Có những nhà văn như thế đấy!
Hồ Anh Thái, sinh năm 1960 tại Hà Nội, là một “nhà văn đương thời” của Việt Nam, từng là “chủ tịch Hội Nhà Văn” Hà Nội trong ṿng 10 năm, tác giả của gần 30 tác phẩm và đoạt bốn giải thưởng “nội địa.” “Ông được xem thuộc thế hệ nhà văn thời hậu chiến và là một nhà ngoại giao, tiến sĩ Văn Hóa Đông Phương, hiện giữ chức vụ phó đại sứ Việt Nam tại Iran”.
Nói về Hồ Anh Thái, Anh Chi, trong “tạp chí Nghiên Cứu Văn Học” Hà Nội đă ca tụng: “Bây giờ nh́n nhận hiện tượng văn chương Hồ Anh Thái, chúng tôi nghĩ, anh đă và đang tiếp tục sáng tác những tác phẩm chứa đựng nhiều phẩm chất văn hóa,” hay “... “Với lao động sáng tạo liên tục và mang tính chuyên nghiệp, anh đă thể hiện bản lĩnh của một nhà văn hàng đầu ở Việt Nam trong thời đại văn chương nước ta hội nhập với văn chương thế giới!” Nói chung Hồ Anh Thái được ca tụng như một “nhà văn lớn, có tầm cỡ quốc tế” của Việt Nam.
Như vậy, khi Bắc Việt chiếm miền Nam, Hồ Anh Thái mới 15 tuổi, chưa đến tuổi ra trận, trước 1975 chỉ mới là loại thiếu nhi khăn quàng đỏ, đánh trống ếch và thuộc ḷng “ai yêu bác Hồ Chí Minh bằng các em nhi đồng,” bị nhiễm độc bằng lối tuyên truyền xảo trá “Mỹ đang xâm lược miền Nam và lính ngụy là bọn ăn thịt người”. Thời nhỏ, có thể Hồ Anh Thái mục kích cảnh máy bay Mỹ dội bom xuống Hà Nội, thấy lửa cháy và những cái chết, muốn trở thành nhà văn, nhưng nếu muốn viết về chiến tranh, phải cần có kinh nghiệm sống, hay học hỏi, nghiên cứu, chứ không phải qua những câu chuyện kể của những người đi xâm lược miền Nam trở về sau ngày 30 Tháng Tư, 1975.
Khi đă trở thành người “thắng cuộc”, ai cũng là “anh hùng”, người lính có bao nhiêu điều “phấn khởi”, hả hê, khoác lác để kể chuyện cho bọn trẻ đang ngóng tai nghe. Một trong những đứa trẻ ấy lớn lên trở thành một nhà văn viết về chiến tranh, mà kinh nghiệm sống là chỉ cần nghe những kẻ bốc phét, hoang tưởng, kể lại những chuyện không có được một phần ngh́n sự thật.
Câu chuyện “lính ngụy ăn gan người, uống máu” có lẽ đă được mô tả trong nhiều tác phẩm của các nhà văn miền Bắc trong và sau chiến tranh, chỉ với mục đích gây ḷng căm thù cho quần chúng, nhưng nhà văn mới lớn sau 1975, Hồ Anh Thái đă đi quá đà, thêm câu chuyện “moi gan, ăn tim bằng cách mô tả lính ngụy “quay” tử thi Việt Cộng”, rồi “róc thịt uống rượu!” như sau: “Hai ngày sau bọn địch phản công. Cả trung đội ḿnh bị bằm nát. Thằng Thiết bị đạn găm đầy ḿnh, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp c̣. Bọn ngụy ào lên như lũ quỷ, quyết bắt sống thằng Thiết. Như sau này anh em trinh sát kể lại, chúng quay thằng Thiết như quay một con lợn rồi róc thịt uống rượu trả thù cho đồng đội.”
Trong một cảnh khác, “lính ngụy không quay Việt Cộng như quay heo, mà chỉ nổi lửa để nướng tim, gan ăn tại chỗ, đặc biệt trí tưởng tượng của nhà văn bắt đầu đi đến chỗ điên khùng khi viết: “Hai hột tinh hoàn th́ được phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn.”
“...Cuối cùng, điều Hoa không ngờ đă tới. Cô chỉ nghĩ rằng bọn thám báo sẽ lôi Hùng đi làm tù binh để tiếp tục lấy khẩu cung. Nhưng thằng cầm con dao găm của anh đă cúi xuống rạch một đường thành thạo trên bụng Hùng. Anh quằn quại hét lên một tiếng rùng rợn. Ở trên cao, Hoa nghiến chặt răng gần như ngất đi. Hai thằng kia đè chặt chân tay Hùng cho thằng mổ bụng moi tim gan ra. Chúng nổi lửa nướng tim gan ăn ngay tại chỗ. Hai hột tinh hoàn th́ được phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn.”
Hồ Anh Thái có thể chỉ nghe kể lại qua một nhân vật “ngôi” thứ ba, với chuyện “lính ngụy quay người, moi tim gan uống rượu”, nhưng với Dương Thu Hương, như lời người kể chuyện thật với nhân vật “chúng tôi” nói về “lính thám báo miền Nam, hiếp dâm, xẻo vú và cửa ḿnh thanh nữ xung phong miền Bắc: “...Chúng tôi hướng vào góc rừng đă tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực cô hồn, gặp sáu cái xác truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa ḿnh bị xẻo, ném vung văi khắp đám cỏ xung quanh.
Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi kiểu lá sen tṛn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đấy là những người con gái miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một binh trạm hoặc một đơn vị thanh niên xung phong cơ động nào đó bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo.
Chúng đă hiếp các cô tàn bạo trước khi giết! Những cái xác bầm đập méo mó! Da thịt con gái nơn nà tươi thắm vậy mà khi chết cũng thối rữa y như da thịt một lăo già phung lở hay một con cóc chết!” (tiểu thuyết Vô Đề)
Phải chăng v́ “bọn ngụy ác độc, man rợ” như vậy nên miền Bắc có quyền vẽ lên h́nh ảnh “người lính cụ Hồ” đáp lễ với những cách người hả hê, khát máu, để làm gương cho cả một thế hệ sôi sục v́ căm thù: “Quân ta ào lên, bắt giết, đâm, giẫm đạp. Một mụ ngụy cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn ḿnh bốc lên ngùn ngụt trong ngực ḿnh. Ḿnh găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa tắt hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng ngụy bị ḿnh xọc lê vào bụng, nghe ‘thụt’ một cái. Ḿnh nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một ṿng, gồng ḿnh giăy chết như con tôm sống bị ném vào chảo m...ỡ.” (Tạ Duy Anh, “Đi T́m Nhân Vật,” tiểu thuyết, NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2002.)
Tôi ở miền Nam, không biết ngoài mặt trận “con ngụy cái” này là ai, v́ chúng tôi không có nữ quân nhân tham chiến, không lẽ đây là một người đàn bà trong ngôi làng, một cán bộ Xây Dựng Nông Thôn để lính Bắc Việt trút hết nỗi căm hờn và thỏa măn thú tính lên cao độ như thế, một con chó cắn người hay một con cọp vồ mồi cũng không “thú” hơn” là chất “thú” của một người lính Việt Cộng?
- “Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế!”
Ở ngoài mặt trận, không giết người th́ người giết. Nhưng giết người mà thấy khoái cảm th́ nhân loại chỉ thấy có người lính Cộng sản Bắc Việt. Ngay cả ISIS cắt cổ người cũng không có cái hả hê như thế! Tạ Duy Anh c̣n không che đậy, nói rằng “niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn ḿnh bốc lên ngùn ngụt trong ngực ḿnh!” Th́ ra thế là đấu tranh, không phải tạo hạnh phúc cho người khác, mà là nếu họ hạnh phúc hơn ḿnh, hăy giết hết họ, chẳng qua v́ ḷng ganh ghét.
Đó là nguyên nhân rơ ràng của “cải cách ruộng đất,” v́ họ giàu hơn ḿnh, của “thảm sát Mậu Thân,” v́ họ sướng hơn ḿnh.
Với Tạ Duy Anh “giết người thấy sướng,” đối với Dương Thu Hương “với khoái cảm không che đậy”: “...Hùng thường nghĩ ra những cách giết người đặc sắc trong các trận giáp lá cà. Và gă kể lại cho đồng đội nghe với khoái cảm không che đậy. Kẻ th́ gă xọc lê từ họng xuống tim, kẻ gă chọc từ nách bên phải qua bên trái, kẻ gă lại đâm từ hạ bộ ngược lên ở bụng. Kỳ thú nhất là một lần đánh ấp, gă ḅ vào pḥng riêng một tên sĩ quan ngụy, chờ tên này dính chặt với cô vợ trắng phôm phốp của y như một cặp cá thờn bơn, gă mới phóng lê từ trên xuống. 'Một xọc xuyên hai, bảo đảm là sướng mắt...'“ (TTVĐ- chương 11)
Một sự thèm khát đầy dục vọng, ở đây Dương Thu Hương rất giống Tạ Duy Anh hay Tạ Duy Anh rất giống Dương Thu Hương, ở chỗ “niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn ḿnh bốc lên ngùn ngụt trong ngực.”
Đó là chưa nói đến chuyện bừa băi, vô lư trong t́nh tiết một tên bộ đội ḅ “vào pḥng riêng một tên sĩ quan ngụy,” “bị đạn găm đầy ḿnh, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp c̣,” thám báo “hoạt động trong ḷng địch mà nổi lửa quay người hay hiếp dâm, xẻo vú!”
Chuyện căm thù, dă man của người lính miền Bắc đă để lại trong một câu chuyện có thật, đó là cái chết của nhà văn Y Uyên, người sĩ quan của TK B́nh Thuận năm 1966.
“Trên thân xác của Uy, khi chở về quân y viện, có những dấu đạn thừa, những dấu dao vô lối. Những dấu đạn, vết dao không thể cắt nghĩa được. Nếu không phải là chúng có từ những thù hận ghê gớm, những chất ngất căm hờn, th́ không thể làm sao t́m ra lư do giải thích sự hiện diện của chúng trên thân h́nh một người đă chết.”
Tôi xin nhường sự phê phán ấy cho một nhà văn miền Nam: “Tôi không hiểu bằng cách nào, trong cuộc chiến tương tàn, ṛng ră hơn 20 năm này, những người lănh đạo Cộng Sản đă dạy cho binh lính của họ như thể nào để ḷng thù hận chất ngất mênh mông đến thế? Tôi chấp nhận những viên đạn thứ nhất là hợp lư - Ừ, th́ cứ cho là hợp lư. Nhưng những viên đạn bắn bồi, những nhát dao đâm thêm trên một xác thân đă chết là những viên đạn, những nhát dao không thể cắt nghĩa, không thể chấp nhận được. Những người Cộng Sản Việt Nam đă làm những điều dă man như thế, khởi đi từ ḷng thù hận, từ sự cuồng tín.” (“Núi Tà Dôn và Dấu Chân Uy” của Lê Văn Chính -Tạp Chí Văn, số 129, phát hành ngày 1 Tháng Năm, 1969).
Bốn mươi năm đă trôi qua, bây giờ người ta đang nói chuyện “ḥa hợp ḥa
giải,” “khép lại quá khứ,” nhưng sau 40 năm cũng là lúc đă nh́n rơ mặt
nhau. Có những nhà văn như thế đấy! Nếu có một cuộc xét lại, những nhà văn
miền Bắc sẽ nghĩ ǵ về những tác phẩm hoang tưởng như thế? Và dù sao th́
nó cũng đă để lại những vết dơ của “nền văn hóa XHCN”, c̣n ảnh hương lâu
dài đến những nhận thức của những lớp người mới lớn lên sau khi Sài G̣n
đổi tên. Để kết luận bài này tôi xin ghi lại những câu thơ đầy lương tri của miền Nam viết trong chiến tranh:
“...Xem chiến cuộc như tai trời ách nước. Ta bắn trúng ngươi v́ ngươi bạc phước V́ căn phần ngươi xui khiến đó thôi.” (Nguyễn Bắc Sơn)
“...Trời ơi, những xác thây la liệt Con ai, chồng ai, anh em ai?” (Tô Thùy Yên)
Huy Phương |