50 năm Hải chiến Hoàng Sa: ‘Việt Nam Cộng Ḥa đă bị hy sinh’

 

Huyền Trân

 

 

Đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa năm 2016 - Getty Images

 

 

Từ Hoa Kỳ, Đại tá Carl Schuster lư giải v́ sao Việt Nam Cộng Ḥa bại trận trong Hải chiến Hoàng Sa 1974 và bài học lịch sử rút ra từ biến cố này.

 

“Tôi đă nhận thấy những dấu hiệu chắc chắn đầu tiên cho thấy nước Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Ḥa,” Đại tá Carl Schuster chia sẻ trong cuộc trao đổi với BBC News Tiếng Việt trước thời điểm 50 năm Hải chiến Hoàng Sa.

 

Ông Carl Schuster đă có 25 năm phục vụ trong Hải quân Mỹ. Ông từng cộng tác trên các tàu chiến và từ năm 1980 chuyển sang lĩnh vực t́nh báo hải quân, trong đó có vai tṛ chuyên viên phân tích hoạt động của Hải quân Trung Quốc.

 

Vị trí cuối cùng mà ông đảm trách trước khi rời quân ngũ vào năm 1999 là chủ nhiệm Pḥng Tác chiến thuộc Trung tâm T́nh báo hỗn hợp Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương.

 

Thời gian c̣n là chuyên gia phân tích t́nh báo, ông có thể tiếp cận các tài liệu được giải mật từ phía Mỹ.

 

Hiện ông đang giảng dạy quan hệ quốc tế, lịch sử và nhân văn tại Đại học Hawaii Pacific.

 

Tháng 6/2017, ông có bài viết “Cuộc chiến giành quần đảo Hoàng Sa” (Battle for Paracel Islands) gây chú ư trên tờ Vietnam Magazine.

 

Hạm đội 7 không hành động

 

Trả lời BBC News Tiếng Việt, Đại tá Schuster đă giải thích bối cảnh lịch sử xảy ra trận hải chiến khiến Việt Nam mất quần đảo Hoàng Sa vào tay Trung Quốc.

 

Theo ông, cần phải nhắc đến cuộc Cách mạng Văn hóa do Chủ tịch Mao Trạch Đông khởi xướng vào tháng 5/1966 và kết thúc sau khi ông qua đời năm 1976.

 

Trung Quốc đă trải qua một thập kỷ hỗn loạn với chiến dịch thanh trừng nhằm trừ khử các đối thủ chính trị của Mao trong nội bộ Đảng Cộng sản.

 

Hải chiến Hoàng Sa xảy ra vào thời điểm Cách mạng Văn hóa gần kết thúc và Đại tá Schuster đánh giá hải quân Trung Quốc khi đó “hầu như không thể ra biển”.

 

“Cách mạng Văn hóa hầu như đă khiến Trung Quốc đánh mất năng lực hậu cần. Do thiếu hụt phụ tùng, chỉ khoảng 10% số tàu của họ có thể đi biển và đa số gặp các vấn đề về trang thiết bị. Mao chỉ có thể dựa vào dân quân biển.”

 

“Đây là những nhóm bán quân sự, được bộ phận quân huấn huấn luyện chút ít và có thể nhận lệnh từ Hải quân. Thời điểm đó, lực lượng dân quân biển đă bắt đầu hoạt động quanh quần đảo Hoàng Sa,” ông nói.

 

Ông đă nhắc lại việc Mỹ và Trung Quốc “bắt tay để hy sinh” Việt Nam Cộng Ḥa trong trận hải chiến như thế nào và ông đánh giá Chủ tịch Mao Trạch Đông “hiểu lúc bấy giờ Mỹ không có ư chí chính trị để bảo vệ Việt Nam Cộng Ḥa”.

 

“Khi t́m hiểu kỹ Hải chiến Hoàng Sa, tôi nhận thấy những dấu hiệu chắc chắn đầu tiên cho thấy nước Mỹ đă bỏ rơi Việt Nam Cộng Ḥa.”

 

“Các tàu chiến Nam Việt Nam đă gửi yêu cầu trợ giúp đến Hạm đội 7. Nhưng Hạm đội 7 được lệnh không can dự ǵ với Trung Quốc. Thế nên Hạm đội 7 đă từ chối.”

 

H́nh ảnh Hạm đội 7 của Hoa Kỳ vào năm 1968 khi chuẩn bị các cuộc không kích nhằm vào Bắc Việt - Getty Images

 

Theo thông tin từ Hạm đội 7, trong Chiến tranh Việt Nam, hạm đội này thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu như điều máy bay không kích, bắn yểm trợ, đổ bộ, tuần tra và tác chiến sử dụng ḿn.

 

Sau Hiệp định Paris 1973, Hạm đội 7 thực hiện các hoạt động chống ḿn trên vùng biển gần bờ ở Bắc Việt.

 

“Không có sự hỗ trợ của Mỹ, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa phải đánh cận chiến nhưng binh lính lại không được huấn luyện tốt, kỹ năng tác xạ rất kém. Họ chịu tổn thất lớn và nhiều binh sĩ bỏ mạng. Nam Việt Nam để mất nhóm đảo Lưỡi Liềm và nước Mỹ đă không phản đối,” ông nói với BBC.

 

Có 74 quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa tử trận khi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra vào ngày 19/1/1974.

 

Ông Schuster đánh giá rằng nếu Hạm đội 7 có mặt th́ t́nh h́nh đă khác. “Nhưng do đă hứa [với Trung Quốc], nước Mỹ chọn đứng ngoài cuộc,” ông nói.

 

 

Vai tṛ của Kissinger

 

Đại tá Schuster cũng đề cập đến vai tṛ của Henry Kissinger, người giữ chức Ngoại trưởng Mỹ giai đoạn 1973 - 1977 và Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Richard Nixon từ năm 1969 đến tháng 11/1975.

 

Với vai tṛ Cố vấn An ninh Quốc gia và Ngoại trưởng, ông này đă theo đuổi mạnh mẽ chính sách ḥa hoăn (détente), giúp làm tan băng quan hệ giữa Mỹ với Liên Xô và Trung Quốc.

 

Ngày 9/7/1971, Henry Kissinger đă gặp Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai để sắp xếp chuyến viếng thăm lịch sử đến Bắc Kinh của Tổng thống Richard Nixon vào tháng 2/1972.

 

Tài liệu giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ về cuộc trao đổi giữa ông Kissinger với Đại sứ Hàn Tự, Quyền Trưởng Văn pḥng liên lạc Trung Quốc, có ghi rơ đoạn này. Cuộc nói chuyện diễn ra tại Washington vào ngày 23/1/1974, tức chỉ vài ngày sau Hải chiến Hoàng Sa.

 

“Nước Mỹ không ủng hộ Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với những đảo này. Tôi cũng muốn nói rơ điều đó,” Kissinger trấn an Hàn Tự.

 

Phát biểu tại Thượng đỉnh Chiến tranh Việt Nam tại Thư viện LBJ ở Austin, Texas vào ngày 26/4/2016, ông Kissinger cũng nói Hoàng Sa không quan trọng bằng các vấn đề khác vào thời điểm ấy.

 

Ông Kissinger đă trả lời như sau trước câu hỏi từ một nhà báo VOA rằng có phải Hoa Kỳ đă đồng ư để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa vào năm 1974 hay không:

“Lập trường của Mỹ liên quan đến quần đảo ấy là chúng tôi không giữ lập trường về chủ quyền đối với những đảo này. Vào năm 1974, trong tâm điểm vụ Watergate và cuộc chiến ở Trung Đông, tôi có thể nói rơ với quư vị là quần đảo Hoàng Sa không phải là ưu tiên trên hết trong tâm trí chúng tôi. Nhưng không có thỏa thuận nào được kư mà trong đó chúng tôi trao quyền cho Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa cả, người Trung Quốc cũng chưa từng tuyên bố như vậy.”

 

Henry Kissinger đă giữ chức Ngoại trưởng Mỹ giai đoạn 1973 - 1977 và Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Richard Nixon từ năm 1969 đến tháng 11/1975 - Getty Images

 

B́nh luận về vai tṛ của Kissinger, Đại tá Schuster nói, “Chúng ta không biết được Kissinger đă đưa ra những đảm bảo ǵ v́ ông ấy không bao giờ thừa nhận. Kissinger nhận ra rằng Quốc hội Mỹ sẽ không ủng hộ việc tiếp tục nỗ lực chiến tranh và tâm lư của dân Mỹ khi đó là hăy chấm dứt tổn thất và thoát ra.”

 

“Tôi nghĩ Mao Trạch Đông nắm được điều đó. Ông ta không phải là một nhà chiến lược quân sự giỏi nhưng ông ta hiểu lúc bấy giờ Mỹ không có ư chí chính trị để bảo vệ Việt Nam Cộng Ḥa. Hăy nhớ rằng Kissinger đă bỏ rơi Đài Loan bởi ông ấy nghĩ Mỹ cần một Trung Quốc mạnh để đối phó với Liên Xô.”

 

“Và kết quả là chính quyền Nam Việt Nam đă bị hy sinh cho mục tiêu lớn hơn của Kissinger, cho việc thiết lập một Trung Quốc thịnh vượng và mạnh mẽ mà Kissinger cho rằng sẽ trở thành đồng minh của Mỹ trong thế kỷ 20,” Đại tá Schuster nói.

 

 

Huyền Trân

BBC News Việt Ngữ

15 tháng 1 2024

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính