp và Tây Đức)

 

Lúc cao điểm, Không lực Việt Nam Cộng ḥa có tới trên 2.300 máy bay và trực thăng các loại. Tức là c̣n nhiều máy bay, hơn không quân các cường quốc đương thời, như Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản...

 

Tuy nhiên khi so sánh với Không quân Hoa Kỳ, th́ Không lực Việt Nam Cộng ḥa, chỉ có Không quân chiến thuật, để hỗ trợ tiền tuyến, mà không có Không quân chiến lược. (Cụ thể là có các pháo đài bay).

 

Đồng thời lực lượng chiến đấu ưu tú này, lại bị Hoa Kỳ kiểm soát và khống chế việc chỉ huy các chiến dịch, khiến phi cơ chỉ có thể hoạt động rất giới hạn tại Nam Việt Nam. Không được phép thực hiện những phi vụ oanh tạc sâu, trong lănh thổ miền Bắc, cũng như trong không phận 2 nước láng giềng, là Lào và Campuchia. (Nơi có đường ṃn HCM) Nếu không có những điều kiện vô lư này trói buộc, nhiều nhà nhận định thời cuộc đă kết luận: “VNCH chưa chắc đă thua!” Nhiều khi c̣n trái lại!

 

Sau khi để mất các đảo trong Hải chiến Hoàng Sa về phía Trung Quốc, TT Nguyễn Văn Thiệu đă lên kế hoạch huy động không lực Việt Nam Cộng ḥa oanh tạc Hoàng Sa, để chiếm lại. Nhưng sau đó bị hủy bỏ, do phía Mỹ ngăn chặn. (Nên không có cơ hội ghi công trong lịch sử, đánh đuổi quân Tầu xâm lăng!)

 

Trong biến cố 30 tháng 4 năm 1975, cùng với sự sụp đổ của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, lực lượng không quân, cũng chính thức tan ră theo! Kéo theo miền đau, bất ngờ bị “bẻ cánh!” rời Tổ, ngậm ngùi, tan tác, mang thân phận “bên thua cuộc!” măi măi chôn dấu niềm đau không bao giờ quên!

 

 

* Giai Đoạn Thành Lập

 

Lực lượng không quân Việt Nam Cộng ḥa, được h́nh thành từ một số phi công người Việt, được tuyển chọn bay cùng với các phi công Pháp, với tư cách là sĩ quan của quân đội Pháp. Khi Quốc gia Việt Nam, được thành lập, các sĩ quan người Việt này, được chuyển sang cơ cấu Quân Đội Quốc gia.

 

Bản thân Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam, Nguyễn Văn Hinh cũng xuất thân là một sĩ quan phi công, v́ vậy, ông rất chú trọng việc xây dựng Lực lượng Không quân.

 

Tháng 6 năm 1951, một cơ quan phụ trách về ngành Không quân, trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, với tên gọi là Ban Không quân. Ban đầu chỉ làm nhiệm vụ phụ trách Phi đội Liên Lạc.

 

Trên thực tế, các phi công người Việt chỉ làm nhiệm vụ bay cùng với các phi công Pháp trong các phi vụ. Các chức vụ chỉ huy và Phi công chính đều là sĩ quan Pháp. Ngay cả chức vụ Trưởng ban Không quân, kiêm Phụ tá Không quân cho Tổng tham mưu trưởng, cũng là sĩ quan Pháp.

 

Tháng 4 năm 1952, thành lập Trung tâm Huấn luyện Không quân tại Nha Trang, nhưng vẫn do các sĩ quan Pháp đảm nhiệm Chỉ huy trưởng và trực tiếp huấn luyện.

Năm 1953, thành lập thêm 2 phi đội Quan Sát và Trợ Chiến tại Tân Sơn Nhứt và Nha Trang. Năm 1954, Ban Không quân được đổi thành Pḥng Không quân.

 

Năm 1955, Không quân Pháp bàn giao lại cho Không quân Quốc Gia Việt Nam, khoảng 25 vận tải cơ C-47, 2 Phi đoàn quan sát L-19 và 25 Khu trục cơ cánh quạt F8F Bearcat (rất lỗi thời). Tháng 7 năm 1955, lần đầu tiên một người Việt được giữ chức vụ Phụ tá Không quân, là Trung tá Nguyễn Khánh. Giai đoạn đầu ngành Không có120 hạ sĩ quan và 500 binh sĩ.

 

 

* Thời Đệ Nhất Cộng Ḥa

 

Sau cuộc trưng cầu dân ư tháng 10 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng ḥa. Lực lượng Không quân Quốc gia Việt Nam cũng được đổi tên thành Không quân Việt Nam Cộng ḥa. Thiếu tá Trần Văn Hổ, đương kim Phụ tá Không quân, được thăng Trung tá, và trở thành Tư lệnh đầu tiên của Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng Ḥa.

 

Năm 1957, theo chương tŕnh hợp tác viện trợ, một phái đoàn Không quân Hoa Kỳ, sang nghiên cứu t́nh h́nh để soạn thảo kế hoạch huấn luyện cho Không quân Việt Nam Cộng ḥa. Nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan được tuyển chọn sang tu nghiệp tại các trường Không quân Hoa Kỳ. Các phi trường Tân Sơn Nhất, Biên Ḥa, Đà Nẵng được xây dựng mở rộng. Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang cũng được xây dựng quy mô hơn, nhằm đào tạo tại chỗ các khóa hoa tiêu và quan sát viên, và các khóa đào tạo chuyên viên để bổ sung cho các đơn vị.

 

Tháng 9 năm 1959, một Phi đội đầu tiên gồm 6 phi cơ A-1 Skyraider (Thiên tướng) được Hoa Kỳ chuyển giao cho Không quân Việt Nam Cộng ḥa. Sau đó trong ṿng 1 năm, có thêm 25 chiếc Skyraider khác, được bàn giao tại Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt. Năm 1960, Phi đoàn 1 Khu trục cơ được thành lập và bắt đầu hoạt động từ Bến Hải đến Cà Mau, để yểm trợ cho các Binh chủng Bộ binh Việt Nam Cộng ḥa.

 

Năm 1961, chương tŕnh trợ giúp của Hoa Kỳ có tên Farm Gate, đă đưa các loại phi cơ cánh quạt huấn luyện T28, Oanh tạc cơ hạng nhẹ B26 và vận tải cơ C.47, cùng khoảng 124 sĩ quan và 228 quân nhân Hoa Kỳ, sang giúp huấn luyện. Các hệ thống hướng dẫn và kiểm soát không lưu được thiết lập, tại các phi trường Tân Sơn Nhứt, Đà Nẵng và Pleiku. Liên đoàn 1 Không vận đầu tiên được thành lập với Trung tá Nguyễn Cao Kỳ, được chỉ định làm Liên đoàn trưởng. Hoa Kỳ cũng trao cho Không quân Việt Nam Cộng ḥa thêm 16 Vận tải cơ hạng trung C.123, trong tháng 12 năm 1961.

 

Ngày 26 tháng 2 năm 1962, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử, trên đường bay huấn luyện, đă đột ngột bay trở lại dội bom Dinh Độc Lập, mưu toan giết chết Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa Ngô Đ́nh Diệm. Ngay lập tức Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm ra lệnh đ́nh chỉ vô hạn định các phi vụ chiến đấu. Cũng v́ lư do này, mà đương kim Tư lệnh Không quân là Đại tá Nguyễn Xuân Vinh bị thất sủng, phải xin giải ngũ với lư do sang Hoa Kỳ học ngành Tiến sĩ Không gian.

 

Năm 1962, các đơn vị Không quân tác chiến và Yểm trợ tác chiến, được tăng lên cấp Không đoàn tại mỗi vùng Chiến thuật: Không đoàn 41 (căn cứ ở Đà Nẵng), Không đoàn 62 (Pleiku), Không đoàn 23 (Biên Ḥa), Không đoàn 33 (Tân Sơn Nhất), Không đoàn 74 (Cần Thơ).

 

 

* Thời Đệ Nhị Cộng Ḥa

 

Sau cuộc "Chỉnh lư" lên nắm quyền, tướng Nguyễn Khánh thực hiện một số cải tổ trong Quân đội. Ngoài việc đặt ra thêm cấp bậc Chuẩn tướng, ông c̣n cho thay đổi tên gọi "Quân đội Việt Nam Cộng ḥa" thành "Quân lực Việt Nam Cộng ḥa". Danh xưng Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa, cũng được sử dụng chính thức từ lúc đó.

 

Năm 1965, Không lực Việt Nam Cộng ḥa có thêm các Phi đoàn Khu trục cơ A-37 Dragonfly và sau đó là các Phi đoàn Không vận cánh quạt loại lớn Lockheed C-130 Hercules và trực thăng CH-47 Chinook.

 

Ngày 3 tháng 2 năm 1965, một Phi đoàn gồm 24 chiếc A-1H Skyraider, do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy cất cánh từ Căn cứ Không quân Đà Nẵng và tham gia vào Chiến dịch Mũi tên lửa (Flaming Dart) do Hoa Kỳ vạch định, tấn công các địa điểm ở phía bắc Vĩ tuyến 17.

 

Ngày 11 tháng 2 năm 1965, Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh phó Không lực Việt Nam Cộng ḥa, làm Phi đoàn trưởng 28 chiếc Skyraider của Việt Nam Cộng ḥa, cùng với 28 chiếc F100 của Không quân Hoa Kỳ, mở cuộc tấn công thứ hai vào lănh thổ phía bắc Vĩ tuyến 17. Trong đợt này phi công Phạm Phú Quốc bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc Việt Nam.

 

Năm 1967, Không Lực Việt Nam Cộng ḥa có thêm 1 Phi đoàn Khu trục, trang bị phản lực cơ F-5. Số hiệu của các đơn vị cấp Phi đoàn được cải tổ xếp thành 3 số. Theo đó, chữ số đầu trong 3 chữ số của đơn vị cấp phi đoàn, được dùng để chỉ công dụng của phi đoàn đó: Số 1 là liên lạc, số 2 là trực thăng, số 3 là đặc vụ, số 4 là vận tải, số 5 là khu trục, số 7 là quan sát, số 8 là máy bay oanh kích, và số 9 là huấn luyện.

 

Năm 1970, với đà phát triển nhanh của Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa, các Không đoàn Chiến thuật phát triển thành 4 Sư đoàn không quân, tác chiến hỗ trợ cho 4 Vùng Chiến thuật. Năm 1971, Sư đoàn 5 Không quân được thành lập và trở thành Lực lượng Không quân Trừ bị của Bộ Tổng Tham mưu. Năm 1972, thành lập thêm tại Quân khu 2 Sư đoàn 6 chịu trách nhiệm cho vùng trời chiến trường Cao nguyên Trung phần.

 

Ở thời điểm 28/1/1973, Không Lực Việt Nam Cộng ḥa có 2.073 máy bay các loại: 79 A-1, 248 A-37, 66 C-119G/K, 32 C-130, 239 O-1, 35 O-2, 24 T-37, 10 U-6, 85 U-17, 19 C-123, 56 C-7, 76 C-47, 24 T-41, 70 CH-47, 859 UH-1, 151 F-5 A/B/E[15]

 

Tính đến cuối năm 1974, Không lực Việt Nam Cộng ḥa có tổng số quân lên tới 62.583, trong đó có 6.788 phi công. Tổng số máy bay lên tới 1.850 chiếc, trong đó có 260 phi cơ oanh kích, số c̣n lại là máy bay ném bom, trinh sát, vận tải và trực thăng. Chất lượng máy bay cũng cải tiến (thay F-5A bằng F-5E).

 

Năm 1975, Không lực Việt Nam Cộng ḥa có 5 Sư đoàn Không quân tác chiến (20 Phi đoàn Khu trục cơ với khoảng 550 phi cơ A-1H Skyraider, A-37 Dragonfly, và F-5, 23 Phi đoàn Trực thăng với khoảng 1.000 trực thăng UH-1 Iroquois và CH-47 Chinook, 8 Phi đoàn quan sát với khoảng 200 phi cơ O-1 Bird Dog, O-2 Skymaster, và U-17), 1 Sư đoàn Vận tải (9 Phi đoàn vận tải với khoảng 150 phi cơ C-7 Caribou, C-47 Skytrain, C-119 Flying Boxcar, và C-130 Hercules), 1 Không đoàn Tân trang Chế tạo, 4 Phi đoàn Hỏa long (attack squadron) với các phi cơ Fairchild AC-119, Lockheed AC-130. Ngoài ra c̣n có các Phi đoàn t́nh báo kỹ thuật, Phi đoàn Quan sát, và Biệt đoàn Đặc vụ 314.

 

 

* Số Phận Các Máy Bay Sau 75

 

30 tháng Tư Đen! Trong số 2.750 máy bay và trực thăng các loại, của Không lực Việt Nam Cộng Ḥa, chỉ có 308 chiếc sống sót qua chiến tranh. 240 chiếc bay thoát sang Thái Lan hoặc bay ra hàng không mẫu hạm Mỹ, 68 chiếc được gửi về Mỹ, hơn 2.440 chiếc c̣n lại, đă bị phá hủy, hoặc bị CS thu giữ, như chiến lợi phẩm.

 

TRẤN KHÔNG

 

Nắng đẹp trời trong, rạng ánh dương

Chim Bằng cất cánh khỏi phi trường

Trên cao nh́n xuống: người, xe nhỏ

Khởi lướt đường mây quyện gió sương

Mây trắng bồng bềnh, du lăng xa

Tầng không lơ lửng, nắng chiều tà

Phi tŕnh cứ thế mà trôi chảy

Mới đó một ngày lại chóng qua

Bánh đă bung ra dưới cánh tàu

Trên trời dưới đất hỗ tương nhau

Không Lưu báo hiệu: an phi ổn

Chạm đất, phi cơ đáp lướt mau...

Muốn kể em nghe chút chuyện thêm

Hậu phương ngoan nhé, bé môi mềm

Em nồng giấc điệp, c̣n say ngủ

Anh thả hỏa châu, dệt mộng đêm...

 

(DUY ANH)

 

 

Kết

 

Dù cuộc chiến đă tàn lụi gần nửa thế kỷ, nhưng những người Lính KQ vẫn giữ t́nh “Một ngày KQ, cả đời KQ!” và “Không bỏ Anh Em, không bỏ Bạn Bè!” Nên các “Đêm Không Gian Hội Ngộ” tại Hải ngoại, vẫn đông nghẹt những người Lính, một thời với trách nhiệm trên vai “Tổ Quốc Trấn Không” vẫn t́m đến nhau! Ôn lại kỷ niệm một thời “đi mây, về gió!” dù các mái đầu đă bạc trắng!

 

Trong giấc mơ, họ vẫn thấy ḿnh vẫy vùng, vút cao cánh bằng trên Bầu Trời Quê Mẹ. Thực hiện “Một chuyến bay đêm!” thủ thỉ, níu áo Hằng Nga! Đùa vui với “Tuyết trắng!” mây trời gió lộng, trong niềm đam mê “tôi đi, lúc vũ trụ c̣n ngủ say!” dù biết “đi không ai t́m xác rơi!”

 

Xin dành ngày đặc biệt này, giây phút thiêng liêng này, Cho Những Chàng Trai Thời Loạn Ly, lấy mây làm nhà, gió lộng là người t́nh. Những Cánh Chim Sắt, những tinh cầu, đă tan như tro bụi! bốc hơi vào không gian như khói như sương, cho bầu trời Quê Mẹ Miền Nam thêm xanh, mây thêm trắng! Ánh b́nh minh thêm rạng rỡ, của Quê Hương qua hơn 20 năm khói lửa chiến chinh.

 

48 năm sau cuộc chiến, “phi đạo chạy dài” không c̣n nữa, nhưng những Cánh Chim đă nằm xuống, cho Đồng Bào, Đất Nước thân yêu, vẫn… “cất cánh bay cao!” Trong trái tim những người dân Miền Nam yêu mến Tự Do, Dân Chủ.

 

Cám ơn Anh! những Người Lính Không Gian Vô Danh một thời!

 

Chúc Mừng Ngày Không Lực VNCH 1 Tháng 7/2023!

 

 

KQ Lê Văn Hai

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính