Trăm hoa đua nở trên đất Bắc

 

Hoàng Văn Chí

 

 

Tiếp chương II, phần II - Phái thanh niên: Tạ Hữu Thiện, Bùi Quang Đoài

 

Tạ Hữu Thiện

 

Tạ Hữu Thiện là một sinh viên mới lớn lên trong kháng chiến. V́ được rèn luyện dưới chế độ mới nên anh viết theo lối hiện thực xă hội.

 

Trong bài “Tôi t́m Em” mà chúng tôi trích theo đây, tác giả ta thán về nỗi đau t́m không ra vợ. Điều kiện đưa ra th́ rất chi là dễ dàng, tác giả chỉ cần gặp một tâm hồn “biết ghét và biết yêu”, thế mà t́m khắp ở các từng lớp trong xă hội miền Bắc đều không thấy.

 

Tác giả không nói tại sao, nhưng người đọc có thể hiểu rằng nền giáo dục cộng sản đă làm khô cạn tâm hồn con người, nhất là tâm hồn của phụ nữ.

 

Những người ở ngoài ṿng thường ít nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề, nhưng thực t́nh, đối với người con trai chưa vợ hiện nay ở Bắc Việt th́ đó là một t́nh trạng vô cùng bi đát. Một xă hội loài người mà không c̣n t́nh yêu, chỉ c̣n xác thịt là một viễn ảnh rùng rợn. Viễn ảnh này đă được một nhà văn Anh, Georges Orwell, tŕnh bày trong cuốn 1984 và một nhà văn Mỹ mà chúng tôi quên tên tŕnh bày trong cuốn Body Snatcher. Đề tài này đă được đóng thành phim và chiếu tại Sài G̣n. 

 

 

Tôi t́m Em

 

Có phải Em là người không bao giờ tôi gặp

Mới là người tôi ấp ủ trong tim?

 

Ai lớn lên không từng yêu đương

Ai biết yêu không từng ḥ hẹn

Việc ấy lẽ thường.

 

Tôi đă từng yêu, từng chán nản

 

Không bao giờ thấy nguội con tim

Không bao giờ thoả măn

Khát khao Em, tôi vẫn gắng công t́m.

Có phải Em là người không bao giờ tôi gặp

Mới là người tôi ấp ủ trong tim?

 

Nửa đời người tôi đă đi khắp cả

 

Kiếm t́m Em, sao chửa thấy Em đâu?

Em yêu dấu, sao mà xa lạ

Đến bao giờ thoả ước hẹn ḥ nhau?

 

-   Hỡi cô bạn gương tṛn bỏ túi Quần sồi áo nâu

 

Tháng năm dài vất vả

Cuốc bẫm cày sâu.

 

-   Hỡi cô bạn công trường nhộn nhịp Góp đôi tay, đôi vai

 

Vào chương tŕnh kiến thiết Nằm mộng thấy ngày mai

 

-   Hỡi các cô đẩy xe, gánh vải

Quét rác, đổ thùng,

Lao động mang đầy nhựa sống

 

Nở ngực, thon lưng

 

-   Hỡi cô bạn quầy hàng, tủ kính Thoắt mua về lại thoắt bán đi Cuộc sống là trăm ngàn con tính Kệ đời lắm chuyện thị phi

 

-   Hỡi cô bạn ngồi trong công thự Ngày ngày chép chép ghi ghi Sôi nổi như đả máy chữ

 

Rộn ràng giấy má đến, đi.

 

-   Hỡi cô bạn văn công nhảy múa Dưới ánh đèn lộng lẫy ánh tiên Mắt biếc môi t́nh chan chứa Đời như không có ưu phiền

 

-   Hỡi cô bạn sinh viên trường đại học Đă cùng tôi luận luận bàn bàn Kiến thức hai ta dù góp lại

So với đời chỉ độ tấc gang.

 

-   Hỡi tất cả các cô bạn gái

Tôi đă biết hay là tôi chưa quen

Tôi chả bị cái ǵ làm lạc hướng

Nhằm áo hồng, phụ áo vá vai

 

Cũng bất chấp lối luận bàn sống sượng

Khen chê tóc ngắn, tóc dài

 

Tôi thấy: đă là con gái

Vào tuổi dậy th́

Cô nào trông cũng đẹp

 

Mỗi người một vẻ kém chi.

 

Tôi đắm đuối nh́n đầu môi khoé mắt,

Nét ngực đường lưng

Hàm răng mái tóc

 

Mộng đời những tưởng đắp chăn chung.

 

Thực thà tôi chẳng biết

Cân nhắc thành phần,

Cũng chẳng dại làm điều vô ích

Xem cỗi nguồn có vẹn mười phân.

 

Tôi cũng chẳng đo tài gạn đức

Ra điều kén cá chọn canh

V́ t́nh yêu đời đời đâu có phải

Là bốn bài trừ cộng chia nhân.

 

Trong các bạn có chăng người yêu dấu

 

Mà bấy lâu tôi vẫn gắng công t́m?

Đó chính là người tôi chửa gặp

Mới là người tôi ấp ủ trong tim.

 

Trên tất cả thành phần lư lịch

Trên cao sang, trên sắc đẹp diễm kiều

 

Em, trọn cuộc đời tôi kiếm gặp

Chỉ là người biết ghét, biết yêu.

 

(Trích báo Trăm hoa ngày 6-1-1957)

 

*

 

Bùi Quang Đoài

 

Bùi Quang Đoài là một sinh viên nghèo theo học trường Nguyễn Thượng Hiền

 

   Khu Ba, sau về trường Dự bị Đại học ở Thanh Hoá, rồi khi Việt cộng tiếp thu Hà Nội anh học trường Văn khoa Đại học.

 

Anh lănh đạo phong trào sinh viên chống Đảng, làm chủ bút tờ Đất mới là cơ quan tranh đấu của sinh viên. Tờ Đất mới chỉ ra được một số th́ bị bóp chết. Sau vụ đó th́ anh bị đuổi khỏi trường. Số phận hiện nay ra sao chúng tôi không rơ.

 

Bài “Lịch sử một câu chuyện t́nh” của anh đăng trong tờ Đất mới mà chúng tôi trích sau đây, tả không khí sinh hoạt trong khu học xá ở Hà Nội và kể lại một vụ cán bộ Đảng dùng uy quyền chính trị chiếm đoạt t́nh yêu của một nữ sinh viên tiểu tư sản người Hà Nội. Câu chuyện có thực, và đă làm sôi nổi dư luận trong giới sinh viên đại học.

 

Lịch sử một câu chuyện t́nh

 

Em hăy đếm những v́ sao trên trời được bao nhiêu th́ anh yêu em c̣n hơn thế nữa…

 

Nếu có thế và chỉ có thế thôi.

 

Đường trăng mà không sáng! Bóng mây đă che mờ hẳn trăng đêm. Ánh đèn trong những gian pḥng khu học xá chiếu hắt ra như những v́ sao thứ tự. Tân bước vội lên thềm. Một anh bạn sinh viên ngồi đó nh́n theo dáng anh mệt nhọc.

 

Kém 15 phút nửa là đúng 10 giờ đêm. Bây giờ phải họp tổ hội tự kiểm thảo. Mà kiểm thảo cái ǵ, đêm nào cũng một luận điệu “Tôi thấy trong ngày hôm nay...”

 

Qua pḥng họp lớn, Tân lấy tay kéo xệch chiếc ghế dựa đi một quăng. Tiếng ồn làm mấy người bạn đang chúi mũi học bài nh́n lên. Có cái nh́n của Bằng qua đôi kính trắng gọng nạm vàng. Mắt Tân bắt gặp mắt Bằng trong thoảng chốc. Và Tân càng thấy bực ḿnh thêm v́ cứ bị măi đôi mắt kính vô lư kia ám ảnh. Một thằng người hay một... thế thôi! Cần ǵ nói hết ư nghĩ của ḿnh trong khoảnh chốc. Tân lấy đàn violon ra kéo chơi một bài cho ḷng khuây khỏa. Âm thanh của bản đàn “Thais” réo rắt và dồn dập làm rối bời thêm tâm trí anh.

 

“Ê, Tân đi họp tổ chứ “ôm” đàn măi à!”

 

Tân cười nhẹ và ngoan ngoăn như em bé bỏ cây đàn vào hộp. Bước đi vẫn nặng nề, do dự. Tiếng đàn c̣n vẳng bên tai anh. Họp! Có ǵ? - Phê b́nh và kiểm thảo, kiểm thảo và phê b́nh. Mười phút qua và tối mai đúng 10 giờ kém 15 lại cứ thế. Tân lên dây đồng hồ cho tiếng máy chạy đều sỗng đến 10 giờ đêm mai. Không biết con người có như vậy không, nhưng cứ kéo dài như vậy th́ quả thật là mệt mỏi quá rồi! Bao giờ sẽ được lau dầu?

 

Một hồi kẻng vang lên. Mười giờ đúng. Ánh điện đồng loạt ở các gian pḥng khu học xá tắt phụt. Có vài cái trễ nải cố sống thêm vài phút. Mười giờ và đi ngủ. Nội quy của khu học xá là như vậy và không một ai có thể thức lâu, trừ “trường hợp” đặc biệt nào đó. Tân mân mê hộp đàn violon trong đêm tối. Anh muốn kéo thêm một bản đàn và thực t́nh anh cũng chưa buồn ngủ. Nhưng đêm tối của toàn gian pḥng bắt anh phải tôn trọng một giấc ngủ chung của tập thể.

 

Tiếng đàn như ĩân c̣n vẳng lên kéo anh về một kỷ niệm. Anh nghĩ đến một người ở năm thứ nhất ban Sử:

 

Trang sách mở rồi

Một tờ thư nho nhỏ

Thương anh muôn vạn thuở

Gửi chùm hoa lư phần anh...

 

Tự nhiên anh nhớ lại mấy câu thơ đó của người bạn và mong cho nỗi ḷng ḿnh có một sự cảm thông. Câu chuyện gặp gỡ anh không thể quên được...

 

Đôi mắt của An và thân h́nh của An. Màu áo tím hoa cà trong nắng vàng của buổi chiều hè làm Tân có cái cảm tưởng Tân đang bước trên một đài mây. Gió thoảng bay về vờn qua nếp lụa mỏng. Một cái ǵ lôi cuốn cả tâm hồn Tân, anh tŕu mến nh́n người bạn gái sinh viên chưa quen thuộc đó. An đang vui cười tṛ chuyện với mấy người bạn gái khác, không chú ư đến một chàng trai si t́nh của năm thứ ba văn khoa. Ai lại yêu quá vội vàng như thể nhỉ! Nhưng nói sao được tuổi thanh niên và nói sao được cái rung động buổi đầu trước một người đẹp. Tân nh́n An trong nắng vàng của chiều hè, nhịp máu chảy vươn lên. Tự nhiên An cũng nh́n hướng về phía Tân. Và An nh́n hướng như vậy luôn mấy lần. Đôi mắt Tân và đôi mắt An đă gặp nhau trong một cuộc hẹn ḥ không ước hẹn.

 

Yêu! Tân thấy cuộc đời như rộn hẳn lên và cái ǵ cũng hoa là hoa, ánh sáng là ánh sáng. Yêu đời đẹp quá đi thôi và đưa người thanh niên đến một lạc quan say đắm: “Em ơi! Em hăy đếm những v́ sao trên trời được bao nhiêu th́ anh yêu em c̣n hơn thế nữa...”

 

Chiều đó Tân đă gặp lại An. Lần này anh không dám nh́n thẳng vào mắt An nữa. Anh muốn nói một câu mở đầu nhưng ḷng anh bối rối. Anh đang lúng túng t́m một ư nghĩ ǵ thật là văn hoa để mong diễn đạt nỗi ḷng thầm kín của ḿnh một cách xa xôi bóng bẩy th́ Hạnh đến. Hạnh là người bạn gái khá tốt và tế nhị trong vấn đề t́nh cảm. Hơn nữa Hạnh là người đă đứng tuổi, có con rồi. Tân đă có lần tâm sự với Hạnh về cảm t́nh của ḿnh đối với An, nên bây giờ trong một sự t́nh cờ hai người đứng gần nhau trước hiên nhà, Hạnh đă nắm được sự bối rối của Tân. Hạnh nói như sực nhớ một điều ǵ:

 

“À, anh Tân đây rồi! Chị An mượn tôi cuốn Số đỏ của Vũ Trọng Phụng nhưng anh lại mượn mất rồi. Thôi hai người điều đ́nh với nhau vậy. Tân hơi ngạc nhiên v́ anh không định mượn cuốn Số đỏ của Hạnh bao giờ. Nhưng thoáng cái, anh hiểu ngay ư nghĩa câu nói, anh nh́n thẳng vào mắt An hỏi:

 

“Chị An bên Sử mà cũng thích đọc sách bên Văn cơ à? Thế mà tôi cứ tưởng…”

 

“Tưởng ǵ nào?”

 

Hạnh cười ngắt ngang câu nói làm Tân hơi lúng túng.

 

An cũng vậy, nàng đă bắt gặp rất nhiều lần Tân nh́n nàng, nên hôm nay nàng cũng không giữ được vẻ tự nhiên thường ngày. Nàng hỏi lại: “Thế anh tưởng bên Sử th́ không thể và không dám hiểu một ư sâu của câu văn hay sao? Anh quên rằng các anh bên Văn là rất cần Sử để có thể phân tách t́nh trạng xă hội qua tác phẩm văn học đó nhé!”

 

Hạnh cười:

 

“Vâng rất cần Sử…”

 

Câu chuyện đang vui th́ Bằng đến. Bằng nh́n Tân rồi nh́n An qua đôi kính trắng gọng nạm vàng nói như cố ư pha tṛ nhưng quá nước ốc:

 

“Chứ cái chi chi đây mà tụ họp vui quá nhỉ.”

 

Tân muốn bỏ đi ngay. Anh nói hất hàm:

 

“À, một chuyện đời!”

 

Bằng lại giữ đúng thái độ “Đào kép mới” của Nguyễn Công Hoan, cười lố bịch:

 

“Chà, chứ quan trọng vậy ư? Nhưng chuyện đời ǵ mà chỉ có ba người, tôi tham gia có được không?”

 

An vô t́nh nói với Bằng:

 

“Sao lại chuyện đời? Em hỏi mượn chị Hạnh cuốn Số đỏ đó thôi.” Tân nhún vai:

 

“Th́ Số đỏ cũng là chuyện đời, chuyện đời của thằng Xuân biết lừa đời, sống trong một h́nh thức giả tạo để mà lên đến ghế gọi là „anh hùng‟!”

 

Tân nói xong cười tinh nghịch nh́n vào đôi mắt kính của Bằng. Anh thấy Bằng đă đến, tất nhiên nước có thể đục. Mà anh, cuộc đời trước mắt anh đang cần những cái ǵ trong mát, tươi thắm hơn, nên anh trở về pḥng.

 

Lát sau anh đưa cuốn Số đỏ cho An. Hai người cùng nói chuyện với nhau nhiều hơn trong cuộc đời sinh viên, giữa người ở vùng tự do, kháng chiến trở về thủ đô và người thủ đô cũ. Tân kể lại những ngày vất vả ở cầu Kè, Thanh Hoá, đêm ngồi nghe giáo sư giảng bài bên ngọn đèn dầu lù mờ và cả cuộc đời g̣ bó, khuôn khổ. Ngoài th́ tàu bay của giặc thường đi khủng bố, trong th́ cả một sự hạn chế... Anh không muốn nói hết những t́nh cảm và tư tưởng của ḿnh trong những ngày đă qua. Anh muốn t́m hiểu hơn ở người bạn gái Hà Nội có mái tóc quăn này. Anh đă hỏi An là sao An đă vào Sư phạm mà chịu ở kư túc xá. Qua những câu nói của An, anh hiểu tâm trạng của một người thanh niên học sinh Hà Nội hơn, những phút sống lao đao của họ trong bàn tay địch và cuộc đời như không có tương lai. Tất cả xung quanh đều là những bước đường có thể sa ngă, bàn tay của truỵ lạc, của đen tối luôn t́m lôi kéo mọi người thanh niên mới lớn lên. Cho nên trên cái bơ vơ đó của cuộc đời, phải chăng người thanh niên của thủ đô Hà Nội cũ đă hướng về vùng tự do kháng chiến. An cũng đă sống trong cái tâm trạng đó nên lúc hoà b́nh được lập lại, nàng như thấy rơ cuộc đời ḿnh đang bắt đầu đi vào con đường giải phóng mới rộng răi và tươi sáng hơn. Trên ư nghĩ đó, An thấy ḿnh chưa phục vụ cho nhân dân, cho đất nước được một cái ǵ rơ rệt, hơn nữa trong nhu cầu cần thiết của nhân dân, nàng quả quyết theo ngành sư phạm. Mặc dầu Trâm, bạn nàng, hôm thi đỗ được vào trường Đại học Sư phạm Văn khoa đă nói đùa: “Thế này thật là mới vững lập trường!”, nhưng An không khe khắt với bạn. Nàng cho ư nghĩ ấy cũng có thể được chứ có sao đâu: lập trường của ḿnh là dứt khoát đứng về phía nhân dân lao động và phục vụ cho nhân dân lao động cơ mà! Học sư phạm ra đi dạy là ư nghĩa cụ thể nhất của một người thanh niên.

 

An đă nói với Tân là An mến những chị bạn ở vùng tự do kháng chiến mới về. An muốn gần họ và mong hiểu được nhiều hơn cuộc sống của con người kháng chiến mà nàng không là một con số trong đó. Tân hỏi đùa An:

 

“Nhưng sao người ở Hà Nội mới được giải phóng lại cứ hay gọi vùng tự do kháng chiến là 'hậu phương‟?”

 

An không trả lời. Qua câu chuyện của Tân, nàng thấy Tân là một thanh niên rất thành thật. Nàng mến Tân hơn và có thể tin ở người bạn trai có một tâm hồn nghệ sĩ nàỵ An nhớ lại những bản đàn mà Tân thường chơi vào lúc 10 giờ đêm trước giờ kiểm thảo. Tiếng đàn những lúc đó bao giờ cũng vội vàng, hấp tấp. Tân kéo bản đàn này qua bản đàn khác như người đang cố t́m hưởng lấy một phút sống vui trước giờ hấp hối (và không biết 10 giờ nội quy đi ngủ của khu học xá có phải cũng đúng là giờ hấp hối hay không). Tiếng đàn buổi sáng bao giờ An cũng thấy thoải mái, thánh thoát hơn. Tiếng đàn lắng sâu vào tâm sự con người trong buổi b́nh minh rực rỡ, đọng trên mí mắt người ta như châu ngọc, ban cho tuổi thanh niên một hứa hẹn của ngày mai. An rất thích nghe tiếng đàn b́nh minh của Tân. Một sáng đầy nắng mới, Tân lại đi kéo bài “Khúc ca ban chiều”, “Sérénata” - làm An và các bạn khác, vẫn thích nghe đàn của Tân, bật cười:

 

“Ông tướng quên cả ngày rồi!”

 

Nếu chỉ thế thôi!

 

Tân đă ghi vào trang đầu của cuốn nhật kư: “Em ơi! Em hăy đếm những v́ sao trên trời được bao nhiêu th́ anh yêu em c̣n hơn thế nữa”.

 

T́nh yêu đă bắt đầu chớm nở giữa hai người. Tiếng đàn của Tân vui hơn, nhộn nhịp hơn. Anh không ăn bận b́nh thường như trước nữa. Anh chải hắt mớ tóc lên theo làn sóng uốn và thỉnh thoảng anh lại thắt cả “cravate”. Mọi người đều thấy ở Tân có một sự thay đổi và ai cũng biết câu chuyện giữa Tân và An.

 

Bước đầu đang được t́m hiểu xây dựng th́ một hôm người ta thấy Bằng đang bàn chuyện trong buồng riêng với hai nữ sinh viên, Chi và Phụng. Nét mặt của Bằng rất quan trọng và qua đôi kính trắng gọng nạm vàng của Bằng người ta lại càng có thể đoán cái quan trọng của câu truyện hơn. Không ai hiểu chuyện ǵ đă hay đang xẩy ra. Người ta - nghĩa là anh em sinh viên - đều biết Bằng là bí thư chi bộ Đảng của tổ chức sinh viên. Một lát Chi ở pḥng riêng ra, c̣n Phụng ở lại với Bằng. Cửa đóng kín mít trong gian pḥng của hai người, một trai và một gái. Người ta không có quyền ṭ ṃ v́ đó là Bằng “đảng viên” đang giải quyết” công việc.

 

Đến chiều An vội từ trên gác xuống t́m đến pḥng riêng nơi Bằng làm việc.

Mặt nàng hơi tái. Bằng hỏi nàng:

 

“Chắc Chi và Phụng đă nói chuyện với chị rồi phải không? Chị có cảm t́nh với Tân? À, cái ấy chị có quyền tự do luyến ái...”

 

An thấy thái độ của Bằng quá trắng trợn, toan “thắc mắc” nhưng nàng vội nhớ ngay đến địa vị và chức vụ của Bằng. Nàng lo sợ ngồi yên lặng cúi đầu xuống, tay cuộn tṛn mẩu giấy nhỏ. Tự nhiên nàng thấy ḿnh như đang phạm vào một tội ǵ đó trong “nội quy” t́nh yêu ở khu học xá. Nàng đang phân vân th́ Bằng lại nói:

 

“Chị đă t́m hiểu ǵ nhiều về anh Tân chưa? Cứ nói thật th́ anh chị em người ta giúp ư kiến cho chứ ngại ǵ mà vụng trộm. Ở đây chúng ta có đủ mọi quyền, trong đó có quyền yêu cơ mà.”

 

Rồi Băng cười độ lượng tiếp:

 

“Cái khuyết điểm của chị là sao lại không hỏi ư kiến tôi hay tập thể. Tất cả sinh viên của ta ở đây có một việc ǵ, dù là việc tâm t́nh kín đáo mấy mà lại không hỏi qua ư kiến tôi. Nhưng may là có mấy chị ấy báo cáo cho tôi rơ, nên tôi mới gọi chị đến đây để giúp đỡ thêm ư kiến về hạnh phúc lứa đôi. Chắc chị cũng biết những tiêu chuẩn luyến ái quan chứ ǵ? Tôi không nhắc lại hết, chỉ nêu lại với chị một điểm của tiêu chuẩn luyến ái là vấn đề tư tưởng. Vâng, vấn đề tư tưởng là chính yếu: giá trị của con người ta là qua vấn đề tư tưởng đó. Mà Tân th́ chắc chị đă hiểu, Tân chưa phải là thanh niên Cứu quốc, riêng chị là cảm t́nh của Đoàn.”

 

Sự việc xảy ra quay cuồng trước mắt An. Chiều hôm đó nàng bỏ không ăn cơm, cáo ốm xin nghĩ học tối. Trước kia nàng là một người hồn nhiên, nh́n mộng đẹp của đời như bông hoa buổi sáng mở cánh đón ánh nắng b́nh minh. Nàng rất tin

 

   chế độ Dân chủ Cộng hoà và con đường tiến lên của nó. Nàng rất tin con người trong chế độ đó và chưa một lần hoài nghi. Người ta có thể hoài nghi với cuộc đời, với cả t́nh yêu. Nhưng riêng An nàng nghĩ người đời cũng có thể có những t́nh cảm như ḿnh. Nay trang giấy trắng của tuổi ḷng đang bắt đầu lật qua một mặt khác, nàng đă yêu Tân. T́nh yêu của nàng đang vừa độ chớm nở. Nàng có thể tha thứ cho Tân những điều mà Tân đă lầm lỗi trong t́nh cảm trước kia. Đó là một chuyện rất có thể mà thôi, tuy chưa thú thực nỗi ḷng của ḿnh với Tân, nhưng nàng có thể tin Tân.

 

Đôi mắt của Bằng qua đôi kính trắng gọng nạm vàng như đă nh́n rất sâu vào tâm tư An. Nàng không thể quên được những cái tiêu chuẩn - không biết có vô lư không - mà Bằng đă nêu ra: vấn đề tư tưởng. Mà tư tưởng tức là lập trường chính trị rồi. Thế nhưng anh Tân đă chiến đấu ở bộ đội về, đă ở kháng chiến cơ mà! An lại càng phân vân. Cuộc đời quả thật là vô cùng phức tạp. Tại sao Tân không phải là Thanh niên Cứu quốc? Tại sao Tân đă chiến đấu cho Cách mạng nhiều như vậy, 6, 7 năm ở bộ đội - mà lại không là một đảng viên cộng sản? Tại sao? Nếu quả ư nghĩa câu nói của Bằng th́ có thể là Tân thiếu lập trường cách mạng, tư tưởng kém. Do đó suy rộng ra không biết có nên chụp mũ không - là tư cách đạo đức kém. Mà nếu là quần chúng th́ đó là một sự dĩ nhiên. Ư nghĩ dồn dập trong tâm trí An. Nàng thấy ở trường học cũng có cơ quan đoàn thể của chính phủ, những người lănh đạo đều là đảng viên cộng sản cả. An rút ra một kết luận đơn giản: đảng viên cộng sản người nào cũng tốt hết v́ họ có lập trường tư tưởng vững, c̣n quần chúng mặc dù anh ở thành phần nào, năng lực công tác cao đến đâu nếu anh chưa là đảng viên cộng sản th́ ư thức lập trường của anh đều kém. Như vậy, nếu đưa vấn đề tự do luyến ái ra trong đó có tiêu chuẩn tư tưởng - sao lại tiêu chuẩn? - qua ư của Bằng là con gái nên lấy chồng đảng viên cộng sản v́ họ có lập trường tư tưởng. Thật là rủi ro cho ai lấy phải những người chồng quần chúng như Tân hay sao? Nhưng hiện nay một số đảng viên cộng sản đă phủ nhận vai tṛ của quần chúng, không tin ở quần chúng (cơ quan tổ chức nào họ cũng nắm toàn quyền lănh đạo và đảng bộ quyết định tuyệt đối), họ khinh thường quần chúng. V́ vậy An đă nghi ngờ ngay cả khả năng của bản thân ḿnh.

 

An càng thấy băn khoăn hơn trong ư nghĩ, mấy ngày luôn nàng tránh không muốn gặp Tân, nàng sợ cái nh́n của Tân, sợ cả tiếng đàn của Tân. Tiếng đàn trước kia quen thuộc, thân ái như lời tâm sự, bây giờ đối với nàng như tiếng than năo ruột.

 

Chính nó đă xé că ḷng nàng. Nàng thấy như tiếng đàn cũng mất lập trường, thiếu căn bản tư tưởng. Ừ, giá cũng bản đàn đó, nếu là một người đảng viên cộng sản kéo th́ có phải vững lập trường biết bao. An cho ḿnh nghĩ như vậy là máy móc, nhưng chính ḷng nàng qua buổi nói chuyện với Bằng, nàng không biết cái ǵ là đúng, cái ǵ là sai nữa. Nàng đang đứng trước một ngă ba đường mà chân lư đối với nàng c̣n quá mơ hồ. Người bí thư chi bộ cộng sản ở trường đă đưa nàng vào con đường sương mù của một buổi sáng Luân Đôn.

 

Không yêu có được không? An để tay lên tim ḿnh nghe rơ tiếng đáp dồn dập. Nàng yêu Tân, yêu nhưng chưa qua một lần hứa hẹn. Như thế cũng hay? Chi bằng ta gấp cuộc đời lại, ta chờ đợi một cái rủi may. Mấy lần An đến gặp Bằng, nói rơ nỗi khổ của ḷng ḿnh. Bằng đă thương hại nàng, lấy tư cách là một người anh, tư cách một người cán bộ lănh đạo đi sát quần chúng, an ủi nàng. Nàng rất cảm động v́ ḷng tốt của Bằng. Có lần Bằng đă để tay lên vai nàng, vuốt nhẹ tóc nàng, khuyên nàng không nên đau khổ. Thời gian sẽ trôi qua và kỷ niệm kia cũng sẽ dần dần nhạt phaị Nàng thấy Bằng luôn săn sóc đến nàng cũng như các người bạn gái khác của nàng. Trong toàn trường sư phạm văn khoa, không một người nào thắc mắc cái ǵ là không phải qua tay Bằng giảI quyết. Bằng đă giúp đỡ cho nhiều chị nh́n rơ đời tư của người bạn trai si t́nh nào đó và như vậy chị mới có thể dứt khoát cắt đứt dây t́nh cảm đang định giăng buộc hai người. May có Bằng, nếu không th́ biết bao nhiêu là chị sẽ vô t́nh yêu lầm phải những chàng sinh viên quần chúng thiếu tiêu chuẩn tư tưởng trong vấn đề luyến ái quan.

 

Thật t́nh An đă cám ơn Bằng, người cán bộ trung kiên đă giúp cho nàng một con đường thoát. Nàng thấy Bằng thật quả xứng đáng là một sinh viên gương mẫu của trường đại học, gương mẫu cả trong cách thức giảI quyết t́nh cảm.

 

Từ đó An nh́n Tân bằng con mắt khác, cố tránh xa Tân. Tuy nhiên, nhiều khi ngồi suy nghĩ một ḿnh, An tự hỏi ḷng ḿnh đă dứt khoát hẳn với câu chuyện của đời ḿnh hay chưa. Cái kỷ niệm trong mối t́nh đầu tiên chưa hợp đă tan kia, làm sao nàng có thể quên được.

 

Có vài mẩu chuyện tung ra trong dư luận sinh viên năm thứ ba làm An ngạc nhiên. An đă biết thờI gian vừa qua Tân rất đau khổ. Tiếng đàn b́nh minh thường lệ càng như tha thiết hơn, lo lắng hơn. An rất khó chịu về tiếng th́ thầm cho rằng Tân hay diện: “Trong lúc An là người Hà Nội muốn trút bỏ cái áo Hà Nội để đi xuống th́ Tân lại t́m khoác cái áo ấy vào”. Tại sao người ta lại quá nghiêm khắc với ngay cả cách thức ăn mặc? Thế chiến đấu để làm ǵ, cứ sống thật với ḷng ḿnh có hơn không?

 

Một hôm An được Bằng gọi xuống có chuyện riêng. Thoáng thấy bóng Tân ở pḥng Bằng ra, nàng đă đoán được phần nào câu chuyện. Cái làm nàng ngạc nhiên nhất là Tân lại đi cầu cạnh Bằng mong giúp đỡ trong vấn đề t́nh cảm. Nàng chắc Tân không bao giờ có thể làm một việc cầu cạnh như thế. Nhưng biết đâu, trong đau khổ của con tim, người ta có thể đi thử một nước cờ. Nhưng nước cờ đó của Tân, chính Bằng là người dàn quân tính nước và An cũng đă chỉ là một quân cờ. Nước cờ của Tân qua tiêu chuẩn tư tưởng trong vấn đề luyến ái của Bằng đă thất bại. An từ chối Tân.

 

Và nếu cũng chỉ có thế thôi!

 

Câu chuyện chưa phải là bỏ dở. Ngày qua rất chóng. An không đọc lại những trang nhật kư đă ghi; An cũng không t́m trở lại một kỷ niệm. Nàng sống hồn nhiên như một ngày nào...

 

Có lần đi sau Chi và Phụng, hai người đang bàn về t́nh yêu, An đă thoáng nghe:... “Nữ-sinh Hà Nội dễ chinh phục như chơi... Anh ấy quan niệm rằng người ta có thể yêu một lần bốn cô...” An lao đao cả tâm hồn. Anh ấy là ai? Chắc hẳn phải là một anh cán bộ nào đó gần gũi với mấy cô nữ sinh viên. Nhưng tại sao người ta lại có một quan niệm lạ đời như vậy? Họ khinh thường người con gái Hà Nội quá đi: họ đă quan niệm nữ sinh Hà Nội như một người đàn bà dễ dăi trong t́nh yêu. Và một lần bốn cô. Rơ ràng đó là ư nghĩ của một tư tưởng bệnh hoạn, lưu manh.

 

An nghĩ đến Tân, so sánh giữa Tân với một số cán bộ sinh viên lănh đạo. Tân sống với t́nh cảm của ḿnh quá nhiều, nhưng Tân chưa bao giờ lừa dối ai. Phải sống thật với ḷng, sống thật với con người chân chính... Trong đời c̣n bao nhiêu là rơm rác, bao nhiêu là sâu bọ, làm sao mà biết được cái chân chính của một con người. Bằng đă giải thích và xây dựng cho nàng rất nhiều trong cuộc sống chung đụng giữa sinh viên. Những cô bạn của nàng cũng đă có cái hân hạnh đó và tất cả coi Bằng như một người anh. Bằng có đủ mọi quyền, kể cả quyền về t́nh cảm. Nhưng với quyền hành, Bằng có xứng đáng với ḷng tin của quần chúng không? Qua câu chuyện giữa Chi và Phụng, An bắt đầu đặt một câu hỏi. Nàng biết Phụng rất được Bằng chú ư và thường hay bàn bạc riêng với nhau. Có hôm Bằng và Phụng ở trong buồng riêng th́ thầm đến quá nửa đêm, mà nộI quy nhà trường th́ 10 giờ đúng là đi ngủ. Đó là một “trường hợp” đặc biệt và không ai có thể ṭ ṃ về Bằng trong khi anh ta đang “giải quyết vấn đề” ǵ đó cần thiết cho một cô sinh viên. Bằng gần Phụng nhiều cũng đúng, v́ chính Phụng đang thắc mắc nhiều về chồng con. Bằng vuốt tóc Phụng, xoa dịu lên vai Phụng cũng là đúng vậy thôi. Phụng cần được an ủi và Bằng là một người anh, đồng thời là cán bộ lănh đạo. Có hôm chính mắt An đă thấy Bằng đùa nghịch với Phụng trước mấy người bạn gái khác. Bằng đă tha thiết muốn xin cái huy hiệu Tiệp Khắc trên ngực Phụng. Phụng không cho và như thế là có cuộc giằng co “vui vẻ” cái huy hiệu trên ngực Phụng. An thấy khó chịu v́ ngực của một người con gái, dù là bạn trai thân đến đâu cũng không nên đùa quá trớn như vậy. Nhưng Bằng là cán bộ lănh đạo th́ hành động ấy phải chăng Bằng có thẩm quyền? Cũng như Bằng đă thắc mắc trước mọi người là Duyên có mang. Lúc ấy Duyên đang yêu Thái. Thế là do thắc mắc của Bằng phát sinh ra một dư luận. Người ta nh́n Duyên bằng con mắt hay hay, chờ đợi một cái ǵ sẽ đổi ở con người. Thế nhưng mấy tháng qua và năm học hết, Duyên vẫn thấy là Duyên lành mạnh, không “to” như ư nghĩ thắc mắc của Đảng.

 

An càng nghĩ sâu về sự săn sóc của Bằng nàng càng thấy khó chịu. Bằng dễ dăi và quá thân mật, với chị em. Thường ngày Bằng chỉ gần nữ mà xa nam. Hành động như trên đối với Phụng và Duyên, An không hoàn toàn đồng ư. Hơn nữa như câu chuyện giữa cô Chung và anh Bảo. Hai người đă yêu nhau bốn năm gần cưới, bỗng dưng Chung tuyên bố cắt đứt với Bảo. Chung bảo Chung không yêu Bảo nhưng Chung lại mới yêu Duy là một người học cùng lớp, ngồi chung bàn. Đây cũng không thể tŕnh bày qua vấn đề t́nh cảm mà cũng chỉ là trong tiêu chuẩn lập trường: Duy là đảng viên và Bảo chỉ là quần chúng. Chung có một sinh mệnh chính trị làm bậc thang cho đời ḿnh nên t́m yêu Duy. Bằng đă giải quyết cho hai người cắt đứt nhau, đồng thời có kiểm thảo Duy. Việc xảy ra, An cho là vô lư. Cách giải quyết của Bằng, dung thứ cho Duy phá t́nh yêu của bạn, thừa nhận sự phản bội t́nh cảm của Chung và quy kết khuyết điểm về Bảo, cho Bảo là không biết duy tŕ t́nh yêu. Bảo đă đau khổ, Chung th́ tự đắc về sai lầm mù quáng của ḿnh như một kẻ thắng thế, c̣n Duy th́ lại tỏ thái độ dửng dưng: “Chuyện tôi với Chung sở dĩ xẩy ra v́ tôi sống gần một người đàn bà. Tôi lại chưa có vợ... À đàn bà!”. Đó là quan niệm luyến ái của một cán bộ lănh đạo hay sao?

 

H́nh ảnh Bằng với đôi kính trắng gọng nạm vàng và h́nh ảnh Duy với một mắt to, mắt nhỏ luôn ám ảnh An. Đó là hai người trong những người lănh đạo. Tại sao những sự việc xẩy ra vô lư như vậy mà hai người lại quan niệm một cách quá giản dị, cái chân chính của con người là thế hay sao? Nàng nhớ lại câu nói của Tân đă trả lời Bằng về cuốn Số đỏ: “Th́ Số đỏ cũng là một chuyện đời, chuyện đời của một thằng Xuân biết lựa đời sống trong một h́nh thức giả tạo để mà lên đến ghế gọi là anh hùng”.

 

Th́ đây ngoài cái giả tạo đó, c̣n có cái giả tạo lừa lọc, phá hoại trắng trợn t́nh cảm của con người ta nữa.

 

An đau khổ từ trong tận cùng tâm hồn. Nàng nghĩ đến Tân, Tân không thể có những cái t́nh cảm bệnh hoạn như vậy. Tân không che giấu t́nh cảm của ḿnh và qua tiếng đàn của Tân người ta cũng có thể thấu rơ tiếng nói của con tim Tân. Tiêu chuẩn tư tưởng hay tiêu chuẩn t́nh cảm trong t́nh yêu? Cuộc sống như bị đóng khung, uốn theo cái nh́n của một số người lănh đạo. Họ - như hạng Bằng - không c̣n có trái tim biết xúc cảm nữa. Họ sống theo một h́nh thức giả tạo, một đạo đức lừa dối, trong đó họ có thể đề cao địa vị đảng viên của họ lên, đồng thời là đề cao cá nhân họ. Họ muốn quần chúng tôn sùng họ; họ là một ông thần nhỏ trong phạm vi hoạt động. Trong số những người đảng viên ít ỏi giữa quần chúng đông đảo, ai là người chân chính, ai là người đau xót cho da thịt của ḿnh có những phần rữa nát?

 

Không! An vẫn tin, ḷng tin vô cùng mănh liệt ở sự lănh đạo của Đảng Lao động, Đảng đă đưa nàng đến ánh sáng, với cuộc sống ư nghĩa - với con người. Nhưng An không thể chịu được một số đi sai lệch, sống t́m dựa vào một quyền uy. Mọi sự giải quyết t́nh cảm, phá hoại sức sống tuổi trẻ và bao việc đen tối, mập mờ khác của Bằng làm An thêm khó chịu. Nếu quần chúng mà sai lầm như vậy th́ không biết sẽ được kiểm thảo, được thành kiến, được quy kết tội lỗi đến một thời vực nào…

 

An bị giày ṿ trong ư nghĩ. Nàng chưa thể nh́n thấy chân lư của một vấn đề khi lực lượng xă hội đang ngày càng phát triển trong sức sống mới của dân tộc. Ngày qua, nàng mệt mỏi, choáng váng đầu óc như một người bị bệnh thần kinh. Nàng tự đấu tranh giữa lẽ phải và sai lầm. Nàng nghĩ hiện nay trong rất nhiều cơ quan hạng người như Bằng không phải là ít. Trong một giấc mơ, nàng thấy một người chiến sĩ tay cầm ngọn cờ hồng, ḿnh đẫm máu, nét mặt vô cùng đau khổ, nhưng cương quyết đang d́u bước nàng đi. Đàng sau là đêm tối, và đàng trước là ánh sáng b́nh minh rực rỡ. Người chiến sĩ đó đă nh́n An âu yếm:

 

“Đàng kia là b́nh minh của ngày mai. Em tiến tới đi, can đảm mà tiến tới!”

 

Nàng cảm động gục vào tay người anh hùng đó của dân tộc và khóc nấc lên…

 

Trong thoảng chốc, nàng có ư nghĩ là không thể có một hạng người như Bằng tồn tại trong cuộc sống của con người. Phải tẩy rửa đi, thanh toán đi. Tuổi trẻ và t́nh yêu không muốn và không thích có những bóng đen của lănh đạo, quan liêu, bè phái, hẹp ḥi bao trùm lên trên t́nh cảm của ḿnh, làm cho người ta hiểu lầm nhau, chia rẽ nhau.

 

Tuổi trẻ và t́nh yêu không muốn và không thích có những hạng “Lư Thông”, có những hạng cây tầm gởi sống bám vào cuộc sống đầy hoa mộng của ḿnh.

 

An muốn sống thật với ḷng ḿnh, sống với nhịp sống của con tim, với chân lư cuộc đời và trái tim của con người chân chính.

 

An mong đuợc gặp Tân nói với Tân rằng: “Em đă đếm những v́ sao và em đă đếm măi; đếm măi qua tận cùng của vũ trụ nhưng có một lần em đă không t́m thấy anh!”

 

An đi dài trên đường cỏ rộng, t́m nhớ lại kỷ niệm thoáng qua. Nhưng... An bỗng lùi bước lại. Một bóng đen lù lù đi tới choán rộng cả không gian. Ai? An bàng hoàng như cơn mê loạn, không nhận rơ được bóng đen đó. Nàng chỉ thoáng thấy qua ánh đèn chiếu hắt ra vội vă, đôi mắt kính và gọng nạm vàng. Toàn thân nàng run lên lo lắng. Ư nghĩ trở về với Tân chỉ c̣n mong manh như sợi tơ trời. Không! Đừng động mạnh bàn tay, hăy giữ cho sợi tơ kia bền chắc, hăy quấn nó, trộn nó với ḍng máu của con tim.

 

An lảo đảo đi trong đêm tối. Nàng không dám giữ lại h́nh ảnh Tân v́ bóng đen kia vẫn sừng sững. Nàng cố t́m cách xua đuổi nó đi…

 

An gục xuống một bên đường cỏ rộng, vẫn cái bóng đen với đôi kính gọng nạm vàng choán rộng cả không gian, choán rộng cả tâm hồn nàng.

 

Mây đen vẫn che mờ cả trăng đêm; và đường trăng mà không sáng…

 

Một cơn gió thổi về, xua tan những đám mây mờ ám. Ánh sáng xanh mát của trăng đêm lan dần trên cảnh vật mênh mông. Ánh sáng đó toả nhẹ trên da thịt An, thấm tận tâm hồn An, như đưa lại cho nàng sức sống. An vùng đứng lên hít mạnh khí trời ấm áp. Nàng nh́n theo ánh sáng của con đường nàng đi tới. Cuộc sống phải chăng vừa qua một cơn ác mộng, câu chuyện xẩy ra đă là quá khứ? An hát một bài ca của tuổi trẻ, tiếng hát hoà theo nhịp đập của con tim. Có tiếng cười nghịch phá của mấy cô bạn đang đùa tới:

 

“À, An đây rồi! Thế mà t́m măi.” Mấy người xúm lại quanh An, ríu rít trong từng câu nói. Cuộc đời... nếu không có những bóng đen!

 

10/56

 

(Trích Đất mới số 1, 1956) 

*

  

Chủ nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị

 

Lời soạn giả: Sau khi báo Nhân văn ra được mấy số th́ Đảng cử ông Hoàng Xuân Nhị, thạc sĩ triết học, viết bài công kích nhóm Nhân văn. Sau đây là bài của Bùi quang Đoài trả lời ông Nhị. Từ khi ấy không thấy ông Nhị trả lời mà Đảng cũng lờ đi không trả lời những điều mà tác giả bài này đă nêu lên. 

 

Trên báo Nhân dân ngày 16 và 17-10-56 có đăng bài “Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta” của ông Hoàng Xuân Nhị.

 

Bài này trên căn bản cũng không khác ǵ những bài của các ông Nguyễn Chương, Xuân Trường, Quang Đạm cũng đăng trên báo Nhân dân và cùng nằm trong phạm trù những ư kiến là có ư đổ cho anh em Nhân văn và Giai phẩm là muốn tách rời văn nghệ khỏi chính trị, chịu ảnh hưởng của nhân văn tư sản, không chịu sự lănh đạo của Đảng, nói xấu chế độ v.v…

 

Sau đây là những ư kiến tôi đặt lại vấn đề với ông Hoàng Xuân Nhị. Trong nhận thức sai lầm của ông và ư kiến văn học của Lê-nin.

 

Trong bài “Tổ chức của Đảng và văn học của Đảng” mà ông Hoàng Xuân Nhị dịch là “tổ chức của Đảng và văn học có Đảng tính” của Lê-nin đă nêu lên hai vấn đề:

 

1.   Vấn đề văn học của Đảng nghĩa là văn học tuyên truyền cho những nguyên lư tư tưởng và tổ chức của Đảng Bôn-sê-vik.

 

2.   Vấn đề đảng tính trong sự sáng tác văn học, theo nghĩa rộng của nó. (Những ư kiến này chúng tôi dựa vào tập Lê-nin và những vấn đề văn học Nga của Boris Meilakh. Nhà xuất bản Xă hội 4-4-56).

 

Sự phân biệt hai vấn đề này rất quan trọng, nếu không rất dễ đi đến những hành động máy móc, hẹp ḥi, thô bạo.

 

Trong vấn đề văn học của Đảng, Lê-nin viết: “Tất cả văn học của Đảng, dù là địa phương hay Trung ương phải phục tùng một cách vô điều kiện Hội nghị của Đảng và những tổ chức địa phương hay trung ương của Đảng. Sự tồn tại của một văn học của Đảng mà không liên hệ với Đảng theo tổ chức th́ không thể dung nạp được.” (Lê-nin toàn tập cuốn X, trang 144). Đó là thời kỳ trước cách mạng 1905-1907, Đảng Bôn-sê-vik tích cực hoạt động chống bọn Men và báo chí của chúng đang tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Mác-xít dưới danh nghĩa “mác-xít”. Ông Hoàng Xuân Nhị đă máy móc đưa thời gian lịch sử của thời kỳ trước cách mạng 1905-1907 đem áp dụng vào hoàn cảnh xă hội ta hiện nay.

 

Chính trong nguyên tắc căn bản đó, Lê-nin đă nhắc nhở các nhà văn của Đảng là “Sự nghiệp văn học phải trở thành một bộ phận trong toàn bộ sự nghiệp của giai cấp vô sản, phải trở thành một bộ phận cấu tạo trong công tác của Đảng…” Theo tinh thần nguyên tắc đó các nhà văn của Đảng, các nhà văn đảng viên, các nhà văn viết trên báo chí của Đảng, tuyệt đối phải chịu sự lănh đạo trực tiếp của Đảng, của tổ chức của Đảng, không được nhân danh Đảng để tuyên truyền những quan điểm chống Đảng (cuốn X, trang 31), và khi Lê-nin viết “đả đảo những nhà văn học phi Đảng” (mà ông Hoàng Xuân Nhị chú thích sai là chống lại Đảng thời ấy) chính là nhằm phản đối những nhà văn đảng viên chủ trương đứng trên tổ chức của Đảng, phản đối những nhà văn Men-sơ-vích tán thành sự công tác của nhà văn xă hội dân chủ với các tờ báo tư sản (lúc bấy giờ là giai cấp cầm quyền). Nó hoàn toàn không giống một chút nào với trường hợp của anh em Nhân văn và Giai phẩm đương đấu tranh đ̣i mở rộng tự do dân chủ chống những tệ lậu của lănh đạo. Gán ghép như ông Hoàng Xuân Nhị tỏ ra rằng một là ông Nhị không tiêu hoá được tài liệu, hai là ông Nhị đă lợi dụng tài liệu một cách xuyên tạc. Nó không đúng với tinh thần trung thực của người trí thức.

 

Ông Nhị c̣n đề nghị:

 

“Bài của Lê-nin được viết ra cuối năm 1905 thời mà Đảng chưa lên nắm chính quyền. Đến lúc Đảng đă nắm chính quyền rồi th́ lẽ cố nhiên nguyên tắc Đảng lănh đạo và tổ chức lănh đạo chuyên môn lại càng chặt chẽ hơn nữa”.

 

Sáng tỏ và chặt chẽ hơn, đồng ư. Nhưng chặt chẽ như thế nào? Có phải chặt chẽ là văn học nhất cử nhất động phải tuân theo ư kiến của một phái, chặt chẽ là chuyên môn vâng theo những ư kiến về chuyên môn của một số lănh đạo không am hiểu về chuyên môn không?

 

Danh từ chặt chẽ buông xuôi như thế, rất có thể dẫn đến những sai lầm tai hại.

 

Vấn đề thứ hai là vấn đề đảng tính trong văn học.

 

Lê-nin đă giải thích văn học có đảng tính như thế nào? Trong sự đấu tranh chống lại văn học tư sản địa vị chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa, vô chính phủ v.v… “Lênin đă đề nghị sáng tạo ra một nền văn học xă hội chủ nhĩa, thực sự tự do và liên hệ công khai với văn học của giai cấp vô sản. Theo ư Lê-nin th́ nền văn học đó phải thấm nhuần tư tưởng xă hội chủ nghĩa. Nó phải phục vụ cho hàng triệu triệu người lao động, những người con ưu tú, sức mạnh và tương lai của đất nước. Nền văn học đó phải là mối dây nối giữa kinh nghiệm quá khứ và cuộc đấu tranh hiện đại của giai cấp vô sản.” (B. Leilakh)

 

Văn học có đảng tính là như thế. Nó là một nền văn học “thấm nhuần tư tưởng xă hội chủ nghĩa, công khai bênh vực quyền lợi của nhân dân đứng trên lập trường của Đảng”. Cho nên văn học có đảng tính tuyệt đối không có nghĩa là văn học của những nhà văn trong tổ chức của Đảng. Càng tuyệt đối không có nghĩa là bắt buộc tất cả mọi nhà văn phải vào tổ chức của Đảng. Một tấm thẻ đảng viên không thể bảo đảm được đảng tính của một tác phẩm văn học. Trái lại một tác phẩm văn học có đảng tính rất có thể là của một nhà văn đứng ngoài tổ chức của Đảng.

 

Ví dụ: Mai-a-cốp-ski, Lỗ Tấn v.v…

 

Văn học có đảng tính nghĩa là văn học có lập trường đấu tranh rơ rệt trong “ư nghĩa thống nhất và tự nguyện” của những người sáng tác văn học xă hội chủ nghĩa. Như thế th́ người sáng tác có đủ mọi quyền tự do của ḿnh, tất nhiên cả quyền tự do tư tưởng, có quyền đi sâu vào từng sở thích riêng của ḿnh. Lê-nin đă viết:

 

“Trong lănh vực đó, tuyệt đối cần phải bảo đảm một sự tự do rộng lớn cho sáng kiến cá nhân, cho các khuynh hướng cá nhân, bảo đảm sự tự do tư tưởng và sức tưởng tượng, sự tự do về h́nh thức và về nội dung.” (Cuốn X trang 28)

 

Ta thấy ngày trước Lê nin đă có một quan niệm rộng răi trong sự sáng tác văn học. Chính Lê-nin đă khiêm tốn trả lời Clara Zetkin khi hoạ sĩ này hỏi ư kiến Lê-nin về hoạ lập thể và vị lai:

 

“Tôi không biết nhiều về lănh vực đó, nhưng tôi nghĩ rằng nếu những nhà nghệ sĩ trẻ tuổi biểu lộ nhiều cảm xúc của ḿnh trước những xu hướng đó th́ nó phải có một lư do hợp lư và người ta cần phải phân tích cái lư do đó theo quan điểm xă hội học.” (Les Lettres Francaices số 609)

 

Lê-nin đă không kết án phái hoạ đó và Lê-nin đă đặt vấn đề cần phải phân tích nghiên cứu nội dung xă hội của nó…

 

Do sự không phân biệt nổi hai vấn đề văn học của Đảng và văn học có đảng tính trên, nên chỉ quan niệm về tự do tư tưởng ông Nhị cũng đă ngă vào những sai lầm nghiêm trọng:

 

Hoàng Xuân Nhị chứng minh rằng sở dĩ các nhà văn nghệ được tự do tư tưởng là nhờ Đảng. Ông đă đem ví dụ con chim bay trên bầu trời xanh để làm chân lư phổ biến muôn đời. Trong lịch sử tư tưởng của con người, người văn nghệ sĩ cũng như người khoa học, triết học qua bao chế độ khác nhau, dù bị giai cấp thống trị hành hạ, giết chết cũng không v́ quyền uy mà huỷ bỏ ư kiến sáng tạo của ḿnh: M. Servet và L. Vanini trên giàn củi lửa cũng không từ bỏ tư tưởng khoa học của ḿnh; Cao Bá Quát đâu có v́ lưỡi đao bạo lực của triều Nguyễn mà mất cái khí thế ngang tàng bất khuất của kẻ sĩ biết tự trọng.

 

Xuất phát từ lệch lạc đó, Hoàng Xuân Nhị cho rằng nhờ có Đảng mới có tự do tư tưởng. Như ư kiến tôi vừa tŕnh bày, tôi hỏi lại ông Nhị là có Đảng rồi mới có quần chúng hay có quần chúng rồi mới có Đảng? Như thế th́ rơ ràng là không phải có Đảng người văn nghệ sĩ mới có tự do tư tưởng mà ngay những thế kỷ trước cũng như thời kỳ trước cách mạng, mặc dầu thực dân đàn áp khủng bố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan vẫn kiên quyết tự do tư tưởng, tố cáo “cái xă hội chó đểu” buộc tội giới cầm quyền bấy giờ. Lúc ấy họ ấy họ có là đảng viên đâu; chỉ có là sáng tác phẩm của họ chịu ảnh hưởng ít nhiều của phong trào đấu tranh cách mạng mà thôi.

 

Như thế th́ tự do tư tưởng không phải là một vấn đề do Đảng ban ơn cho quần chúng như ông Nhị đă lầm tưởng. Sở dĩ quần chúng văn nghệ sĩ mến Đảng, tin Đảng, thừa nhận sự lănh đạo là v́ Đảng là người lính tiền phong trong đội quân tự do tư tưởng đó, đă đấu tranh v́ quyền lợi của nhân dân lao động cũng là mục đích của họ đấu tranh trong sáng tác văn học. Đảng tạo điều kiện tốt cho người ta tự do tư tưởng.

 

Trên đây, tôi đă trả lời ông Hoàng Xuân Nhị về một điểm lư luận chủ chốt trong bài của ông.

 

Tôi xin nói qua một số điểm khác. Để chứng tỏ những non yếu trong kiến thức của ông Nhị, và đề nghị ông nên khiêm tốn học hỏi hơn.

 

Dưới cái đầu đề rất to “Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta”, dưới những đề mục có vẻ khoa học ông Nhị đă có những lập luận nông cạn và sơ đẳng.

 

Chẳng hạn trong mục “Quan điểm khoa học” ông viết: “Không sùng bái cá nhân v́ bản thân ḿnh quá sùng bái cá nhân ḿnh th́ không hay ho ǵ hơn và chắc cũng đă kém hay ho hơn là sùng bái lănh tụ”.

 

Thật là lư luận buồn cười. Theo ông Nhị th́ có lẽ khuyết điểm sùng bái cá nhân nặng nhẹ tuỳ theo cấp bực, sùng bái cán bộ cao cấp th́ hay ho hơn sùng bái cán bộ trung cấp v.v… Thật là phê b́nh bệnh sùng bái cá nhân mà bệnh sùng bái cá nhân nó lại tḥ ra ngay từ túi ḿnh. Quan điểm ông đưa ra không khoa học như ông tưởng.

 

Đấy là về khoa học. Bây giờ về nghệ thuật. Nói về chủ nghĩa lập thể và Picasso, ông Nhị viết: “Trong khoảng 8 năm hoạ sĩ đă tiến nhiều… chúng ta không hoan nghênh phần lập thể hoặc đa đa chủ nghĩa nơi hoạ sĩ là đúng thôi” (thật là oan cho Picasso v́ Picasso có theo chủ nghĩa đa đa bao giờ đâu, có lẽ ông Nhị nên nghiên cứu thêm về văn học và nghệ thuật thế giới hồi đầu thế kỷ XX để nắm vững hơn) “… Và phần tiến bộ của hoạ sĩ vượt khỏi hẳn chủ nghĩa đa đa, như con chim bồ câu hoà b́nh…”

 

Chết thật! Nói về tác phẩm nghệ thuật của Picasso mà chỉ nhắc đến con chim bồ câu hoà b́nh thôi th́ tai hại quá. Chúng ta không phủ nhận giá trị của con chim bồ câu, nhưng không biết ông Nhị có biết đến bức Guernica hồi chiến tranh Tây Ban Nha và bức Chiến tranh và Hoà b́nh hồi gần đây không? Nó vẫn lập thể đấy ông Nhị ạ! Mà hội hoạ thế giới vẫn công nhận nó, mà Aragon người phụ trách văn nghệ của Đảng Cộng sản Pháp vẫn ca ngợi nó.

 

Ông Nhị thường hay dẫn Lê-nin, sao ông Nhị không học Lê-nin về thái độ khiêm tốn, tôn trọng tự do sáng tác và nghệ thuật độc đáo, tôn trọng cá tính con người? Ông Nhị đă vội vàng chê trách người ta là quá ư nông nổi…

 

Ông Nhị sa vào sai lầm đó cũng dễ hiểu. Bởi lập luận như Palisse th́ nguyên nhân chính là v́ Lê-nin là Lê nin và ông Hoàng Xuân Nhị mặc dầu luôn nhắc đến Lê-nin cũng vẫn chỉ là ông Hoàng Xuân Nhị.

 

Trong một bài báo ngắn tôi đă cố gắng tŕnh bày vài sai lầm hoặc vài thiếu sót của ông Nhị về mặt kiến thức. Tôi xin đề nghị với ông Nhị một điều mà ông Nhị đă từng đề nghị với anh em Nhân văn và Giai phẩm: cố gắng nghiên cứu, suy nghĩ để giữ cho được bản chất trung thực của người trí thức.

 

(Trích báo Nhân văn số 4 ngày 5-11-1956)

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính