Đà Lạt: Cuồng loạn dưới hầm Nhà Dòng Domain de Marie

 

(nhớ về Tết Mậu Thân 1968)


Nguồn: Hội quán Phi Dũng

 


Mấy con kiến dương, con cánh cam từ đâu bay vù vào tầng hầm đã bị bể những ô kính, chúng liệng đi liệng lại vài vòng, rồi đâm sầm vào vách tường đá, nghe cái “cộp”. Chúng cố tìm chỗ thoát ra ngoài, nên bò đi bò lại trên vuông cửa bể, lớp vỏ cứng bóng láng, ánh lên màu xanh biếc, lẫn màu cánh cam lóng lánh xoè ra, phủ hai cánh bên trong mỏng te, có nhiều sợi gân nổi trên lớp vỏ mềm mại khép dần, rất duyên dáng hài hòa. Ngày xưa ấy, tôi ưa ngồi dựa lưng vào cây thông chạc hai, chạc ba, để rình bắt cho bằng được con cánh cam, và bụm nó ở trong hai bàn tay, khum khum mà nương nhẹ, nâng niu. Tôi đung đưa đôi chân trên thân cây thông lùn, thân cây thông tách chẽ ra làm đôi. Tôi nhìn lên bầu trời xanh lồng lộng gió, nhìn chiếc máy bay lượn trên cao, tôi hy vọng hão huyền, vui vẻ hát nho nhỏ những bài tình ca, khi hai bàn tay tôi đan áo thật đều, thoăn thoắt, lướt nhanh trên cây kim mà chẳng thèm nhìn.


Nay có nhiều phi cơ không nhìn thấy rõ vụt bay trên bầu trời, qua khung kính bể dưới vòm mái cao. Thì, câu chuyện hứng khởi về các kỳ công, thành tích của chiến binh giàu kinh nghiệm chiến trường, thường là đề tài bàn thảo đầy hấp dẫn, hứng thú, nuôi dưỡng trong lòng người dân đen niềm sung sướng, hứng khởi và kiêu hãnh khác thường. Chúng tôi đang ăn không ngồi rỗi ở dưới tầng hầm nầy. Những chiếc phi cơ thi nhau gào rú trên bầu trời, khẩu minigun sáu nòng có 4,000 viên đạn đang vút bay ra khỏi nòng, nhấp nháy chỉ vài phút, khiến lòng tôi càng nôn nao, bồn chồn, cuống quít, lo lắng, sợ hãi xiết bao khi hôm nay trời đổ mưa tầm tã, mưa trái mùa suốt từ trưa tới chiều, hạt mưa xiên xiên to tròn nặng hạt rơi lộp độp trên mái ngói mãi hoài không dứt, gió lồng lộng thổi vun vút theo dọc hai hàng hiên. Đời có lắm chuyện tôi không hiểu. Không thể hiểu nỗi. Quá khứ rồi sẽ giống như cánh cửa sắt nầy đóng chặt lại sau lưng tôi. Rồi cũng giống như thau nước hứng mưa dột dưới góc nhà vừa bị sập. Tôi đã cong cong lưng bưng thau nước đầy sóng sánh bóng mình trong thau, nhanh nhẹn bước ra hiên nhà, tôi hắt mạnh nước vào màn mưa đục ngầu, cho nó hoà tan trong mưa, mất hút, như hắt cả hiện tại và tương lai lui về với quá khứ muộn phiền.


Từ lúc có “bọn giặc” về, mỗi ngày chúng tôi phải bồng bế con, cùng nhau đi ngang qua tiểu đoàn lính trấn thủ thị xã Đà Lạt, tôi ngẩng nhìn anh hiệu thính viên giữ máy truyền tin AN/PRC 25 đang liên lạc giữa Tiểu-đoàn và Đại-đội. Các chiến sĩ có người cài lựu đạn M26, mang súng colt 45, có người mặc áo poncho đang mở nắp bi đông uống nước, vác khẩu M16. Bên chiến xa M48 trọng pháo cơ động họ nằm lăn lóc trên các nẽo đường, dưới ngọn đồi chiếm đóng, trên cành cây còn ngái ngủ. Người choàng áo ca pốt ngồi sưởi lửa, hong đôi bàn tay sạm nắng trên bếp than hồng từ những trái thông khô xẹt tia lửa ly ti nổ tí tách. Cành lá thông tươi chất thêm vào lửa, tỏa ra mùi nhựa thông thơm hăng hắc, nhưng thật dễ chịu. Họ hong lửa mong xua tan bớt gió rét. Giá lạnh ban mai làm tê cóng người lính phong sương dãi dầu mưa nắng. Bản tính chiến sĩ đa số thích phóng khoáng, tự do, hăng hái, nhiệt thành, nhất là trọng danh dự và bổn phận trách nhiệm.

 


Thời gian lạnh lùng nghiệt ngã trôi qua, họ không tính bằng gian lao cay cực, khó nhọc, hạnh phúc hay hoài bão, ước vọng. Dù mùa Hạ tới, Thu đi, Đông về, Xuân đến... Thời gian lạnh lùng trôi qua, đời chiến sĩ phong sương, dãi dầu nắng gió khuya chiều, không gian bàng quan chả nương nhẹ đôi tay: dù phũ phàng, cay nghiệt, và buốt giá. Niềm nhớ thương da diết mỗi lúc một hao gầy trong đớn đau thầm lặng. Khóe mắt lính choáng đọng huyết lệ bi ai cảnh chiến tranh quyết liệt. Chiến sĩ ấy chấp nhận chết ngoài sa trường vì quê hương, vì dân tộc, thì có sá gì cái lạnh rét run run ngoài da. Nhưng chiến sĩ ấy đã chết lịm trong lòng, vì cảnh huyết nhục tương tàn thật vô nghĩa trước tiên do bọn khát máu “đều têu” gây ra.


Lần đầu tiên, vấp phải sức kháng cự không tương xứng với đối phương, các chiến binh không dám ra tay càn quét cộng quân. Bởi vì, nơi vùng sẽ giao tranh tại khu Số 6 và khu Số 4 nầy, còn kẹt lại khá nhiều người dân vô tội trong tầm tay kềm tỏa. Khiến anh lính chiến có chiếc nón sắt rộng, thỉnh thoảng úp xuống tận mũi, che cả cằm đến nồng ngộp nghẹt thở, hơi mỏi mệt, ngỡ ngàng, và bồn chồn xôn xao bâng khuâng làm sao ấy. Lính nằm ngửa trên đám cỏ bồng chờ đợi quyết định của chính phủ, anh bực tức, vác súng đi lui đi tới, bồn chồn đứng ngồi không yên. Người lính chiến biết nghe đạn xoáy rít bên mang tai ù ù, mà không có mũ sắt đội đầu thì đời đi đong. Anh biết bổn phận làm trai phải trả nợ núi sông. Lính gồm đủ mọi thành phần phong tục khác nhau, đã sống trên miền đất quê hương khác nhau, với hoàn cảnh gia phong và ước muốn càng khác xa nhau hơn. Họ lũ lượt kéo nhau lên đây quyết giữ gìn thành phố Đà Lạt nho nhỏ xinh lịch nên thơ, và quê hương Việt Nam khỏi cảnh xâm lược nghịch lý hung tàn.


Khi vấn đề chiến tranh thật sự phức tạp, làm điên đầu các vị nguyên thủ quốc gia. Người khôn ngoan (của người khôn ngoan nhất), bình tĩnh sáng suốt, có lập trường dứt khoát, kiên định, cần giành lại từng tất đất, từng thành phố. Tất nhiên họ nhanh chóng đánh đuổi “bè lũ khát máu” đi khuất dạng (mỉa mai thay người dân da vàng mũi tẹt, đầu đen máu đỏ, sống từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau). Nay từ phương Bắc họ chuyên mò mẫm, xâm phạm qua vĩ tuyến 17, để xâm lăng phần đất của miền Nam Việt Nam. Gây nên cảnh chiến tranh tàn khốc, chém giết. Nồi da xáo thịt quá kinh hoàng thế nầy ư! Dân chúng nhìn chiến cuộc xảy ra rất gần, với vẻ tò mò nhút nhát, hiếu kỳ không chịu nỗi. Phải! Bên muôn nấm mồ tàn rụi hương nhang, là sự gặp gỡ giữa trùng trùng lớp lớp khuôn mặt lạ xa, hiện diện trong cuộc chiến phức tạp quá cay đắng. Lính Cộng Hoà miền Nam Việt Nam mang đến cho ta sự hy vọng và niềm tin yêu. Hy vọng bừng sáng, nụ cười rộng mở, ước mong an bình, thư thái, ôn hòa, từng ngày, từng giờ, lẫn trong chung cuộc sớm kết thúc. Dù chắc chắc cuộc sống không hứa hẹn an thư dễ chịu chút nào.


Bất dâng cao sơn, bất tri thiên chi cao.

Bất lâm thâm cốc, bất tri điạ chi hậu

(không lên núi cao, không biết trời cao đến mức nào.

Không xuống hang sâu thì không biết đất dày) (Tục ngữ)

 


Ngoài dãy hành lang của khu bệnh viện Đà Lạt, người người tới tấp tha bùn sình, bê bết đất đỏ bẩn thỉu lê vào trên thềm nhà thương, nền xi măng ướt nhẹp nước mưa bì bỏm, lủng bủng, tanh tanh. Chúng tôi không thể ngủ nhờ ở góc hành lang, đành phải “làm mặt mo” xách chiếu mền lết bết, lội đồi cỏ trũng nước mưa băng qua đường Trần Bình Trọng, để xin vô ngủ nhờ trong tầng hầm nhà dòng Domain. Vừa chân ướt chân ráo lọt vào được trong khu tầng hầm, tôi mệt mỏi đứng thẫn thờ nhìn quanh. Chưa tìm thấy có chỗ nào còn trống, thì hai cánh cửa lớn kiên cố dẫn vào hội trường sau lưng tôi bị ai đó đóng ập nhanh lại, khóa chặt. Người giữ chìa khóa đã lủi vào trốn núp trong nhà dòng. Ông ta nhát hơn cáy! Do các bà dòng không muốn chứa thêm người lạ, các bà sợ “bọn lạ” trà trộn vào ẩn nấp, sẽ thừa cơ hoạt động bí mật chăng?


Ba khu tầng lầu của nhà dòng Domain: tất cả cửa sổ nhà thờ có những bức ảnh kính màu thủy tinh trang trí hình tuyệt đẹp, đều vỡ nát, rơi loảng xoảng khắp mọi nơi, rơi xuống tận khu tầng hầm. Từ dưới mặt đất của tầng hầm khu Domain ngó lên hàng cửa kính, (cao khoảng chừng bốn năm mét), tường đá phẳng lì, không có thể với tay lên hàng cửa sổ nhỏ ở tít chóp trần trên cao. Dù mấy tay đàn ông cao lớn kia đã chồng chất ba cái bàn, họ hy vọng trèo lên đó, dáo dác nhìn ngó lung tung ra bên ngoài, thăm chừng. Người ta và nhất là tôi vô cùng hối hận, vì tại sao ta không tìm nơi thuận tiện; hay mình tự đào hầm đào hố ở nhà riêng, mà ẩn nấp cho an toàn? Hoặc trốn núp tại tư gia nhà ai có hầm hào kiên cố. Có phải là hơn không, mà dồn cục một chỗ đông người như kiến. Mình tự chui vào cái hầm nhốt người kín bưng khổng lồ kinh khủng nầy, chẳng khác chi tự đem thân vô cửa tử.


Dưới tầng hầm thì người đạo Thiên Chúa đang lâm râm đọc kinh cầu nguyện, sám hối, đấm ngực ăn năn tội thống thiết. Đạo Tin Lành úp mặt trên hai bàn tay, run rẩy đọc kinh thánh. Phật Giáo niệm Phật, tụng kinh cầu khẩn Đức Phật Thích Mô Ni Ca rất chân thành. Cao Đài, Hòa Hảo bi thiết gọi tên Trời Phật, gọi tên các giáo chủ. Trong nguy cơ bị hủy diệt tập thể thì lành ít dữ nhiều, người ta không phân biệt giàu nghèo, đảng phái, tôn giáo. Vì tôn giáo nào cũng khuyên con người hướng thiện, luôn làm lành lánh dữ, chia sẻ, dùm bọc, bác ái, yêu thương. Tôn giáo cũng như gia đình là nền tảng của xã hội: có nề nếp gia phong, có tôn ty trật tự, biết tôn trọng tự do và nhân phẩm. Giờ phút thập tử nhất sinh gần kề cửa tử thần, họ tự động mở rộng vòng tay thân ái, ngỏ hầu chia sẻ, tìm đến với nhau, mong vơi hận sầu, thân thiết ôm chặt nhau, tựa vào nhau vỗ về an ủi. Họ thành tâm khẩn cầu van vái xin bình an rót xuống mọi nơi, nồng nhiệt kêu xin ơn Trên hãy ra tay cứu giúp tất cả mọi người.


Bây giờ là 12 giờ trưa, trên trời trực thăng luôn bay lượn ì ầm, loa phóng thanh liên tục gọi đồng bào nhanh chóng tìm nơi ẩn nấp an toàn, vì tụ điểm giao chiến kịch liệt sẽ là chung quanh khu vực nhà dòng Domain de Marie. Ôi Trời ơi! Vậy chết là cái chắc rồi! Non giờ sau… Không thể tưởng tượng nỗi khi lựu đạn ì ì ầm ầm nổ, súng lớn, súng nhỏ rào rạo bay. Đạn vun vút vèo vèo, bay xuống, bay lên, bay qua, bay lại: Đùng đùng đùng… Pằng pằng pằng… Róc róc róc… Ùm ùm ùm… Oằng ùm… bay tới tấp trên đỉnh đầu người dân đang ẩn nấp dưới tầng hầm cuả ngôi giáo đường kiên cố, ép lồng ngực mọi người như vỡ tan ra từng mãnh. Ngoài sân nhà dòng đã có tàn quân “Vi ci” nép bên hông trên nhà dòng đang cố tìm đường trốn chạy tháo thân về khu Số Bốn. Thỉnh thoảng mấy tay ấy chĩa súng lên trời bắn vài chiếc phi cơ trực thăng, bắn lép tép cắt cắt… bụp bụp… xè xè… từng phát súng nhát gừng nổ vu vơ. Qua trần kính tôi thấy rõ trực thăng bay ầm ầm và tràng đại liên tóe lửa nổ rền rất to. Phi cơ đang lượn qua lượn lại vòng vòng quanh nóc nhà thờ Domain . Những viên xạ thủ đeo mặt nạ mặc áo giáp ngồi trên ghế chiã họng súng xuống đất, khạc từng tràng rocket róc róc róc… xíu xíu… xít xịt… Dù ban ngày mà toé lửa qua họng sung đỏ lòm, đạn vùn vụt bay xuống hông nhà thờ. Vô cùng chát tai rùng rợn kinh khủng!


Thế là trong tầng hầm người ta đồng loạt nhốn nháo, hỗn độn, bừng bừng dâng cao nỗi lo sợ tột cùng: Già trẻ lớn bé đều rú to, kêu khóc inh ỏi, không chừa một ai. Tiếng la, khóc, gào, kêu cứu, rên rú, hét tướng lên to hết biết. Người ta dồn chặt cứng vào một góc chật như nêm, rồi đùn lại với nhau ở cuối tường hầm nhà đá. Họ dày xéo lên nhau, dẫm đạp lên nhau, bất kể người khác tắt thở, chết ngạt. Vài ngàn người dồn cục trong góc kẹt vách, họ đè nhau bẹp dí thành một đống, chồng chất lên nhau tại một chỗ. Người ta không còn liêm sĩ, chả cư xử nhã nhặn làm gì. Mặc xác! Người nào đang đứng ở bên ngoài, thì cố dằng kéo người đứng ở giữa ra, để họ chui tọt vào giữa đám đông mà ẩn nấp, cho an toàn chính thân, cần riêng bản thân ta an toàn thôi. Nơi xó xỉnh ngột ngạt tối mờ khói thuốc súng, họ không muốn súng đạn nhìn thấy. Chỉ cần súng đạn bom mìn và Việt cộng trên kia đừng nhìn thấy mình. Bản năng tự phát cần tự bảo vệ sinh tồn là điều tiên quyết, nếu có ai đối xử với đồng loại tàn nhẫn, có tỏ ra thô lỗ, hỗn loạn đến bàng hoàng, cũng đành. Mặc kệ. Là đủ. Ai ai cũng sợ súng đạn hơn cả mọi thứ trên đời! Lạy Trời xin tha thứ. Ấy thế mà súng đạn vô tình cứ bắn càng lúc càng rát bỏng, tai ù ù, điếc đặc. Rồi đạn cay, đạn ói, đạn khói, đạn mữa, khói thuốc súng, lựu đạn hoả mù tuông theo các khung cửa sổ bể tới tấp bay vào dưới tầng hầm.


Tại tầng hầm nầy không có người kinh nghiệm trong chiến tranh để hướng dẫn, vã lại giờ nầy không ai chịu nghe ai chỉ huy, mạnh ai nấy bon chen, hầu mong sống còn với đời. Đoàn người tị nạn hỗn độn hết biết (như bầy gà vịt nhốn nháo, bay lung tung, kêu quang quác khi con sói đến cửa chuồng). Nước mắt nước mũi ai ai cũng chảy tùm lum tà la. Họ ói mửa nôn ọe, hỉ mũi sột sột lên đầu lên cổ nhau. Thật kinh khủng và kinh tởm vô cùng. Tôi thật giận Lâm, hôm ấy tự dưng anh nổi sùng đấm bể một ô khung cửa kính làm chi, anh trét máu cục đông cứng trên miếng kính bể, còn đó; vô tình anh đã làm “đầu têu” làm gì, mà bây giờ mọi cửa kính cuả nhà dòng Domain đã vỡ toang, mùi khét cuốn theo chiều gió bay vào, càng hôi kinh khủng vậy!? Cạnh đống đồ đạc ngổn ngang trong tầng hầm có từng dòng máu tươi của ai đó trây trét bừa bãi; cũng do những bàn chân ai đó vừa đạp lên mãnh kính vỡ, họ tha lê lết đi khắp mọi xó, máu tươi loang ra, loang ra... trộn với nước đái và phân trẻ con ị vãi ra bừa bãi. Người ta lớn giọng la hét, tru hú, rú rên, khóc hụ hụ hụ từng cơn. Nghe rùng mình dựng đứng tóc gáy.


Bỗng cánh cửa chính (khu nhà hầm có hai lớp cửa sắt chắc chắn) là cửa ngoài của khu từng hầm bằng sắt dày cui, vừa bị ai đó gài mìn ở phía bên ngoài, đã nổ tung. Toà nhà thờ đồ sộ rung rinh, tiếng rền rền âm âm nghe rất hãi hùng, mái ngói nhô lên hụp xuống rêm rêm, gầm gừ tha hồ rớt xuống rào rạo, loảng xoảng. Gạch đá vôi vữa rơi rào rào, dường như ngôi nhà đồ sộ đang tự đào hố để chôn vùi tập thể dân lành di trú xuống đáy mồ!? Thế nhưng sao tôi thấy cánh cửa sắt trong lớp thứ hai nầy vẫn chưa chịu bung ra? Cảnh ồn ào huyên náo, càng sôi sục, cồn cào, náo loạn gấp ngàn lần trước. Kinh khủng! Kinh khủng trầm trọng! Người ta lại dày xéo lên nhau, dẫm đạp lên nhau, lôi kéo, giành giựt chỗ trốn, nên họ húc bừa vào nhau. Họ xô nhau chạy qua bên góc tường phía trái của căn hầm, nơi chưa bị rớt gạch và ngói, có cánh cửa phụ. Cửa hông nầy cũng làm bằng sắt dày kín mít. Tự dưng họ lại ùn ùn kéo nhau chạy qua bên phải. Họ cứ huà nhau chạy qua, rồI ùn ùn chạy lại. Xô nhau chạy theo sau lưng nhau, bất kể đàn bà trẻ con ốm yếu chết ngạt dưới chân. Bất kể tiếng la khóc, gào thét vang lên chát chúa. Tôi nghe thật hãi hùng, rùng rợn như nghe con dê, con heo, con bò, con trâu, con cừu bị chọc tiết, đang trợn mắt le lưỡi, rống rú man dại trong khu lò mổ ở ba toa.


Gia đình tôi (và mấy gia đình bạn cùng xóm) biết khôn hơn, chúng tôi không chen lấn đến chỗ đông người (nhưng trong lòng cảm thấy rất ân hận, vì mấy mẹ con tôi hôm nay xui rủi làm sao, tự dưng lại chui vào ẩn núp trong hầm nầy. Sao tôi không đi qua trú nhờ trong hành lang khu bệnh viện như mấy ngày trước hỉ!? Thế mới đau khổ). Chúng tôi ngồi bệt dưới gầm bàn, lỏ hai con mắt ra thật to, miệng há hốc, hai hàm răng va vô nhau lộp cộp, hai đầu gối nhịp nhàng run rẩy, mà thấp thỏm nhìn người đàn ông đang nhảy lên đánh trống, tiếng trống dù làm chúng tôi điếc tai nhức óc và choáng váng. Nhưng chúng tôi tránh được cảnh tượng xô đẩy vùi dập nhau đằng kia vô cùng dã man và ác ôn. Đó là người đàn ông trung niên sĩ khí dáng vóc khỏe mạnh, mặc áo sọc xanh, quần tây đen, dù qua nhiều đêm âu lo thức trắng, mái tóc nhuốm bạc. Ông ta thấy cảnh xô xát cuồng nộ thật đáng xấu hổ, nên ông ta bèn nhảy lên mấy cái bàn gỗ chất đầy ghế dựa. Ông ta cầm trên tay một cái vồ và đánh rất mạnh vào chiếc trống trường học đang treo lơ lửng trên đà ngang. Tiếng trống nghe rất tức ngực và điếc con ráy. Mọi người đứng ở góc tường quay lại, trợn mắt, im bặt, lo sợ rợn tóc gáy, sửng sốt ngó quanh. Họ không biết chuyện gì xảy ra. Ở đâu? Ông ta kêu gọi mọi người cố giữ trật tự, im lặng ngồi xuống tại chỗ, không ồn ào chen lấn. Ông giải thích về sự lâm nguy:


“Việt cộng đang đứng rải rác trên sân nhà thờ. Tui đã thấy có người chết cháy đen thùi lùi ở trển. Khi qúy ông bà anh chị em ở trong khu hầm trú nầy dồn nén xô đẩy, dẫm đạp lên nhau, ồn ào. Ta không nghe được động tĩnh bên ngoài kia, thì chẳng khác nào: “lạy ông tui ở bụi nầy”, sẽ tạo cơ hội thuận tiện cho Việt cộng đã đứng trên sân nhà thờ, họ sẽ phá một cánh cửa nữa, là tràn vào đây. Họ sẽ lấy dân làm bình phong mà đỡ đạn. Thì chết hết cả đám”.


Nghe thế, mọi người càng nhốn nháo, xì xào, dáo dác, tiếng ồn ào đồng loạt rộ to. Bỗng im bặt như ngọn đèn dầu phụt tắt trước gió. Mặt mày ai nấy xanh lè, tay chân run rẩy, họ cố bám bíu vào nhau… lết nhè nhẹ đến gần chỗ khuất kín hơn, và im thin thít. Khi đó, tôi nghe bên dãy nhà của các mẹ dòng có những đọc đoạn kinh Lạy Cha, rồi nhiều tiếng hát nhạc thánh ca cầu xin bình an vang lên.


2 giờ chiều, lính Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà mặc quân phục màu xanh, chân đi giày botte de saut, đầu đội nón sắt, lưng đeo đầy đạn, ngực móc hai quả lựu đạn. Họ mang súng máy lên đạn trên nòng, lăm le chĩa mũi súng về đằng trước, ngón trỏ đặt trong nòng. Đoàn quân nhanh chóng leo lên từ hướng nhà Thương, từ hướng Mai Hắc Đế, đường Hai Bà Trưng và Ngô Quyền. Họ tràn lên khu đồi nhà dòng Domain de Marie, chia ra bọc hết toàn diện khuôn viên nhà thờ. Sau cùng họ vào hầm trú đang chứa lương dân. Họ đi một vòng lục soát mọi cửa nẽo, ngỏ ngách, xó xỉnh. Rồi lính giàn ra thành hai hàng ngang, họ cấp tốc cứu nguy những người bị thương, chết nghẹt, hoặc đã chết. Họ làm việc gọn gàng và nhanh thoăn thoắt.


Tất cả dân chúng ở trong căn hầm nầy đều im phăng phắc. Chả bù cho lúc nãy căn hầm ồn ào muốn đinh tai nhức óc. Vị sĩ quan chỉ huy dõng dạc kêu từng gia đình ở trong hầm hãy xếp thành hàng dọc, từ từ từng tốp một, từng người bước chầm chậm ra ở ngoài khu chỗ trống, ngay tại trong tầng hầm của nhà thờ. Khi vị sĩ quan đã đếm tất cả đầu người trong hầm xong, ông ta bảo cánh đàn ông, thanh niên, thiếu nữ, tuần tự đi qua bên góc trái căn hầm. Từng người một riu ríu trình báo giấy tờ tuỳ thân, thì làm ơn vui lòng lấy hai tay đan lại, giơ cao để trên đầu, tay ôm ra sau cổ. Ông già bà lão lụm khụm và trẻ con: thì đứng qua bên phía phải, theo hướng chỉ của anh lính phụ tá. Lính yêu cầu những đàn ông trai tráng nam nữ và đàn bà không có con thơ bận rộn ở trong hầm của nhà dòng, sau khi trình diện, từng người một đi ra khỏi tầng hầm của khu nhà dòng Domain de Marie .


Đồng bào đi giữa hai hàng quân lính đông đúc, nghiêm trang đứng bồng súng gác ở ngoài sân. Mọi người tay xách tay mang. Tay bế tay bồng. Họ lục tục ríu rít và trật tự kéo nhau ra cửa. Họ chạy xuống ngồi bên cạnh hang đá Đức Mẹ. Hoặc dân bò từ từ xuống chân nhà thờ, lủi nhanh về hướng Cẩm Đô. Họ chạy qua lối bệnh viện Đà Lạt.


Một tay bế con trai Tuấn vừa ba tháng tuổi, khuỷu tay tôi lại kẹp chặt cánh tay bé Dzũng, lôi con xềnh xệch: ba mẹ con chạy ra ngoài sân sao nhanh đến thế! Không biết làm cách nào, mà tôi kéo thêm hai giỏ xách đồ dùng, giỏ thức ăn nặng trĩu to tướng? Tôi kẹp chặt cánh tay bé Dzũng, lôi con tuột dốc đồi xềnh xệch theo mình!? Hai tay tôi quắp hai đứa con nhỏ vào lòng, và cả “gánh” thức ăn, đồ dùng nữa. Quả thật tôi tự khen tôi tài tình. Từ trên dốc đồi cỏ Domain de Marie cao gần như thẳng đứng, tôi ngồi thụp xuống, hai chân chuồi thẳng về trước, lăn như khúc cây tròn. Trước khi tuột dốc, đầu tôi trùm khăn, tôi mặc hết ba bộ đồ, với áo len lông xù, áo manto, nên mớI thoạt nhìn ai cũng có thể nghĩ là tôi mập ú tét. Toàn thân tôi toát mồ hôi hột giữa nắng xế oi ả, tôi lạnh run vì sợ hãi. Chân tôi mang bít tất, chiếc giày thấp run lẩy bẩy trong cổ chân. Còn chiếc kia bay mất lúc nào không rõ. Tôi mặc cả thảy năm chiếc quần mỏng, bị vướng móc vào thép gai, đã rách toạt ra tự bao giờ. Khi cùng những người khác ngồi yên ổn dưới hang đá, lúc đó tôi cảm thấy đau nhức rần rần ở hai mông. Rờ tay vào, tôi mới biết là mông tôi bị chảy máu khá nhiều. Một bàn chân rơi mất chiếc giày, tôi đã đạp lên xác chết ở trên sân nhà thờ. Chiếc tất trắng nõn dính đầy máu tươi.

 


Ui trời ơi! Tôi sợ mất hồn, mất vía. Tôi đã thấy hai xác người trợn mắt phơi thây lúc nãy mà. Có một ông co quắp. Một ông nằm ngửa tênh hênh trên vũng máu. Chiếc áo màu cải úa chỗ thâm đỏ, chỗ tím bầm. Khô đọng. Ruồi bu đen nghịt trên thân thể họ. Cạnh đấy có hai cây đòn khiêng bằng tầm vông, luồn qua lớp võng vải bố, loại bố của bao gạo. Họ dùng mấy thứ nầy làm đòn tải thương.


Bà nội (của các con tôi), mặt mày hốc hác, bà đờ đẫn, mắt đã lạc thần. Bà muốn chết đứng, tay chân bà lắc lư đung đưa run rẩy như cầy sấy. Tay bà ôm bình thủy đựng đầy nước sôi, bà chạy theo đoàn người sơ tán. Chiếc bình thủy vỏ mây mà bà đang ôm trên ngực, bị bể tan, nước sôi chảy ra, hơi nóng bốc lên từ đám cỏ hoa vàng không tên, tàn úa héo dần. Ấy vậy, thật may mắn bà không bị phỏng nước sôi. Bà sợ Việt cộng kinh khủng. Sợ quá chừng! Bà đã bỏ quê hương tận ngoài miền Bắc, bỏ làng xóm thân thương, bà vất hết của cải, bà chạy bán sống thừa chết từ Bắc vào Nam. Bà trốn tránh họ bao năm nay. Bà sống hiu hiu mong an vui nhàn hạ đôi chút cho qua kiếp già. “Tân niên vạn phúc bình an đến. Xuân nhật vinh hoa, phú quý lai”, cho khỏi bỏ những ngày lao đao lận đận nơi quê xưa. Bà tưởng thoát nạn, tưởng đã yên ổn tấm thân còm. Bà sẽ hạnh phúc nhờ “phước thâm tự hải, lộc cao như sơn”, do ông cha cố tổ của bà ưu ái để lại.


Nào ngờ... giờ đây họ đùng đùng xách súng đến bên đít, đuổi bà vắt giò lên cổ mà chạy có cờ! Bà ngồi thụp xuống đất, giống như em bé lên sáu tuổi chơi trò cầu tuột. Bà xoạt hai chân lướt phom phom trên đồi cỏ. Bà bị té nhào hai ba vòng, đầu bù tóc rối xổ ra dài lết thết trên đất cỏ. Tôi sợ thắt họng, tưởng bà sẽ bị u đầu bể trán chảy máu, hay ít ra cũng gãy cần cổ, lặt lìa lặt lọi tay chân. Thế mà bà tỉnh bơ không việc gì. Bà chỉ hốt hoảng dáo dác nhìn quanh, đau khổ lo sợ tột cùng, không sao chịu thấu. “Sông sâu có thể bắc cầu. Lòng người nham hiểm, biết đâu mà mò”. Vì, “Thà rằng chả biết cho xong. Biết ra, như xúc, như đong lấy sầu”. Bà than như thế! Tôi phải kính phục bà mẹ chồng vô biên, vì bà thuộc về lớp người từ thế kỷ thứ 19, nhất là ở nơi vùng quê Hưng Hiền tận ngoài Yên Mô miền Bắc, thuở xưa ấy ông bà cố đã cho bà đi học chữ Quốc Ngữ. Bà viết chữ thông thạo, đọc chữ làu làu. Bà nói những câu văn hoa tinh tế. Nhất là bà hát những câu ca đồng dao, quan họ trữ tình luyền nhớ quê hương, thì hay hết biết. Sau khi bà cháu mẹ con chúng tôi an toàn tuột dốc nhà dòng Domain De Marie nầy cùng đồng bào trong thị xã Đà Lạt bị dồn vào ngỏ cụt không lối thoát. Tôi và họ cũng bỏ lại sau lưng những gì quý giá nhất, hầu thoát thân mưu cuộc sống còn. Dù cùng cực đắng cay, lo toan, đớn hèn, đau khổ đối mặt với nỗi cô quạnh muộn phiền bất ngờ không lường trước được, và hãi hùng giữa cuộc đời muôn mặt. Nhưng xin cám ơn Trời đã cho thoát khỏi nanh vuốt cái người tôi không muốn xác nhận mà phải coi như quân thù.

 

Hội quán Phi Dũng

 

 

Tin Tức - Bình Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính