ĐỆ NHẤT CỘNG H̉A CỦA MIỀN NAM, VIỆT NAM
(1955-1963)
Huỳnh Văn Lang
OCT 15th, 2010
"...Trong các sách tôi viết về cái chết của hai nguời Anh Em này, luôn
luôn tôi có câu kết sau đây: Thương cho Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm và tiếc
cho ông Ngô Đ́nh Nhu!
Hôm nay tôi xin lập lại! Thuơng ở đây là thuơng khóc, khóc cho một con
nguời đầy đức độ, ái quốc mănh liệt, cả đời tranh đấu, kiên tri tranh thủ
cho Độc lập Quốc gia, cho Tự do Dân tộc, cho Hạnh phúc Đồng bào, đúng là
một vị Anh hùng dân tộc, một vĩ nhân của đất nước!
Tiếc là thuơng tiếc, thuơng tiếc cho một đầu óc uyên thâm, cho một hoài
băo rộng lớn, cho một viễn kiến cao sâu…mà trong ḍng lịch sử, dân tộc VN
đă sản sinh ra, nhưng được mấy người, thử hỏi?..."
HVL
Nội dung của bài nói chuyện hôm nay là những sự kiện hay những biến cố
quan trọng nhất đă đưa đến sự h́nh thành ra Đệ Nhất Cộng Ḥa của miền Nam
VN (1956-1963), mà cái ID của nó là Hiến Pháp năm 1956, cũng là phần kết
của bài này.
Hưởng ứng lời kêu gọi của thủ tuớng Ngô Đ́nh Diệm (NĐD) về giúp nước, từ
Chicago, Illinois, tôi về đến Sài G̣n ngày 24 tháng 8, 1954 và liền sau đó
v́ thời cuộc đưa đẩy, thủ tướng NĐD đă đặt để tôi vào những địa vị, nếu
gọi được là địa vị hay đúng hơn là cương vị, để tôi thành ra chứng nhân
cho những sự kiện tôi muốn ghi lại ra đây. Những sự kiện tôi tŕnh bày sau
đây có ba giá trị khác nhau: là chứng nhân, không chứng nhân nhưng biết
thật chắc chắn và một ít chuyện không biết chắc, quí vị sẽ phân biệt được
3 giá trị khác nhau đó.
1. Cương vị thứ nhất - Phụ tá Bí thư của thủ tướng NĐD
Đầu tiên tôi tạm thời thay thế anh Vơ Văn Hải là bí thư của Thủ tướng, để
anh tạm thời giữ chức Chánh văn pḥng, th́nh ĺnh bỏ trống. Ba ngày đầu
tôi ăn ngủ trong dinh Gia long, sau được đưa ra ngủ nghỉ ở khách sạn Kinh
hoa, Chợ lớn, nhưng luôn luôn về dinh Thủ tướng ăn cơm trưa và tối cho đến
khi Thủ tướng cho lệnh bộ Tài chánh cấp cho villa số 140, đường Hai bà
Trưng, SG. Cho nên tôi may mắn làm việc bên Thủ tướng cho đến ngày 10 hay
11 tháng 10, 1954. Chính trong thời gian ngắn ngủi 45 ngày này đă xảy ra
biến cố Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu quân đội Quốc gia VN muốn đảo
chánh.
Để dễ hiểu rơ biến cố này thiết nghĩ cũng nên nhắc lại, trước đó, ngày 16,
tháng 6, ông Ngô Đ́nh Diệm được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ
tướng, lập nội các VN thay thế chính phủ hoàng thân Bửu Lộc. Thiết nghĩ
khi bổ nhiệm NĐD, Quốc trưởng Bảo Đại (BĐ) có hội kiến với bộ Ngoại giao
Mỹ và cũng có thể với chính phủ Pháp nữa, v́ Pháp dù có thua trận ở Điện
biên phủ trong tháng 5 rồi, nhưng vẫn c̣n nắm quyền Ngoại giao và Quốc
pḥng ở VN với một đạo quân viễn chinh dù đă thua trận nhưng vẫn c̣n hùng
hổ, đang khi anh em NĐD lại có tiếng là chống Pháp.
Cũng chắc chắn là chính phủ Hoa kỳ không có liên quan trực tiếp ǵ đến
chuyện bổ nhiệm này, v́ dù ông Diệm có bôn ba ở Hoa kỳ gần 3 năm đi nữa,
ông có quen thân với nhiều nhận vật có tiếng nói trong chính trường Hoa
kỳ, nhưng thật ra Hoa kỳ chưa nghĩ đến chuyện thay thế Pháp ở Đông dương,
cho đến khi chạm mặt với Nga/Tàu ở hội nghị Genève trong tháng 7, 1954.
Sau khi được bổ nhiệm, bất chấp lời can gián của ông Ngô Đ́nh Luyện ở Pháp
và ông Ngô Đ́nh Nhu ở VN, Thủ tướng NĐD về Sài G̣n ngày 26, cùng tháng 6,
1954. Tổng liên đoàn Lao công VN cổ động đón tiếp, nhưng số người đến phi
trường Tân Sơn Nhất (TSN) chưa đến 500. Bốn ngày sau Thủ tướng bay ra Hà
nội để xem xét t́nh h́nh và tiếp xúc chính khách ngoài Bắc, để rồi trở về
Sài G̣n thành lập Nội các, ra mắt ngày 7 tháng 7, 1954: Thủ tướng kiêm bộ
Quốc pḥng và Nội vụ. Chính phủ chưa kịp làm ǵ th́ ngày 20 cùng tháng,
Hiệp định Genève kư kết giữa Pháp và Việt minh (VM) thoạt đến, toàn dân dở
khóc dở cười, có ḥa b́nh hay đúng hơn ch́ là đ́nh chiến giữa hai phe,
nhưng đất nuớc lại bị chia đôi. (1)
(1) Ngày 21-07/1954, đang khi Tổng thống Eisenhower họp báo để giải thích
hiệp định Genève cho quốc dân Mỹ, th́ ngoài đường có một nhóm sinh viên VN
biểu t́nh lên án các cường quốc chia đôi đất nước của họ. Hôm sau ở trước
trụ sở Liên hiệp quốc (UN), New-york, cũng có một nhóm sinh viên VN biểu
t́nh, đông hơn. Cả hai cuộc biểu t́nh đều do ĐVL, ĐTC & HVL tổ chức, h́nh
HVL có lên báo, lên T. 55 năm sau nh́n lại....
Bao nhiêu vấn đề chính trị xă hội cả văn hóa… đổ dồn về miền Nam với
36,000 quân viễn chinh Pháp và trào lưu Bắc kỳ di cư chạy giặc CS bắt đầu,
người Pháp dự đoán là khoảng 60,000 người, Thủ tướng NĐD hy vọng 100,
000... không dè trào lưu chạy giặc CS bộc phát như thác lũ, quá sự tuởng
tượng của mọi người, nghĩa là trong ṿng 300 ngày do Hiệp định Genève qui
định số người Bắc kỳ di cư lên trên 860,000. Thủ tướng vui bao nhiêu th́
càng lo nhiều hơn nữa....
Khi về đến VN, tôi cảm thấy rơ ràng t́nh trạng quá yếu kém của chính phủ
NĐD cũng như uy tín của tân Thủ tướng quá thấp. Không thấy chính phủ Bửu
Lộc bàn giao lại cái ǵ, ngoài cái dinh Gia long và sở Nội dịch với năm
bảy chiếc xe cũ kỹ, không có một tiểu đội canh gác. Thủ tướng kiêm bộ Quốc
pḥng, mà không có quân đội, bộ Nội vụ không có Công an Cảnh sát, trong
lúc đô thành Sài G̣n - Chợ lớn là B́nh xuyên, miền Tây Nam kỳ lục tỉnh là
Ḥa Hảo, miền Đông là Cao Đài, quần chúng người Nam nghe nói đến NĐD,
nhưng không biết NĐD là ai. Ngoài ra sau lưng tướng Ely, Cao ủy Pháp là cả
một tập đoàn thực dân đang hôi quyền thế, hôi cả tài sản như buổi chợ
chiều. Trong lúc người Mỹ mới nhảy vào chính trường VN chưa có một chủ
trương rơ ràng.... Tắt một lời, xă hội miền Nam đang ở trong một t́nh
trạng vô cùng hỗn mang gần như tuyệt vọng, vô phương cứu văn. Dư luận Quốc
tế cho chính phủ NĐD không thọ quá 6 tháng.
Ưu tư số 1 của Thủ tuớng NĐD là phải nắm lấy quyền hành, là thủ tướng kiêm
Quốc pḥng, cho nên đầu tiên ông phải nắm quân đội. Tham mưu trưởng Nguyễn
Văn Hinh (vợ đầm tức nhiên là dân Pháp), cần phải thay thế. Và chính tướng
Hinh lại khai chiến trước, ngày 09/09/1954 chỉ trích Thủ tướng trên đài
phát thanh Pháp Á do anh Phan Cao Phái (anh của chị Minh Châu bạn của
người viết) quản lư và đ̣i cải tổ chính phủ. Thủ tướng Diệm phản pháo
ngay, ngày 11/09/1954 chỉ thị tướng Hinh phải đi Pháp trong ṿng 24 tiếng,
gọi là để khảo sát tổ chức quân đội Pháp trong ṿng 6 tuần. Tướng Hinh từ
chối và vận dụng quân đội trong tay ḿnh để làm loạn, muốn đảo chánh, cho
1 tiểu đội thiết giáp chạy chung quanh dinh Độc lập (mới được Cao ủy Ely
giao trả tuần trước) vừa hăm dọa, vừa chửi bới, cùng một lúc cho đài phát
thanh quân đội ra rả tố cáo chính phủ nào là độc tài, nào là tham nhũng
v.v.. (Những đêm đó tôi ngủ trong dinh Thủ tướng, sẵn sàng để Thủ tướng sử
dụng như một thông dịch viên và đi đêm với CIA Mỹ, khi đại tá Landsdale từ
Manila qua VN, đóng đô ở hộp đêm Ma Cabane, trước cửa vườn Tao Đàn, cách
dinh Thủ tướng một con đường. Đại tá Lansdale có nhiệm vụ giúp chính phủ
NĐD ổn định tính h́nh). Nội các NĐD sắp sụp đổ đến nơi, v́ ngày
20/09/1954, 9 trên 18 bộ trưởng yếu bóng vía đệ đơn từ chức. Nên lưu ư là
cuộc khủng hoảng này xảy ra đúng lúc cuộc Bắc kỳ di cư bộc phát như lũ lụt
sông Hồng, CS Hà nội chận đường, đe dọa, bắt cóc, thủ tiêu… vẫn không be
nổi.
Nhưng với sự hợp tác chặt chẽ giữa CIA và ṭa Đại sứ Mỹ, Thủ tuớng NĐD
giải quyết được cuộc khủng hoảng do tướng Nguyễn Văn Hinh gây ra, nhưng
không phải là không đổ mồ hôi hột: đại sứ Heath cho tướng Hinh biết là nếu
có đảo chánh trong t́nh thế này th́ Mỹ sẽ cúp viện trợ quân sự ngay, đang
khi đại tá Lansdale t́m cách tách tuớng Hinh ra khỏi tham mưu của ông ta
là 2 nhân viên pḥng nh́ của Pháp, Lansdale biếu hai sĩ quan này hai vé
máy bay đi Manila du hí năm ngày.
Qua tháng sau, 1954 thủ tướng NĐD cất chức tướng Hinh và bổ nhiệm tướng Lê
Văn Tỵ lên thay. (Cũng là lúc thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh có
công tác khác, nên những chuyện sau đây tôi không phải là chứng nhân,
nhưng biết được rơ ràng.)
Đại sứ Heath và tướng O’Daniel, trưởng đoàn cố vấn quân sự Mỹ, lại yêu cầu
thủ tướng Diệm nên giữ tướng Hinh lại trong quân đội. Ông Diệm từ chối.
Trước sự cứng rắn của Thủ tướng, đại sứ Heath thay đổi thái độ, từ bạn ra
thù ngay và gửi điện tín về Washington, tố cáo thủ tướng là bất tài, không
có khả năng dung hợp… cần phải thay đổi.
Nhưng lúc bấy giờ tổng thống Eisenhower và Hội đồng an ninh Quốc gia, cả
đa số Lưỡng viện Quốc hội lại nhận thấy Thủ tướng Diệm có thể lănh đạo mặt
trân chống Cộng ở Đông nam Á châu, nên hoàn toàn bác bỏ đề nghị của đại sứ
Heath và Tông thống Eisenhower gửi đặc sứ qua thay thế là tướng Collins,
bạn thân tín của ông. Đặc sứ Collins đến Sài G̣n mang theo bức thơ của
Tổng thống Mỹ xác nhận ủng hộ một ḿnh Thủ tướng NĐD và muốn thảo luận với
Thủ tướng một chương tŕnh viện trợ kinh tế quân sự qui mô hơn.
Nhưng lại không dè tướng Collins và tướng Ely là huynh đệ chi binh từ Đệ
nhị Thế chiến. Tai hại là đặc sứ Mỹ bị Cao ủy Pháp chi phối hoàn toàn,
ngày một ngày hai tuớng Collins thay đổi thái độ đối với Thủ tướng NĐD, có
nghĩa là ủng hộ mưu đồ “Diệm must go" mà thực dân Pháp đă dàn dựng
từ 4, 5 tháng nay.
Ngày 08/12/1954, hai tướng Collins và Ely vào dinh Độc lập chính thức đề
nghị với Thủ tướng NĐD nên bổ nhiệm Phan Huy Quát làm bộ trưởng Quốc pḥng
và Bảy Viễn làm bộ trưởng Nội vụ. Tất nhiên Thủ tướng NĐD từ chối và phải
từ chối, v́ nếu ông chấp nhận th́ chẳng hóa ra ông chịu thua và mất gần
hết quyền hành - Quốc pḥng và Nội vụ là hai bộ quan trọng nhất của chính
phủ nên ông đă kiêm nhiệm - để cho người Mỹ, qua ông Quát, Đại việt và
người Pháp, qua Bảy Viễn, tướng cướp tha hồ giựt dây.
Thế là lại khủng hoảng! Collins c̣n cực đoan hơn nữa. Là đề nghị với
Washington: Nên đưa Bảo Đại về, đem Phan Huy Quát lên làm thủ tướng thay
thế NĐD và ban hành t́nh trạng khẩn trương, tập hợp các lực lượng quốc gia
để thống nhất hành động. Nếu không thực hiện giải pháp này được, th́ tốt
hơn Mỹ nên rút ra khỏi VN.
Không dè tướng Collins lại dứt khoát đến thế. Trong quan hệ giữa Collins
và Ely, làm như có bóng một người đàn bà, tôi không rơ lắm nên không nói
ra đây. Tuy nhiên trong khủng hoảng này tôi biết rơ một việc, ai là người
đă giúp chính phủ Mỹ khỏi sai lầm trầm trọng, đó là Thương nghị sĩ
Mansfield. Nhận được phúc tŕnh và đề nghị dứt khoát, nếu không nói là cực
đoan hay ngu xuẩn của đặc sứ Collins, TT Eisenhower, Hội đồng An ninh Quốc
gia, và Foster Dulles, bộ ngoại giao, hội nhau lại, hết sức hoang mang,
như bị một búa bổ vào đầu, tá hỏa tam tinh, nên phải kêu gọi đến ư kiến
của bên Dân chủ đối lập, mà người có thớ nhất là Thương nghị sĩ Mansfield:
TNS Mansfield đến ṭa Bạch ốc góp ư: Ông Diệm là một tích sản ḿnh vừa thu
nhận, dù có nhỏ bé cách mấy đi nữa th́ cũng là một tích sản, tại sao ḿnh
phải phiêu lưu đi đổi với những giá trị khác, mà ḿnh mù tịt không hiểu
biết hay chưa hiểu biết mảy may ǵ hết.
Thế là Thủ tướng NĐD lại thắng, tất cả chính phủ Mỹ đều chấp nhận ư kiến
của TNS Mansfield v́ là khôn ngoan nhất và ngày 14/12/1954 chính phủ Hoa
kỳ chỉ thị cho tướng Collins: Trong t́nh thế hiện nay, không có một chọn
lựa nào khác hơn là tiếp tục viện trợ cho VN và ủng hộ Thủ tướng Diệm.
Nhưng chưa hết, tướng Collins với thực dân Pháp c̣n quậy nữa, mà năng nổ
quyết liệt nhất là bảy Viễn, B́nh Xuyên.
2. Cương vị thứ hai - Công cán ủy viên bộ Tài chánh
(a) Tiền.
Cuộc khủng hoảng Nguyễn Văn Hinh giải quyết chưa xong hay gần xong
(10/10/1954) th́ thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh để giúp bộ trưởng
Trần Hữu Phuơng, cũng là bạn thân của tôi từ khi c̣n ở Paris, làm Công cán
ủy viên, để hằng ngày theo dơi diễn tiến Hiệp định Paris, mới hợp lại để
thay thế Hiệp ước Pau, cũng có nghĩa là phủ định tất cả những kư kết của
Hiệp ước này. Nhờ đường lối dứt khoát của thủ tướng Mendès-France như ở
hội nghị Genève (20/07/1954), trong một thời gian kỷ lục hội nghị Paris
kết thúc, kư kết giữa 4 nước đêm 30 tháng 12, 1954: Pháp nh́n nhận toàn
vẹn chủ quyền tài chánh và tiền tệ (hối đoái) của 3 nước Việt-Miên-Lào và
cho thi hành việc bàn giao ngay trong ṿng 3 ngày, tức là ngày 02/01/1955.
Từ nay viện trợ quân sự, kinh tế, nhân đạo của Mỹ và các nước sẽ đi thẳng
vào tay VN, không phải qua tay Pháp nữa. Nhờ theo dơi diễn tiến của hội
nghị Paris rất sát, ngày 23 hay 24 tháng 12/1954, bộ Tài chánh nhận được
điện tín của phái đoàn VN do ông Duơng Tấn Tài cầm đầu, đại khái “hoàn
toàn thắng lợi và sẽ kết thúc trong ṿng 7 ngày", và ông bộ trưởng Tài
chánh dành cho tôi cái danh dự được mang điện tín này vào tŕnh Thủ tướng,
cùng giải thích cho Thủ tướng biết rơ những kết quả tốt đẹp của Hiệp định
Tài chánh & Tiền tệ ở Paris) - nên trước đó năm bảy ngày bộ Tài chánh, do
đề nghị của tôi đă giữ lại đuợc một ngân phiếu 15 triệu Mỹ kim của bộ
Ngoại giao Mỹ viện trợ chuơng tŕnh di cư Bắc kỳ, chờ qua mươi ngày sau bỏ
vào trương mục VN ở một ngân hàng Mỹ bộ Tài chánh tự do chọn lấy, hơn là
phải bỏ vào trương mục VN ở Pháp quốc Ngân hàng (Banque de France) như
trước kia. Độc lập tài chánh và nhất là tiền tệ (hối đoái) là từ đây. Từ
đây chính phủ VN được toàn quyền tổ chức cũng như quản lư tài chánh và
tiền tệ của ḿnh.
Trước đây Pháp đă viện trợ cho các giáo phái xây dựng lực lượng quân sự
tất cả trên dưới 20 ngàn quân, không phải chỉ có khí giới thôi mà c̣n có
một số tiền mặt khá quan trọng khác nữa. Từ đầu năm 1955, Pháp sẽ ngưng
viện trợ và các giáo phái cần viện trợ phải đến với chính phủ NĐD. Chính
yếu tố tiền ở đây, dù không phải là yếu tố duy nhất, nhưng là yếu tố quan
trọng nhất đă định đoạt lấy thái độ các giáo phái đối với chính phủ NĐD và
giúp chính phủ NĐD thống nhất quân đội quốc gia VN, chấm dứt t́nh trạng sứ
quân do thực dân Pháp cấu tạo từ 9 năm qua.(2)
(2) Ngày 14/01, đại tá Nguyễn Văn Huệ, tham mưu truởng của tuớng Trần Văn
Soái, Ḥa Hảo đem 3,500 về với quân đội quốc gia. Ngày 13/02/1955 tuớng
Tŕnh Minh Thế, Lực lượng Kháng chiến Liên Minh Quốc gia Cao Đài dẫn 5,000
quân về với thủ tướng NĐD. Ngày 10/03/1955 Thiếu tá Nguyễn Văn Đầy, Lực
lượng Ḥa Hảo Quốc gia đem 5,000 quân và ngày 31 cùng tháng tướng Nguyễn
Thành Phuơng, Tổng tư lệnh Quân đội Cao Đài đem toàn quân lực của ḿnh về
theo thủ tướng NĐD. Tướng Nguyễn Giác Ngộ, Lưc lượng Dân xă Ḥa Hảo, từ 23
tháng 2 đă hứa đem 8,000 quân về, nhưng phải đợi qua tháng 5, khi thủ
tướng NĐD dẹp xong lực lượng BX mới chịu thi hành lời hứa.
(b) Tiền
Trên đây là hậu quả tích cực xây dựng uy tín và củng cố quyền hành của Thủ
tướng. Thủ tưởng NĐD khởi sự được các giáo phái ủng hộ, mà sau lưng các
Giáo phái là cả một khối dân chúng miền Nam. Để rồi qua ngày 01/01/1955,
Thủ tướng kư nghị định chấm dứt đặc quyền Đại thế giới (cờ bạc) và B́nh
khang (đĩ điếm) của B́nh xuyên, tức là trực tiếp phá vỡ ngay nguồn tài
chánh khổng lồ, nếu không nói là duy nhất của lực lượng B́nh xuyên. Gián
tiếp nguồn tài chánh của Quốc trưởng BĐ ngày một ngày hai phải cạn kiệt:
trước đây mỗi ngày BX phải đóng hụi chết cho Quốc trưởng BĐ đúng 1 triệu
đồng, theo hối xuất thời đó là trên 28,500 Mỹ kim.
(Từ lâu Quốc trưởng BĐ đă có một đời sống vuơng
giả kiêm Playboy tại lâu đài Thorenc ở Cannes; Nam phương Hoàng hậu có tàu
(Yatch), BĐ có mấy xe Sport hiệu Ư.)
Có phải đây là một yếu tố trong nhiều yếu tố tiêu cực bắt buộc Quốc trưởng
BĐ nghĩ đến chuyện cất chức NĐD, để cho Bảy Viễn lên thay, thử hỏi?
(Nói về tiền, tôi muốn nhắc đến một trường hợp ghê
gớm hơn. Sau tuần lễ vàng (1945), HCM dùng một số vàng lớn, dưới mọi h́nh
thức, để mua chuộc hai tướng Tàu là Lư Hán và Tiêu Văn - do Thống chế
Tưởng giới Thạch sai qua VN để giải giới quân Nhật cùng một lúc hậu thuẩn
các lực lượng quốc gia như VNQĐ đảng, Đại việt Cách mạng…- để hoàn toàn bỏ
rơi các đảng phái quốc gia, cho Việt minh lấy thế thượng phong và sát hại
các đảng phái quốc gia, cướp lấy chính nghĩa giải phóng dân tộc, độc quyền
yêu nước, độc quyền kháng Pháp).
3. Cương vị thứ ba - Bí thư Liên kỳ bộ Cần lao Nhân vị CM đảng
Sau khi giải quyết khủng hoảng tướng Hinh xong và được tin tranh thủ thắng
lợi giành được Chủ quyền tài chánh và tiền tệ, Thủ tướng NĐD mừng lễ Giáng
sinh rất vui vẻ và lạc quan hơn. Tôi được Thủ tướng gọi đến tham dự lễ
Giáng sinh, nửa đêm ngày 24 tháng 12, năm 1954, được tổ chức ngoài sân sau
dinh Độc lập. Và nhất là vinh dự được Thủ tướng đích thân chỉ định tôi
ngồi hàng ghế đầu, ngay sau lưng của ông. Sau đó c̣n cho riêng tôi một món
quà Giáng sinh đáng giá nữa. Biết đâu ông đă nghĩ đến chuyện giao cho tôi
quyền điều hành Viện hối đoái Quốc gia (VHĐ) từ giữa đêm hôm đó?
Trong 4 tháng đầu năm 1955, ngoài VHĐ, phần lớn tôi để th́ giờ và tâm trí
vào công tŕnh văn hóa của anh em chúng tôi, là trường Bách khoa B́nh dân,
khai giảng ngày 15 tháng 11,1954. Vừa điều hành một trường sở có trên
1,200 học sinh, vừa giảng dạy 2 lớp tối, từ 6 giờ 30 đến 9 giờ tối, tôi
không trực tiếp liên hệ với những biến cố hay sự kiện lịch sử xảy ra cho
VN lúc đó nữa. Tuy nhiên, dù không chứng kiến, tôi vẫn theo dơi luôn và
đuợc biết rơ những chuyện sau đây:
- Ngày 12/01/1955 thuơng cảng Sài G̣n được giao trả cho chính phủ NĐD.
- Cùng ngày 12/01/1955, tướng Agostini Pháp bàn giao toàn quyền quản lư
quân đội VN cho tướng Lê Văn Tỵ.
Đến đây th́ Thủ tướng NĐD xuất hiện rơ ràng như là một nhận vật có đủ khả
năng tranh thủ độc lập toàn vẹn cho Quốc gia. Nhưng thực dân Pháp và tay
sai chưa chịu bỏ cuộc. Bất hạnh là chính Quốc trưởng BĐ lại để cho chúng
lợi dụng, nếu không nói là đồng lơa với chúng. Nên BĐ và Pháp thúc đẩy Mặt
trận Thống nhất Toàn lực Quốc gia ra đời, là ngày 03/03/1955: ngoài Cao
Đài, Ḥa Hảo, B́nh xuyên c̣n có BS Nguyễn Tôn Hoàn, Đại việt miền Nam,
Phan Quang Đán, đảng Dân chủ, Hồ Hữu Tường... Hộ pháp Phạm Công Tắc được
BĐ mời lănh đạo Mặt trận.
Phản ứng của Hoa Thịnh Đốn: Không thể Mỹ chi tiền mà để Pháp thao túng
chánh truờng VN, nên ngày 08/03/1955 TT Eisenhower tái xác nhận ủng hộ NĐD
và bản sao gửi BĐ, gián tiếp khuyến cáo đừng thọt gậy bánh xe, gây khó
khăn cho NĐD nữa và khuyên Thủ tướng NĐD chống lại đ̣i hỏi của Mặt trận và
bảo các các giáo phái nên rút khỏi Mặt trận. Nhưng bị áp lực của B́nh
xuyên và BĐ các giáo phái không nghe theo liền.
Ngày 21/03/1955 Mặt trận gửi tối hậu thơ cho Thủ tướng NĐD: trong ṿng 5
ngày, phải cải tổ nội các theo mô h́nh nhân sự của Mặt trận. Thủ tướng NĐD
mời vào hội với ông, nhưng ông dứt khoát từ chối.
Mà sáu ngày sau (27/03/1955) ông c̣n cho lệnh đại tá Đỗ Cao Trí đánh chiếm
bộ chỉ huy Công an Cảnh sát do BX nắm giữ.
Thế là chiến tranh giữa thủ tuớng NĐD có quân lực Quốc gia ủng hộ và BX có
Pháp hậu thuẫn đă khởi sự và hai bên có cả một tháng để chuẩn bị đánh lớn,
cũng gọi là hưu chiến.
Cũng là lúc, ngoài cái nợ văn hóa (trường Bách khoa B́nh dân) và cái nợ
chuyên môn (Viện Hối đoái Quốc gia) tôi mang thêm cái nợ chính trị nữa.
Đầu tháng 04, 1955, ông Ngô Đ́nh Nhu, Tổng bí thư Cần lao Nhân vị Cách
mạng đảng (CLNVCM) đă giao hay là nhờ tôi đứng ra phát triển đảng CL (Cần
lao) trong Nam và tôi đă nhận lănh, một cách tự nguyện, nhưng hết ḷng
theo truyền thống của gia đ́nh “là làm cái ǵ phải làm đến nơi đến chốn,
không làm th́ thôi" và tôi đă khởi sự ngay, là thành lập Liên kỳ bộ Nam
Bắc việt, bí thư là Chí nguyện, đến lúc cuộc khủng hoảng B́nh xuyên đến
hồi gay cấn nhất, nghĩa là có đánh nhau, có đổ máu... là cơ hội thử lửa
(Baptême du Feu) cho Liên kỳ bộ Nam Bắc việt vừa mới thành lập với một
tiểu tổ cơ bản và đầu năo, gổm 8 thành viên. Nhưng với bao nhiêu đó Liên
kỳ đă tích cực ủng hộ chiến dịch đánh B́nh xuyên, bất chấp thiết quân luật
Liên kỳ đă đi rải khắp các nẻo đường Sài G̣n/ Chợ lớn và Gia định cả ngàn
tờ "hịch" tố cáo tội ác của B́nh xuyên trong 8 năm qua. (Toàn là sự thật,
không một chút tuyên truyền láo).
Và như chúng ta biết, biến cố B́nh Xuyên lại kéo theo sau sự kiện Truất
phế Quốc truởng Bảo Đại. Lại thêm một cơ hội nữa cho Liên kỳ tập sự nhúng
tay vào chính trị, là giúp củng cố chính quyền NĐD và giúp công xây dựng
nền móng cho ṭa nhà Đệ Nhất Cộng Ḥa của miền Nam VN, luôn luôn không
quên những cán bộ CS để lại miền Nam. (V́ thế mà Liên kỳ vội bỏ đô thành
Sài G̣n/Chợ lớn để trọng tâm vào các tỉnh miền Tây).
Trên đây là hai biến cố hết sức quan trọng mà với sự hạn hẹp của một con
người, cá nhân tôi ở cương vị bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, dù muốn dù
không cũng đă trở thành chứng nhân như nhiều nhân chứng khác, nếu không
nói là trực tiếp tham gia vào những biến cố lịch sử VN trong khoảng thời
gian đó.
Tiếp tục chủ trương triệt hạ quyền lực B́nh xuyên, sau khi cải tổ Nội các
(24/04/1955) có sự tham gia của Ḥa Hảo (Trung tướng Trần Văn Soái và ông
Lương Trọng Tường) và Cao Đài (Thiếu tướng Nguyễn Thành Phương), ngày 25
tháng 4, 1955 Thủ tướng NĐD ra sắc lệnh cách chức Lai Văn Sang, Tổng giam
đốc CS Quốc gia. Như thế tức là tấn B́nh xuyên vào vách tường. Cũng là lúc
đặc sứ Collins v́ quá bất măn với Thủ tuớng NĐD nên đi về Washington để
ráo riết vận động cho cả Chính phủ Mỹ chuyển hướng 180 độ, tức là "Diệm
must go" cho kỳ được, và lần này ông thành công. Rơ ràng ṭa Đại
sứ Mỹ ở Sài G̣n đứng về phe Thực dân Pháp là tướng Ely, Bảy Viễn… hơn là
phe Quốc gia của Thủ tướng NĐD.
Ba ngày sau là ngày 28/04/1955, BX a) khai chiến, pháo kích vào dinh Đôc
lập. Cùng một lúc, BĐ gửi điện tín b) triệu ông Diệm và tướng Tỵ qua Pháp
để tường tŕnh về t́nh h́nh trong nuớc, và c) bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn
Văn Vỹ, tư lệnh Ngự lâm quân Đà Lạt làm Tổng tư lệnh quân đội Quốc gia VN
thay thế tướng Nguyễn Văn Hinh, được toàn quyền sử dụng mọi phuơng tiện
cần thiết để giải quyết cuộc tranh chấp giữa thủ tướng Diệm và các giáo
phái. Lưu ư: Ba sự kiên a,b, c ghi trên hoàn toàn ăn khớp với nhau. Cùng
ăn khớp với vận động thành công của tướng Collins ở Wahington, "Diệm
must go".
Đặc biệt lưu ư đến chi tiết này: Thay thế tướng Hinh, tức là hoàn toàn phủ
nhận quyền hành của Thủ tướng, coi chuyện Thủ tướng NĐD bổ nhiệm tướng Tỵ
như "ne pas". Như thế chẳng hóa ra là cất chức Thủ tướng rồi c̣n ǵ nữa?
Chuyện triệu Thủ tướng qua Pháp, không với ai khác mà là với tướng Tỵ, vừa
được thủ tướng bổ nhiệm Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia VN. Đúng là một
tiểu xảo chính trị bất xứng.
Được lệnh của Quốc trưởng BĐ, Thủ tưởng Diệm đă khôn ngoan, t́m được một
lực lượng vô song để đương đầu với Quốc trưởng, không c̣n là Quốc truởng
của một nuớc, của Quốc dân nữa mà là đại diện cho một tập đoàn Thực dân
rất hùng hậu. Lực lượng vô song nói ở đây là Quốc dân.
Một điều cần nói ở đây là khi Thủ tướng đi t́m một lực lượng vô song đó
không phải là không có cố vấn của CLNVCM đảng, lúc đó là ai? Là Ngô Đ́nh
Nhu, là Trần Quốc Bữu, Trần Trung Dung, Trần Chánh Thành, có cả BS Bùi
Kiện Tín và ai ai nữa… cả nhóm Tinh thần, trong đó có BS Huỳnh Kim Hữu.
Biết rằng tất cả những nhân vật này không một ai gia nhập Cần lao, nhưng
đều chấp nhận chủ trương của ông Ngô Đ́nh Nhu và do ông Nhu chi phối theo
đường hướng Cần lao của ông.
V́ đó mà Thủ tường NĐD cấp tốc triệu tập các Chính đảng và Nhân sĩ Quốc
gia, ngày hôm sau là ngày 29/04/1955, để xin ư kiến: Nên tuân lệnh Quốc
trưởng BĐ triệu qua Pháp hay không? Như thế tức là muốn đặt hội nghị trước
một sự chọn lựa dứt khoát: Bảo Đại hay là Ngô Đ́nh Diệm?
Ở đây tôi muốn nói đến tính cách đại diện bao quát của hội nghị, chưa bao
giờ miền Nam có một hội nghị gồm đại diện của những 18 đoàn thể nếu không
nói là chính đảng và có những 34 nhân sĩ tên tuổi. (3)
(3) 18 Chính đảng là: - Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN – VN Phục quốc
hội – Thanh niên Quốc dân Xă VN – VN Dân chủ Xă hội – Phong trào tranh thủ
Độc lập VN –Phụ nữ Quốc dân xă VN – VN Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng –
Tịnh độ Phật giáo đồ VN – Tổng Liên đoàn Lao công VN – Phong trào Dân
chúng Liên hiệp VN – Phong trào Cách mạng Quốc gia – Tập đoàn Công dân –
Nhóm Tinh thần – Xă hội Công giáo – Thanh niên Dân chủ VN – Cựu Chiến sĩ
Kháng chiến VN – Nghiệp đoàn Kư giả VN – Hội tương trợ Đồng bào Nghệ
Tĩnh/B́nh. Rất tiếc là không c̣n đâu có danh sách 29 nhân sĩ. Trong số
những nhân sĩ này tôi quen thân với BS Huỳnh Kim Hữu và ông Huỳnh Minh Y,
bố vợ anh Huỳnh Sanh Thông và anh Dư Phước Long, và năm ba nhân sĩ nữa,
toàn là người Nam kỳ.
Như thế có thể khẳng định tính cách đại diện bao quát của dân miền Nam. Dù
biết rằng có những đảng chính trị chỉ có vài ba chục đảng viên và không có
một cây súng trong tay để đánh Pháp và chống CS Việt minh. Tuy nhiên cũng
được cả năm bảy đoàn thể chính trị có thực lực, nghĩa là có cả ngàn nếu
không nói là mấy chục ngàn đảng viên và có năm bảy ngàn cây súng. Đó là VN
Dân xă đảng Ḥa Hảo do bí thư Nguyễn Bảo Toàn (Nguyễn Giác Ngộ) đại diện,
VN Phục quốc hội Cao Đài do đại tá Hồ Hán Sơn (Nguyễn Thành Phương) đại
diện và Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN do Nhị Lang (Tŕnh Minh Thế) đại
diện và Tịnh độ cư sĩ do Đoàn Trung C̣n đại diện. Đặc biệt là có những
đoàn thể thanh niên, phụ nữ, và trí thức. Nói được là gần toàn dân miền
Nam có đại diện chính thức đến phó hội. Cũng có vài gương mặt Bắc kỳ di
cư, nhưng thiết nghĩ không có đại diện cho di cư Bắc kỳ v́ khi đó Bắc kỳ
di cư chưa định cư.
Ngày 29/04/1955, đúng10 giờ hội nghị gồm đúng 52 đại diện cho 18 đảng phái
và 34 nhân sĩ khai mạc tại pḥng khánh tiết dinh Độc lập. Thủ tướng NĐD từ
trên lầu đi xuống và có mấy lời: Cám ơn và nêu lư do mời đến hội, để rồi
xin rút lui để tất cả hội viên tự do thảo luận. Nói xong vài câu Thủ tướng
NĐD bỏ lên lầu, không muốn ở lại, e có thể gây ảnh hưởng thế này hay thế
nọ.
Hội nghị bắt đầu làm việc ngay là bầu:
Chủ tọa đoàn: ông Nguyễn Bảo Toàn, bí thư Dân xă đảng, Ḥa Hảo.
Thư kư: ông Phạm Việt Tuyền, nhà báo.
Và họ đă nghiêm chỉnh làm việc.
(Sáng ngày hôm đó c̣n có 3 trái pháo kích BX bắn
vào dinh Đôc lập, có một trái nổ ngay đúng lúc hội nghị bắt đầu làm việc).
Nhưng đang khi các hội viên yên lặng chăm chú đọc chương tŕnh nghị sự,
th́ ông Nhị Lang đứng lên tuyên bố:
“Thưa quí vị, tôi được chỉ thị đoàn thể chúng tôi
là Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN đến đây gặp quí vị không phải để nói
chuyện về việc Thủ tuớng NĐD có bổn phận hay không bổn phận thi hành lệnh
của Bảo Đại. Mà là trái lại, tôi xin thẳng thắn đặt vấn đề là đă đến lúc
chúng ta cần trút bỏ quyền hành của ông Quốc trưởng vô dụng kia đi. Là v́
ông ta đang làm một việc trái với nguyên tắc lănh đạo quốc gia. Thử hỏi,
thành phố Sài G̣n đang có biến, dân chúng đang xôn xao lo sợ, tại sao ông
BĐ lại chọn ngay lúc này để bắt buộc Thủ tướng phải bỏ nước sang bên Pháp
xa xôi kia, để "tham khảo ư kiến?" Tham khảo cái gỉ? Phải chăng đây là mưu
kế để nhắm lật đổ Chính phủ này? Vậy tôi xin tuyên bố dứt khoát, nếu quí
vị bằng ḷng thảo luận việc truất phế Bảo Đại ngay bây giờ,th́ tôi ở lại.
Bằng không, tôi xin phép ra khỏi pḥng hội này ngay!".
Lúc bấy giờ cả cử tọa sửng sốt hay bàng hoàng trước đề nghị quá táo bạo
của Nhị Lang, cũng vừa lúc đại tá Hồ Hán Sơn, đại diện tướng Cao Đài
Nguyễn Thành Phương đứng lên và tuyên bố tiếp:
“Nhân danh Việt Nam Phục Quốc hội, chúng tôi đồng ư với mặt trận Quốc
gia kháng chiến, yêu cầu quí vị đừng bận tâm tới lệnh triệu thỉnh vô lư
của Bảo Đại nữa, mà hăy đồng tâm làm một cuộc cách mạng, chấm dứt ngay vai
tṛ của ông Quốc trưởng BĐ kia đi cho xong. Nếu ư kiến này không được
hưởng ứng, tôi cũng xin rút lui ngay tức khắc!"
Đến đây th́ toàn thể cử tọa không c̣n rụt rè nữa, nhất là khi chủ tọa đoàn
Nguyễn Bảo Toàn cũng đứng lên tuyên bố hoàn toàn ủng hộ sáng kiến của hai
ông Nhị Lang và Hồ Hán Sơn, nên đều hoan hô lên, trăm người như một, có
người c̣n la lên đả đảo Bảo Đại và có người cởi giày ném vào mặt bức h́nh
BĐ treo cao giữa pḥng. Ông Vũ văn Mẫu, một giáo sư Bắc kỳ, với một nhân
sĩ nữa chạy lại cồng kềnh Nhị lang lên vai và bảo đứng lên gỡ bức ảnh đi.
Ông Nhị lang cực khổ lắm mới hạ được bức ảnh đồ sộ của Quốc trưởng và ném
xuống đất.
Sau mươi phút sôi nổi, ồn ào…. Hội nghị ngồi lại để bầu ra một Ủy ban Cách
mạng Quốc gia, gồm 3 nhân vật đầu năo là Nguyễn Bảo Toàn, Chủ tịch, Hồ Hán
Sơn, Phó chủ tich, Nhị lang làm Tổng thư kư.
Với sự đóng góp của nhiều cố vấn, một giờ sau Ủy ban đă thảo xong một bản
Kiến nghị.
Và sau khi nghe Chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn đọc hai lần, tất cả hội viên là
52 người đều chấp nhận và kư tên.
Xong rồi th́ các hội viên yêu cầu Chủ tịch đi lên lầu mời Thủ tướng NĐD
xuống để nghe kết quả của nghị hội.
Thủ tuớng NĐD xuống lầu, tất cả mọi người đều đứng lên, ông đứng trước cử
tọa, mặt xẩm xuống, vẻ buồn buồn hơn là lo âu, bầu không khí bỗng chốc trở
nên yên lặng lạ thường….
Chủ tịch Ủy ban vừa cảm động vừa quả quyết đọc lớn cho mọi người đều nghe:
Thay mặt cho toàn thể hội nghị, tôi xin tŕnh Thủ tướng kết quả của hội
nghị là bản Kiến nghị gồm 3 điểm này:
Kiến nghị:
1. Truất phế Quốc trưởng Bảo Đại
2. Giải tán Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm
3. Ủy nhiệm chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm thành lập chính phủ mới để trừng trị bọn
phiến loạn B́nh xuyên, thu hồi chủ quyền quốc gia, yêu cầu triệt thoái
quân đội viễn chinh Pháp và tổ chức bầu cử quốc dân đại hội.
Làm ngày 29, tháng 04, 1955
Đại diện 18 Chính đảng và đoàn thể cùng 34 nhân sĩ kư tên
Vừa nghe Truất phế Quốc trưởng BĐ, mọi người đều thấy mặt Thủ tướng đỏ lên
rồi lần lần biến sắc. Ông hoàn toàn bị cú sốc. Nghe xong thấy ông lặng
người, tay nhận lấy bản kiến nghị và cố gắng lấy lại b́nh tỉnh, hết sức
chậm răi trả lời gần như từng chữ một: Xin quí ngài cho tôi... được có th́
giờ... suy nghĩ kỹ... về vấn đề trọng đại này! Xin cám ơn quí ngài!
Sau đó các hội viên lần lượt êm lặng đến bắt tay từ giă Thủ tướng, thấy vẻ
mặt ông âu lo rơ ràng…. lúc đó là 5 giờ chiều. Hội nghị đă kết thúc và
giải tán.
Đến đây th́ cuộc Cách mạng kể như là xong và Thủ tướng Diệm bị đặt trước
một sự đă rồi. Vốn Thủ tuớng NĐD chỉ muốn dẫn vào nhà một con tuấn mă để
nhờ giúp qua suối, không dè nh́n lại là một con bạch hổ, ông không cỡi th́
nó sẽ thịt ông, nhưng nếu ông dám leo lên lưng nó, th́ chỉ một cái nhảy
vọt nó đưa ông lên tới đỉnh núi cao vời vợi. Thật ra khi đến giai đoạn này
Thủ tướng NĐD vẫn c̣n nghĩ đến một chế độ Quân chủ lập hiến, chưa nghĩ đến
một chế độ Cộng Ḥa, cái đó là chắc. Thành ra khi biết chuyện Truất phế là
sự đă rồi, ông không tái mặt làm sao được!
Chiều tối lại, lúc 8 giờ đài phát thanh Sài G̣n đưa tin cho toàn quốc và
Thế giới biết ở miền Nam VN đă xảy ra cuộc cách mạng Truất phế Quốc trưởng
Bảo Đại. Cùng một lúc Ủy ban Cách mạng Quốc gia kêu mời các nhân sĩ và
đồng bào ngày hôm sau đến hội tại ṭa Đô chánh Sài G̣n để nghe Ủy ban
thuyết tŕnh về biến cố lịch sử vừa xảy ra.
Và ngày hôm sau, từ sớm các giới nhân sĩ, các đại diện các Chính đảng,
thanh niên sinh viên phụ nữ, báo chí… phấn khởi tụ tập đầy nghẹt pḥng
khánh tiết ṭa Đô chánh Sài G̣n. Ông Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn và Nhị
Lang thuyết tŕnh về Cuộc Cách mạng Truất phế BĐ ngày hôm trước, tất cả cử
tọa đều nhiệt liệt hoan hô, triệt để ủng hộ. Và thêm một màn hạ bệ Bảo Đại
một lần nữa, có người bắc thang leo lên gỡ bức ảnh to tướng h́nh Quốc
trưởng BĐ treo trước cửa ṭa nhà và ném xuống đất, rồi có những thanh niên
nhảy lên dậm đạp cho nát bét (Tôi đă chứng kiến màn hạ bệ do anh bạn ĐTC
điều khiển). Đang khi đó ba tướng Nguyễn Giác Ngộ (Ḥa Hảo), Nguyễn Thành
Phuơng (Cao Đài) và Tŕnh Minh Thế (Mặt trận Quốc gia Kháng chiến) được Ủy
ban Cách mạng giới thiệu, đứng ra tŕnh diện để công chúng hoan hô, như là
những anh hùng đă tạo ra thời thế. Và chúng tôi đă nghĩ vậy, v́ sau lưng
của Ủy ban Cách mạng đă có ba tướng này cho ư kiến, nếu không nói là cho
chỉ thị, nên ba ông đại diện Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn, và Nhị Lang đă
hành động, đă lên tiếng hết sức đồng nhịp với nhau (synchronized) và nhờ
vậy mà lôi kéo tất cả hội nghị một cách dễ dàng, nhất là khi các thành
phần hội nghị đă sẵn có tiềm thức phản hoàng rồi.(5)
(5) Vốn cái ư phức phản hoàng này có trong Nam từ thời vua Tự Đức tức là
gần cuối thế kỷ 19 khi vua Tự Đức nhượng cho Thực dân Pháp 3 tỉnh miền
Đông, rồi 3 t́nh miền Tây Nam kỳ lục tỉnh một cách dễ dàng quá. Rồi đến
khi phong trào Kháng Pháp trong Nam, như của Thủ Khoa Huân, của Trương
Công Định, của Thiện Hộ Dương, của Cố quản Trần Văn Thành... lại bị triều
đ́nh nhà Nguyễn bỏ rơi gần như hoàn toàn. Để rồi qua đầu thế kỷ 20, phong
trào Tây học, như các nhà cách mạng Đệ tứ Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn
Nguyễn, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường và nhất là Phan Chu Trinh đă gieo rắc
trong Nam nhất là trong giới trí thức ư thức phản hoàng hay Cộng ḥa.
Ngoài ra chế độ thuộc địa Pháp là chế độ thuộc địa có văn hóa cộng ḥa hơn
là quân chủ, cho dù nó phát xuất từ thời Napoleon III....
Đến đây th́ cuộc Cách mạng đă được chính thức hóa bằng một văn kiện có rất
nhiều chữ kư rất nặng giá v́ đại diện cho nhiều đoàn thể chính trị hay
quần chúng và công khai hóa bằng đài phát thanh, bằng sự xác nhận trước
công chúng của thủ đô Sài G̣n/ Chợ lớn. Như thế phải nh́n nhận là cuộc
Cach mạng này đă thành tựu một cách tuyệt đối rồi. (Period, Point final).
Và theo tôi cuộc Cách mạng này là biến cố lịch sử quan trọng nhất từ ngày
Việt Minh cướp chính quyền trên tay Chính phủ Bảo Đại/ Trần Trọng Kim tại
Sài G̣n ngày 23/08/1945 (ở Hà nội là ngày 19 tháng 8, 1945) 10 năm truớc,
v́ nó có tính cách quyết định, dù chỉ là đập đổ, san bằng. Nhưng muốn xây
dựng cái ǵ th́ phải đập đổ và san bằng trước cái đă. Đó là một lẽ tất
nhiên. C̣n chuyện xây dựng là chuyện của hồi sau.
Cuộc Cách mạng Truất phế Quốc trưởng Bảo Đại này là tác động của dân miền
Nam nói chung, trong đó quần chúng Nam kỳ lục tỉnh qua các đại diện của họ
đă đóng một vai tṛ chủ động, không ai có thể chối căi điều đó. Dù là tiêu
cực hay là đập đổ và san bằng, nhưng tích cực là nó đă dọn đường cho sự
h́nh thành ra Đệ Nhất Cộng Ḥa, v́ ngay lúc đó chính Thủ tướng NĐD c̣n
nghĩ tới chế độ Quân chủ lập hiến. Nhưng tai hại vô cùng, chỉ năm năm sau
cũng chính quần chúng Nam kỳ lục tỉnh (không quơ đũa cả nắm) qua Mặt trận
Giải phóng Miền nam đă đóng một vai tṛ quá ư quan trọng, dù không phải là
chủ động đă khởi sự tàn phá, không phải chỉ Đệ nhất CH mà cả Đệ nhị CH
nữa. Sau 15 năm dọn đường, đúng hơn là làm cỗ sẵn cho CS Miền Bắc thôn
tính hoàn toàn, đúng hơn là thuộc địa hóa miền Nam, cho đến bao giờ? Truất
phế BĐ là một tác động Cách mạng sáng suốt hợp t́nh hợp lư bao nhiêu, th́
tác động gọi là Mặt trận Giải phóng miền Nam, là một cái sai lầm ghê gớm,
nếu không nói là ngu xuẩn tày đ́nh bấy nhiêu, như lịch sử 34 năm qua đă
chứng minh quá hùng hồn, v́ hệ lụy tai hại vô cùng, cho quyền lợi, cho cả
quyền làm người của dân miền Nam nói chung và dân Nam kỳ lục tỉnh nói
riêng. Tuy nhiên, tôi c̣n hy vọng, dù mong manh đi nữa, sẽ có ngày quần
chúng miền Nam nói chung và Nam kỳ lục tỉnh nói riêng sẽ đứng lên làm một
cuộc Cách mạng nữa. Và lần này là một cuộc Cách mạng vô cùng thiết yếu cho
sự sống c̣n của cả một dân tộc VN, không riêng ǵ cho miền Nam hay Nam kỳ
lục tỉnh. Đó là sứ mạng của lịch sử giao phó cho dân miền Nam, không riêng
ǵ người trong nước hay ở hải ngoại.
(Ở đây cũng nên nhắc lại những biến cố rất quan
trọng sau đây, nhưng tôi kể là bên lề v́ nó không có tính cách quyết định,
nó như là mấy màn của một tấn bi hài kịch lịch sử mà các diễn viên, từ
những tên lưu manh hạng nặng, những nhà ngoại giao ngu ngơ, cho đến những
chính trị gia lỗi lạc phi thường, những anh hùng rất thông minh và can
trường... mà vai nào cũng đặc sắc cả, đặc sắc ở đây không có nghĩa là vai
tṛ nào cũng tốt đẹp đáng vỗ tay.)
Đầu tiên là chuyện của một ông tướng Nguyễn Văn Vỹ, tư lênh Ngự lâm quân,
Đà Lạt, được Quốc trưởng BĐ bổ nhiệm ngày 28, tháng 04 - cùng một lúc
triệu Thủ tướng Diệm và Tổng Tham mưu Lê Văn Tỵ qua Pháp – làm Tổng tham
mưu quân đội Quốc gia VN thay thế tướng Hinh được toàn quyền hành động.
Được bổ nhiệm xong, tướng Vỹ vội kéo Ngự lâm quân về ngay Tổng tham mưu
bắt tướng Tỵ, kéo vào dinh Gia long toan lật đổ chính phủ NĐD. Lúc đó là 6
giờ chiều. Nhưng ngẫu nhiên Ủy ban Cách mạng, sau khi tŕnh diện ở ṭa Đô
chánh đă đổi tên là Hội Đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia kéo nhau vào dinh
Độc lập và một lần nữa Nhị Lang lại là người táo bạo nhất dám dùng một
khẩu súng tay (chưa chắc đă lên đạn), bắt tướng Vỹ phải đưa tay lên đầu
hàng, nghĩa là cuộc phản đảo chánh của tướng Vỹ bỗng chốc hóa ra mây khói.
Đến đây đúng là tṛ hề, v́ mới năm phút trước tướng Vỹ áp lực Thủ tuớng
NĐD từ chức, bây giờ ông phải nhờ Thủ trướng che chở cho ông khỏi mất
mạng. Để rồi đầu hàng Cách mạng, kư cả hai tay giấy cam kết trở lại hợp
tác với Thủ tướng. Nhưng hai ba giờ sau lại phản phé, muốn lật ngược lại
thế cờ. Song đến chừng đó th́ không c̣n một ma nào coi ông có chút ǵ
nghiêm chỉnh cả, nên mọi người đều bỏ rơi ông, bắt buộc ông phải cuốn gói
rút quân chạy về Đà Lạt, lúc đó đă 3 giờ sáng.
Chuyện thứ hai là chuyện của một ông đặc sứ Collins của TT Eisenhower. Sau
khi không chinh phục được Thủ tuớng Diệm theo đề nghị ngu ngơ cải tổ chính
phủ của ḿnh, ông tự cho ḿnh bị khinh bạc, mất mặt với bạn bè chi binh,
biết đâu lại không có miệng lưỡi của một mụ đàn bà xúi bậy vào…. ông vội
bỏ VN trở về Mỹ chính hai ngày trước khi BX khởi chiến. Ông về Mỹ ráo riết
vận động với Quốc hội, với bộ Ngoại giao, với hội đồng An ninh Quốc gia và
triệt để khai thác t́nh tự bạn chi binh với chính TT Eisewhower. Sau 5
ngày vận động không ngừng nghỉ, ông thành công: TT Eisenhower gửi tối hậu
thư tuyên bố “Diệm must go" để ông Đặc sứ mang về Sài G̣n,
phổ biến cho các đảng phái liên hệ, cũng có thể như là món quà đáng giá
triệu đô cho bạn chi binh của ông là tướng Ely và nhất là cho Bảy Viễn.
Nhưng không ai dè, chính trong thời gian ông ở Mỹ thủ tướng NĐD đă kư sắc
lệnh mở chiến dịch Hoàng Diệu do đại tá Duơng Văn Minh làm tư lệnh, để
phản công B́nh Xuyên và ngày một ngày hai quân đội Quốc gia VN đă đánh bật
hai trung đoàn BX ra khỏi địa bàn Sài G̣n/Chợ lớn, tàn quân BX rút chạy
vào Rừng Sát, hoàn toàn tan ră và chiến dịch đă kết thúc trong ṿng mươi
ngày và ngày mùng 8 tháng 5 đại tá Dương Văn Minh kéo quân khải hoàn về.
Quân đội Quốc gia tổn thất vài mươi sinh mạng. Chẳng may lại mất một tướng
tài, cũng là một nhà chính trị đầy hứa hẹn. Sáng ngày 02/05/1955 tướng
Tŕnh Minh Thế kéo quân qua cầu Tân thuận để truy kích quân binh BX, một
người lính Pháp trong tàn quân BX bắn sẻ từ bên kia cầu, tướng Thế chết
ngay trên “command car".
(Sau này người Pháp có bắn tin là đă trả được thù
cho tướng Chanson và Thái Lập Thành, tay chân của Pháp, v́ hai nhân vật
này đă bị quân của tuớng Thế ám sát chết ở Sa Đéc năm bảy năm trước.)
Sau khi thành công xoay chuyển Wahington hơn 180 độ, tướng Collins hớn hở
bay về VN. Trên con đường bay về Sài G̣n th́ Washington được tin thủ tướng
NĐD với quân đội Quốc gia trung thành, như vũ như băo phản công BX mà
chiến thắng ở trong tầm tay của Thủ tướng rơ ràng. Đánh BX để chứng minh
Thủ tướng có đủ bản lănh và tài ba để ổn định t́nh thế, bất chấp những mưu
mô lươn lẹo của thực dân Pháp và cố chấp ngu ngơ của tướng Collins. Cho
nên Washington lập tức phải trở lại ủng hộ thủ tướng NĐD c̣n hơn trước
(statu quo ante) và đă vội vả đánh một điện văn khác để thủ tiêu bức thơ
của Collins đang cầm tay. Cho nên khi ông Đặc sứ vừa xuống phi trường TSN
th́ cũng vừa lúc một nhân viên ṭa đại sứ chạy đến tŕnh cho ông một điện
văn hỏa tốc. Ông phải mở ra xem liền, tôi không thấy gương mặt của ông đặc
sứ Collins lúc bấy giờ, nhưng tôi chắc là ông phải đổ mồ hôi hột, dù trời
Sài G̣n tháng 5 không nóng lắm, nhưng có thể ông cảm tưởng là đă tới tháng
8 rồi! Tội nghiệp cho ông Đặc sứ, quá nhiều ego (tự ái), làm mất sáng
suốt!)
Đến đây th́ phải nh́n nhận là trên thực tế chế độ quân chủ của nhà Nguyễn
với 13 triều đại (1802-1954) đă thật sự cáo chung, sau một thời gian 9 năm
(1945-1954) hấp hối. Vốn độc lập của VN do quân đội Nhật ban cho
(09/03/1945), không do tranh đấu, do hi sinh mà được, tất nhiên không giá
trị bao nhiêu, nên Nguyên thủ quốc gia phung phí một cách vô ư thức là
phải. Tuy nhiên trong mấy tháng độc lập quốc gia (09/03 đến 24/08/1945),
chính phủ Trần Trọng Kim cũng làm được một việc cho quốc dân là cải tổ hệ
thống giáo dục quốc gia theo định hướng dân tộc. Nhưng cùng một lúc làm
một việc vô cùng tai hại cho quốc dân, nhất là ở miền Nam kỳ lục tỉnh. Vốn
ngày 02/05/1945, Hoàng đế Bảo Đại đă kư sắc luật phóng thích tất cả tù
nhân chính trị, mà trong đó 90% là cán bộ CS, bị Pháp giam giữ ở Côn đảo
từ phong trào Sô-Viết-Nghệ Tĩnh (1929-1930) và cuộc nổi dậy trong Nam
(1939-1940) của Đệ tam Quốc tế, mà tổng số lên đến trên 10,000. Nhờ đó mà
ngày một ngày hai (tháng 6, tháng 7, 1945) cả mấy ngàn cán bộ CS, (trong
đó có Lê Duẫn, Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương… toàn là cán bộ cao
cấp), sau nhiều năm tôi luyện vừa lư thuyết vừa kỹ thuật hành động được
đón tiếp nhiệt liệt trở về Cần thơ, Sóc trăng, Trà vinh… để rồi làm ung
thúi chính trường miền Nam, đưa VM nắm lấy thế thuợng phong, đàn áp các
Giáo phái, giết hại các nhà ái quốc chân chính, cướp lấy chính nghĩa quốc
gia, thầu công cuộc kháng Pháp cho đến Điện biên phủ, tháng 5, 1954.
4. Cương vị thứ tư là một cương vị hỗn hợp.
Khi tôi vừa điều khiển VHĐ, các trường BKBD, và Hội Văn hóa B́nh dân, với
chức vụ Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, tôi đă trở thành một cố vấn đa
dạng (tiện tệ, văn hoá và an ninh) của Thủ tướng NĐD. Ở đây tôi không nói
tôi đă làm những ǵ, tôi chỉ nói đến những ǵ tôi thấy tôi nghe, cũng là
chứng nhân cho những biến cố lịch sử kể ra sau đây.
Thật ra từ đây vai tṛ của CLNVCM đảng càng ngày càng trở nên quan trọng
và rơ ràng hơn. Nói đến Cần lao trong giai đọan này, ngoài lư thuyết Nhân
vị, không phải chỉ là những thành viên đầu năo của nó là Ngô Đ́nh Nhu,
Trần Quốc Bửu, Trần Chánh Thành, Trần Trung Dung…, và trong chừng mực hạn
hẹp của nó là Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, (thành lập từ đầu tháng 04, 1955 và
giải tán đầu năm 1958), mà c̣n phải kể những đoàn thể do Cần lao lănh đạo,
như Tập đoàn Công dân, Phong trào Cách mạng Quốc gia.... Tất cả đều nh́n
nhận Thủ tướng sau là Tổng thống NĐD làm lănh tụ tối cao, biểu tượng cho
chính nghĩa Quốc gia hay Dân tộc, chống lại HCM, biểu tượng cho chủ nghĩa
Quốc tế Mac-lêninit (4)
(4) (Cũng lạ là trong những cuộc khủng hoảng vừa kể trên những người cận
kề bên ông Diệm nhất toàn là người Trung hay người Bắc, chỉ có một ḿnh
tôi là người Nam, mà cuộc Cách mạng Truất phế BĐ lại hoàn toàn là do tác
động của người miền Nam. Có phải v́ thế mà thủ tướng Diệm phải suy nghĩ cả
2 tháng mới khởi sự hành động một cách dứt khoát với BĐ.)
Và thành tích cụ thể và rực rỡ nhất của CL, là cuộc Trưng cầu Dân ư, kéo
theo là Quốc hội lập hiến với Hiến pháp 1956 của nó, cũng là cái ID (lai
lịch) của Đệ Nhất Cộng Ḥa của miền Nam (1956-1963).
a. Trưng cầu dân ư.
Ngày 22 tháng 10, thủ tuớng NĐD qua hệ thống truyền thanh đă kêu gọi quốc
dân ngày hôm sau nên dùng cái quyền tự do của ḿnh, cũng là nhiệm vụ của
người công dân, phải đi đầu phiếu để chọn lựa giữa Quốc trưởng BĐ và ông,
tức là chọn một thể chế Quân chủ hay Cộng ḥa.
Và ngày 23 tháng 10, 1955 quốc dân miền Nam đă nhiệt liệt huởng ứng lời
kêu gọi của Thủ tướng NĐD, náo nức kéo nhau đi đầu phiếu và kết quả hết
sức tốt đẹp cho thủ tướng NĐD:
5,838,907 cử tri đi bầu. 5,721,735 lá phiếu Truất phế Quốc Trưởng BĐ và
bầu NĐD lên thay thế, như là Quốc trưởng VN.
Như thế Thủ tướng NĐD thu về cho ḿnh gần 98% số phiếu đi bầu. Thật ra th́
Thủ tướng Diệm không cần đến một phân xuất cao đến thế. V́ ai ai cũng đinh
ninh ông thắng và thắng lớn.
(Ai nói ǵ th́ nói theo tôi kết quả hay những con
số này hoàn toàn trung thực với ư người dân, nếu có một hai thùng phiếu
không hợp lệ v́ nhân viên chính quyền quá sốt sắng đến chỗ ngu xuẩn, th́
chỉ là một con số quá nhỏ, không đáng kể.)
Như thế Quốc dân miền Nam muốn chấm dứt chế độ Quân chủ và ủy nhiệm cho
ông NĐD nhiệm vụ thiết lập chế độ Cộng Ḥa dân chủ. Cho nên cách này hay
cách nọ Truất phế Quốc trưởng BĐ như là mẹ đẻ ra các Biến cố lịch sử kế
tiếp, như là một quá tŕnh tiến hóa chính trị bất di bất dịch của lịch sử.
Ngày 26 tháng 10, 1955, Thủ tướng NĐD tuyên bố Hiến chương tạm thời, theo
đó từ rày VN là một nước Cộng ḥa, người lănh đạo là Quốc trưởng kiêm luôn
chức Thủ tướng, tức là Tổng thống nước Việt Nam Cộng ḥa.
Đến đây th́ uy tín của Thủ tướng lên đến tuyệt đỉnh, trong nuớc cũng như
trên thế giới, v́ tuyệt đại đa số Quốc dân ủng hộ ông. Nhờ đó mà ông giải
quyết tất cả các vấn đề tồn kho với Pháp để hoàn thành độc lập Quốc gia
trọn vẹn:
a) Pháp phải giao trả lại cho VN hoàn toàn chủ quyền tiền tệ tài chánh (VN
không c̣n phải ở trong khu vực đồng quan Pháp nữa)
b) Chủ quyền Ngoại giao (Cao ủy Pháp được giải tán, từ rày tướng Ely chỉ
là một đại sứ, bộ Ngoai giao VN giao thiệp thẳng với bộ Ngoại giao Pháp),
và
c) Chủ quyền Quốc pḥng, quân đội Pháp lục tục rút quân cho hết trong ṿng
6 tháng.
b-Xây dựng chế độ Cộng Ḥa.
Ngày 23/01/1956 Thủ tướng kư nghị định tổ chức bầu Quốc hội lập hiến.
Ngày 04/03/1956, Quốc dân miền Nam nhiệt liệt hứng khởi đi đầu phiếu, bầu
123 dân biểu cho Quốc hội Lập hiến.
Ngày 26/10/1956 tân Hiến pháp được công bố.
Nước Việt nam Cộng ḥa ra đời, Thủ tướng NĐD được xác nhận là Nguyên thủ
Quốc gia, dưới danh xưng là Tổng thống, kiêm chức vụ Thủ tướng, với 2
nhiệm kỳ là tối đa, mỗi nhiệm kỳ là năm năm.
Kết luận.
Hiến pháp 1956 hay là ID của Đệ Nhất Cộng Ḥa ở miền Nam.
Thử t́m hiểu cái ID này xem. Như trên đă nói, từ ngày hội nghị các chính
đảng và các nhân sĩ miền Nam đă làm Cách mạng Truất phế Quốc trưởng BĐ
(ngày 29/04/1954), vai tṛ của CLNVCM đảng càng ngày trở nên hết sức quan
trọng, với chủ thuyết Nhân vị cũng như với tổ chức nhân sự của nó. Ảnh
hưởng của nó trên những biến cố chính trị đưa đến kết quả là Hiến pháp VN
Cộng ḥa 1956 đều luôn luôn có tính cánh quyết định nếu không nói là chủ
động. Và cây nào sanh ra trái nấy là một lẽ tất nhiên.
Ngay trong trang đầu của Hiến pháp có hai từ ngữ Duy linh và Nhân vị.
Thiết nghĩ hai từ ngữ này cũng đủ để giái thích tất cả bản chất của một
Hiến pháp như là bản luật tối cao của một nước, của một Quốc gia hoàn toàn
độc lập. Nhưng nội dung với những điều khoản của nó không khác mấy với
những Hiến pháp các nước khác, kể cả nước CS, như là định đoạt chủ quyền
thuộc về toàn dân, định đoạt nhiệm vụ và bảo đảm quyền lợi của nguời dân
với đầy đủ những quyền tự do của nó, tự do đi lại, cư ngụ, tự do tư tưởng,
tự do ngôn luận, tự do tín nguỡng… đủ thứ tự do....
Nhưng lại khác với các hiến pháp khác và hoàn toàn trái ngược với hiến
pháp của CHXHCN ở chỗ thi hành hay áp dụng, mà phương châm hành động là
Chủ thuyết của Hiến pháp.
Muốn hiểu lập luận nói trên th́ nên so sánh Hiến pháp của nước Việt Nam
Cộng ḥa của miền Nam dân chủ và Hiến pháp của Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa
của miền Bắc CS. Nếu hai chữ Duy linh và Nhân vị đă đủ để giải thích bản
chất của Hiến pháp VN Cộng Ḥa, th́ hai từ ngữ Duy vật (Xă hội Chũ nghĩa)
và Đảng ngay trang đầu Hiến Pháp CHXHCN cũng quá đủ để giải thích bản chất
của Hiến pháp này.
Vốn chủ thuyết Duy linh Nhân vị là một lư thuyết lấy Chân lư lịch sử, lấy
Sự thật khoa học làm căn bản để giải thích mọi diễn tiến của xă hội con
người, cũng như nhận định con nguời (Nhân vị) như là một giá trị tuyệt
đối, ngang hàng với trời đất, tức nhiên Nhân vị của con người thành ra mực
thước đo lường các giá trị khác. Tuy nhiên Nhân vị c̣n phải có trách nhiệm
với cộng đồng, để đưa cộng đồng cùng đồng tiến. (Ba ngôi sao biểu hiệu của
CLNVCM đảng có nghĩa là nhân vị, cộng đồng, và đồng tiến).
Hiến pháp Đệ Nhất CH đă bảo đảm cho Quốc dân miền Nam được nhiều năm hết
sức an lạc: Kinh tế phát triển tốt đẹp dù phải nhận thêm gần 1 triệu di cư
chạy giặc CS từ miền Bắc, Xă hội được an b́nh, an sinh xă hội được bảo
đảm, Giáo dục được tổ chức có qui củ theo định hướng duy linh truyền thống
dân tộc, vừa tiến bộ theo trào lưu khoa học của nhân loại, Văn học được
nảy nở tưng bừng....
Đang khi đó th́ thuyết duy vật sử quan của CS lại lấy ảo tưởng (thiên đàng
XHCN) tức là sai lầm, cũng là gian dối, làm cứu cánh tối hậu cho xă hội,
để rồi lấy Đảng làm con đuờng hay Đạo để đưa tới cứu cánh. Tức nhiên Đảng
hay Đạo thành ra mực thuớc đo lường Đạo đức của con người, mà người CS gọi
là Đạo đức Cách mạng. Cho nên tất cả những hành vi, những hoạt đông của
con nguời, từ tiêu thụ đến sản xuất, từ giết nguời cướp của, từ đánh đĩ
hăm hiếp, tham nhũng gian lận… đến cả tố khổ cha mẹ, phản bội bạn bè anh
em… đến cả bán trăm ngàn đàn bà con gái trẻ con, bán nước, bán biển, miễn
sao có lợi cho Đảng, miễn sao củng cố được quyền lực của Đảng, tất cả, tất
cả đều là Đạo đức Cách mạng, đúng theo tư tưởng của HCM.
Cho nên Hiến pháp của CHXHCN, một bản luật tối cao của một nước hóa ra một
dụng cụ để phụng sự Đảng hơn là quốc dân, nếu có sự đối chọi giữa quyền
lợi của Quốc dân và quyền lực của Đáng th́ bắt buộc Hiến pháp phải luôn
luôn đứng về phía của Đảng, bất chấp đến tất cả những tiêu chuẩn công lư,
công bằng, phong hóa cao thấp lớn nhỏ hết. Kinh nghiệm điển h́nh là những
vi phạm hiến pháp trắng trợn của Nhà nước như đàn áp tự do ngôn luận, tự
do tư tuởng, tự do tin nguỡng… luôn luôn được Ṭa án chấp nhận một cách
dứt khoát như là hợp Hiến, hợp pháp, như là lẽ phải. Như thế việc chống án
là một việc illogic, một việc vô lư, không phải lẽ.
Kết quả tối hậu là một xă hội, một nước chỉ gồm có hai thành phần: Đảng
thành là Thiên chúa tối cao và Quốc dân thành ra tín hữu hèn hạ bất đắc
dĩ, cũng gọi là nô lệ. Tất cả tài sản hữu h́nh (đất đai, nhà cửa, cơ
xưởng…) và vô h́nh (trí thức nếu có, dư luận, cả tôn giáo…) lần lần trở
thành sở hữu của Đảng.
Hiến pháp của Việt Nam Cộng Ḥa đă trở thành một thế lực bảo đảm sự phát
triển xă hội của miền Nam trong cả hai thập niên (1955-1975), dù Hiến pháp
của Đệ Nhất Cộng Ḥa sau 02/11/1963 có bị thay đổi đi nữa th́ tinh thần
của nó vẫn c̣n tồn tại, chẳng những trong Hiến pháp Đệ nhị Cộng Ḥa, mà
c̣n dan díu bỏ chạy theo cả triệu thuyền nhân, để rồi thấm nhuần vào tâm
hồn của Cộng đồng người Việt hải ngoại tản mát năm châu bốn bể.
TT Ngô Đ́nh Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu.
Trên kia tôi có nói đến những biến cố lịch sử đă dọn đường cho sự xuất
hiện và thành h́nh VN Đệ Nhất Cộng Ḥa, với một ID có bản chất nhân bản rơ
ràng. Đó là một diễn tiến chính trị, đầy gian truân, đầy nghiệt ngă, đúng
là một trường hợp mang nặng, rất nặng, đẻ đau, và rất đau.
Qua diễn tiến của lịch sử, không cần dài ḍng, sau những sự kiện hết sức
phức tạp ghi trên, quí vị cũng nhận thấy ngay h́nh ảnh khi ẩn khi hiện,
nhưng luôn luôn bất khuất của một người Anh và của một người Em. Và Anh Em
Họ phải tài ba thế nào, phải dũng cảm kiên tŕ làm sao, mới khắc phục bao
nhiêu trở ngại khó khăn tày đ́nh, mới phá vỡ bao nhiêu mưu đồ bát quái, để
sau cùng sản sinh ra được một đứa con tinh thần ưu tú, khỏe mạnh, đến thế
nào mà xă hội VN của chúng ta mới có được những năm tháng (1956-1963) độc
lập, tự do, và hạnh phúc. Tất nhiên không hoàn hảo v́ giặc ngoài và nhất
là giặc trong... nhưng vẫn c̣n để lại được cho dân tộc, không riêng ǵ ở
miền Nam mà c̣n cho cả nước, một legacy, một di sản chính trị (độc lập &
tự do), văn hóa (chân lư & phóng khoáng), kinh tế (nhân bản & công b́nh).
Cái legacy này đă nảy sinh ra một cái tinh thần với bản chất quốc gia hay
dân tộc, mà người viết có kỳ vọng sẽ là động lực bất khuất để đoàn kết và
làm Cách mạng lật đổ một chế độ có bản chất hoàn toàn gian dối và sắt máu
Mác-lêninit.
Hôm nay là ngày mùng 8, tháng 11. Mới tuần trước
đây, hội "Ái hữu người Việt Quốc gia Hải ngoại" đă tổ chức Lễ giỗ cho hai
người Anh Em, TT Ngô Đ́nh Diệm và cố vấn Ngô Đ́nh Nhu và quan trọng hơn
nữa: Trên 30 Hội đoàn, Đoàn thể đă tập hợp hành lễ Truy điệu hai người Anh
Em tại công viên Tự do, Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, thành phố Westminster.
Trong các sách tôi viết về cái chết của hai nguời Anh Em này, luôn luôn
tôi có câu kết sau đây: Thương cho Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm và tiếc cho
ông Ngô Đ́nh Nhu!
Hôm nay tôi xin lập lại! Thuơng ở đây là thương khóc, khóc cho một con
nguời đầy đức độ, ái quốc mănh liệt, cả đời tranh đấu, kiên tŕ tranh thủ
cho Độc lập Quốc gia, cho Tự do Dân tộc, cho Hạnh phúc Đồng bào, đúng là
một vị Anh hùng dân tộc, một vĩ nhân của đất nước! Tiếc là thuơng tiếc,
thuơng tiếc cho một đầu óc uyên thâm, cho một hoài băo rộng lớn, cho một
viễn kiến cao sâu… mà trong ḍng lịch sử, dân tộc VN đă sản sinh ra, nhưng
được mấy người, thử hỏi?
Tôi được may mắn và danh dự gần gũi với hai người Anh Em nhiều tháng nhiều
năm, từ những lúc gian truân trầy trật. Trước ṭa án xét xử của lịch sử,
là nhân chứng trong nhiều nhân chứng cho hai người Anh Em, tôi tự cho ḿnh
luôn luôn trung thực.
Thành thật cám ơn tất cả quí vị!
|