Trăm hoa đua nở trên đất Bắc

 

Hoàng Văn Chí

 

Tiếp chương I, phần II: Phái cựu học - Cụ Phan Khôi

 

Ông Năm Chuột

 

Lời soạn giả: Chính v́ bài này mà tờ báo Văn bị đóng cửa ngay tức khắc. Cộng sản đă tinh ư nhận ngay ra thâm ư của tác giả. Với một câu chuyện vu vơ, cụ Phan muốn nói: Giai cấp thống trị ở bất cứ thời đại nào cũng thối nát mà vẫn cứ cố che đậy. Mặc dù che đậy, trong dân gian vẫn có người thấy rơ.

 

Hồi tôi c̣n mười bốn tuổi, mười lăm tuổi, th́ đă nghe người làng nói nhiều về cái tên Năm Chuột. Về gốc gác của hắn, chỉ thấy nói là người làng Kỳ Lam, cái làng ở phía bắc làng tôi cách một con sông, về sau có cái ga xe hoả gọi là ga Kỳ Lam, c̣n mọi sự khác không biết rơ. H́nh như hắn cũng không có nhà cửa, cha mẹ, vợ con ǵ ở làng. Hắn làm thợ bạc, quanh năm đi làm nghề ở các nơi, nhất là các nơi đô hộ, như Huế, Đà Nẵng, Hội An.

 

Họ nói Năm Chuột là thợ bạc khéo nhất đời, ở Huế có nhiều thợ bạc danh tiếng cũng phải chịu thua. Nhưng lại nói hắn tổ làm đồ vàng giả, mỗi khi được gọi đến nhà làm đồ nữ trang cho người ta, nhà chủ dù ngồi cạnh một bên, hắn cũng cứ tráo bạc, tráo đồng vào, lấy vàng ra, không làm sao biết được. Bởi vậy cả vùng quê chúng tôi, những nhà giàu có, vốn biết Năm Chuột là thợ khéo, nhưng không ai dám thuê hắn làm việc ǵ về cái nghề của hắn cả. Nhiều người c̣n nói Năm Chuột đúc súng, đúc bạc giả được. Mỗi khi nói điều ấy, họ làm ra vẻ bí mật, h́nh như họ có ư ngờ cho Năm Chuột định làm một việc ǵ lớn, “làm giặc” chẳng hạn.

 

Nhưng không biết thế nào, người ta lại cho Năm Chuột là kẻ nói láo nói phét, vào cái hạng “mười voi không được bát nước xáo” tức là mắng người ấy đă lại nói láo nói phét rồi, có khi chỉ dùng độc một chữ: Chuột quá, tức là láo quá.

 

Lúc bấy giờ tôi đang đi học ở những nơi cách xa làng, mỗi khi về làng, lại thỉnh thoảng nghe người ta nói chuyện về Năm Chuột như thế, như thế, tôi cũng chỉ nghe làm tai mà thôi, không để ư mấy. Mà hẳn thế, cậu cả con quan phủ, học giỏi có tiếng, đang lo xôi kinh nấu sử để khoa tới đây đỗ thủ khoa, không th́ cũng cử nhân năm tên trở lên, việc ǵ mà phải để ư đến chuyện một anh thợ bạc.

 

Năm hai mươi tuổi, tôi thi đỗ tú tài - quái lạ, sao lại đỗ tú tài? - về nhà, cách mấy hôm th́ tôi đi về làng Xuân Đài thăm bà ngoại tôi và cậu tôi. Ở ăn một bữa cơm trưa, đến xế chiều, tôi cáo về th́ vừa có một người đến. Người trạc dưới bốn mươi tuổi, mặt trẹt, nước da xanh xám, mắt sáng, miệng rộng, hai môi trề ra, hàm và cằm như nguyên không có râu, không phải cạo, người thấp song cũng không thấp lắm, đầu trọc, quấn cái khăn vải đen, áo cộc cúc giữa, quần đến đầu gối, chân mang dép da sống. Người ấy lúc vào đến cửa, hai tay cắp cái nón lá ngang ngực cúi chào cậu tôi, khi bỏ cái nón lá ra, mới thấy trong tay c̣n cầm một cái nữa mà sau này tôi mới biết đó là cái dọc tẩu. Nó là cái ống tṛn mà dài, thấy thoáng như có khảm xà cừ và bịt bạc, bịt vàng ǵ đó. Cậu tôi như chào như không phải chào:

 

“Anh Năm phải?”

 

“Dạ, lâu lắm, có thể quan lớn quên tôi.”

 

Tôi nguyên đă cáo về rồi, cho nên dù có gặp một người khách mới vào hơi lạ như thế cũng cứ việc ra về. Không ngờ khi tôi ra khỏi cổng, lên đường về mới một chặng, nghe có người chạy theo đằng sau gọi tôi đứng lại, th́ ra là người thấy lúc năy. Anh ta tự giới thiệu:

 

“Tôi là Năm Chuột đây.” Rồi đột ngột hỏi tôi:

 

“Nghe nói cậu đậu tú tài mà cậu khóc, có phải không? Giả sử cậu được đậu thủ khoa th́ cậu làm nên cái tṛ trống ǵ?” 

 

Một gáo nước lạnh xối vào xương sống! Tôi bẽn lẽn, ấp úng, cười h́ h́ không trả lời được. Bởi v́ cái lẽ anh ta nói đó tôi cũng có nghĩ tới, nhưng không đi thi th́ thôi, đă đi thi th́ lại muốn đậu to. Thế rồi Năm Chuột đi cùng đường với tôi, vừa đi vừa nói chuyện.

 

Anh ta có đưa cái dọc tẩu lên, nói với tôi:

 

“Ông cậu của cậu thật là keo quá, cái dọc tẩu thế này mà cầm trả có 5 đồng bạc.”

 

“Hoặc giả cậu tôi không có nhiều tiền chăng?”

 

Tôi nói cho có nói, chứ không có ư ǵ cả. Nhưng anh ta căi phăng:

 

“Quan lớn hồi xưa (chỉ ông ngoại tôi) làm đến Tổng đốc Hà Nội vừa chi, mà không có tiền lợp nổi cái nhà của ông bà để lại đă tróc ngói; c̣n ông phủ (chỉ cậu tôi) mới làm Tri phủ có 3 năm về „chung dưỡng‟, mua được những mươi mẫu ruộng, tôi biết là hạng đất tốt nhất, thế sao nói là không có nhiều tiền?”

 

Tôi thấy cái điều anh ta nói đó h́nh như đúng, tôi làm thinh. Bỗng dưng anh ta cất tiếng cười một cách rất xỏ lá, rồi nói tiếp:

 

“Ai có đời, cha chết v́ đánh Tây mà con trở đi làm quan với Tây!”

 

Nghe câu này tôi cảm động quá. Tôi không dám chống lại ư anh ta, chỉ nói như vớt vát một ít:

 

“Thấy bà ngoại tôi kể chuyện, lúc ông ngoại tôi mất rồi th́ cảnh nhà sa sút quá đỗi, nếu cậu tôi không làm như thế th́ đến lụn bại mất.”

 

Anh ta bĩu môi, cái môi đă trề rồi, c̣n bĩu nữa, rất khó coi:

 

“Ra chỉ có làm quan mới cứu văn được nghiệp nhà. Thế th́ bao nhiêu người không làm quan, họ đều đi ăn mày hết.”

 

Tôi lại làm thinh. Ngừng một lúc, anh ta nói tiếp:

 

“Hèn chi mà quan lớn chết ở Hà Nội năm Ngọ, năm Dậu thất thủ kinh đô, Nghĩa hội nổi lên đánh Tây, năm Hợi Tây kéo lên đóng đồn ở chùa Phi Phú, th́ ông cậu của cậu đă làm bang tá trong cái đồn ấy. Để làm ǵ? Cậu có biết không? Để đàn áp Nghĩa hội.” 

 

Những chuyện ấy, thầy mẹ tôi có kể cho tôi nghe hồi c̣n nhỏ, tôi biết cả, nhưng tảng lờ nói:

 

“Tháng tám năm Hợi, mẹ tôi mới đẻ tôi ra, tôi làm ǵ biết được những chuyện ấy?”

 

Anh ta lại cười, nhưng không xỏ lá, nh́n vào mặt tôi:

 

“Thấy người ta nói cậu thông minh, nói chuyện với cậu, tôi cũng thấy cậu thông minh thật.”

 

Th́nh ĺnh anh ta nhảy mũi dặp hai ba cái, lấy khăn lau nước mũi, cả nước mắt nữa, rồi nói thêm:

 

“Như tôi, (anh ta lấy tay phải ấn vào ngực) ghiền thuốc phiện cho đáng, chứ ông cậu của cậu mà cũng hút th́ hết thảy những người nghiện chúng tôi đều phải lấy làm lạ.”

 

“Sao vậy?”

 

“Quan lớn hồi xưa có cùng mấy ông em lập một bản gia ước, trong đó có một điều cấm con cháu hút thuốc phiện, nếu phạm th́ trừng trị bằng những cách nào đó. Thế mà dám phạm. Đủ biết con người của ông cậu của cậu là vậy đó: cái ǵ cũng làm nghịch lại với cha.”

 

Cái gia ước mà anh ta nói đây, tôi không hề biết, v́ không hề nghe ai nói tới.

Nhưng tôi nghĩ, nếu đúng như thế, th́ anh ta nói cũng có lư. Tôi lại làm thinh.

 

Đây đă đến chỗ con đường rẽ vào nhà tôi, tôi đứng lại, nói mấy lời từ biệt. Năm Chuột nắm lấy tay tôi và nói:

 

“Tôi nói năy giờ có làm mếch ḷng cậu không? Ở đời có thiếu ǵ chuyện nói, hà tất tôi gặp cậu lần đầu phải nói để làm mếch ḷng cậu, nhưng t́nh cờ gặp câu chuyện đáng nói th́ cứ nói.”

 

Rồi anh ta tỏ ư mong gặp tôi lần khác.

 

Tôi vừa đi về nhà vừa nghĩ, “à ra Năm Chuột là con người như thế đấy”. Là một anh thợ bạc, sao lại nói được những điều như thế, tôi lấy làm lạ.

 

Tối hôm ấy, tôi đem cả câu chuyện Năm Chuột nói với tôi kể lại cho thầy tôi nghe. Thầy tôi bảo:

 

“Cái thằng láo đến thế là cùng!”

 

“Nhưng những điều hắn nói, con thấy như cũng có cái đúng.” Tôi rón rén thưa lại.

 

“Đúng kia à? Mặc dầu đúng chăng nữa, cái hạng thằng Năm Chuột mà lại được nói thế à?”

 

Thấy thầy tôi nói hơi xẵng, tôi làm thinh. Một chặp tôi mới dịu giọng hỏi:

 

“Cái gia ước ông ngoại lập ra mà Năm Chuột nói đó, thầy có biết không?”

 

“Tao không biết. Thấy nói sự cấm hút ấy ở nhà Đông bàn (nhà quan thượng Phạm Phú Thứ) th́ có, c̣n nhà Xuân Tài, tao không nghe.”

 

Đến lúc tắt đèn, đi ngủ rồi, thầy tôi c̣n nói một ḿnh:

 

“Cái thằng láo quá!”

 

Đó về sau hơn mười năm, tôi không gặp lại Năm Chuột lần nào. Chừng vào khoảng 1920, một lần tôi ở Hà Nội về nhà, thấy người ta nói Năm Chuột bây giờ lập gia đ́nh ở ngụ tại làng tôi, tôi bỗng có cảm giác như là một vật ǵ ḿnh đă bỏ quên đi mà bây giờ thấy lại. Làng tôi có một chỗ gọi là cồn Mũi gươm, có một vạt đất gọi là đất Chó ỉa, theo lời th́ Năm Chuột đă xin làm cái túp tranh trên vạt đất ấy, và cưới vợ là con gái quá lứa của một nhà có môn bài bán rượu và thuốc phiện cũng ở làng tôi. Hắn vẫn làm thợ bạc.

 

Một hôm tôi đến thăm, thấy trong nhà chỉ có một căn ván nhỏ, trên đặt cái bàn đèn, một cái buồng che phên tre, ngoài ra là cái ḷ bễ bạc để ngay chỗ cửa ra vào. Bấy giờ gần đến Tết, trời hơi lạnh, hắn ở trần, ngồi cạnh cái ḷ bễ đang hơ cả người trên lửa. Hắn xin lỗi tôi và nói: “Người ta tắm bằng nước, nhưng tôi quanh năm tắm bằng lửa. Hơ thế này cho đổ mồ hôi ra, kỳ sạch ghét, th́ cũng chẳng khác tắm bằng nước.” Hắn mời tôi ngồi trên ván, tôi không ngồi, ngồi trên cái đ̣n kê đặt ở đất gần ḷ bễ, chỗ sắm cho bạn hàng ngồi xem hắn làm việc.

 

Anh ta không tắm nữa, mặc áo vào, cho than thêm vào ḷ bễ, bắc ấm nước lên, rồi gọi vợ súc cái b́nh tích trà hăm đi, cho trà khác vào, pha nước mời tôi uống và sưởi lửa, cũng nói chuyện. Lần này anh ta gọi tôi bằng ông, nói rằng:

 

“Mười năm về trước tôi mong lại gặp ông mà không được gặp, lần này gặp, tôi không có chuyện nói.”

 

“Ông mà thiếu ǵ chuyện, như chuyện nói với tôi năm nọ khi đi đường từ Xuân Đài đến Bảo An.”

 

Anh ta đưa tay lên khoát khoát, nói thật nhanh:

 

“Thôi thôi, đă lâu nay tôi không c̣n nói những chuyện như thế nữa. Nói không có người nghe mà c̣n có hại. Giá tôi c̣n cứ nói cái lối đó th́ không thể nào lấy vợ và lập gia cư ở làng ông được.”

 

Tôi nói:

 

“Đă thế th́ đến phiên tôi. Trước kia ông không sợ mếch ḷng tôi, th́ bây giờ tôi cũng không sợ mếch ḷng ông mà hỏi ông một vài điều.”

 

Anh ta cười một cách thẳng thắn.

 

“Được lắm, những nhà giàu làng tôi họ đều nói ông hay ăn cắp vàng nên họ không dám thuê ông làm cái ǵ hết, bây giờ ông vác ḷ bễ đến đây làm ǵ?”

 

Anh ta lại cười, nói dằn từng tiếng:

 

“Sở dĩ tôi ở đây là v́ có thể chữa đồng hồ, xe đạp, bút máy, khoá tây, nội những việc đó đủ cho tôi làm hàng ngày rồi, c̣n sự làm đồ vàng bạc th́ chỉ thỉnh thoảng mới có.”

 

“Nhưng tôi muốn biết ông quả có ăn cắp vàng không? Và ăn cắp như thế nào?”

 

Anh ta lại cười một cách xỏ lá:

 

“Thứ ăn cắp mà kể ǵ? Có những kẻ ăn cướp th́ không ai nói đến. Tôi có ăn cắp vàng thật đấy, nhưng cũng tuỳ chỗ tuỳ người, ở làng Bảo An đây th́ tôi không thèm.”

 

Rồi anh ta thuật lại chuyện ăn cắp vàng cho tôi nghe:

 

“Năm Thành Thái thập nhị, ông Nguyễn Hữu Thẳng làm Tổng đốc tỉnh ta, cô hầu ông ấy gọi là cô Hoá Mộc, tuy cô hầu mà oai quyền như bà lớn. Một hôm, tôi được trát đ̣i đến, lính bẩm báo rồi dắt vào nhà trong. Cô ta muốn tôi ở lại đây làm cho cô một đôi ṿng chạm y như đôi cô có sẵn, và hỏi tôi có thể làm được không. Tôi nói „được‟, và xin cho xem đôi ṿng chạm sẵn có của cô. Cô ta mở tủ lấy ra, toan trao cho tôi. Tôi có một vuông lụa trắng tinh khiết bỏ sẵn trong túi, bèn lấy lót trên bàn tay, rồi mới nhận lấy đôi ṿng tự tay cô đặt lên vuông lụạ Tôi đem ra chỗ sáng, cô đi theo. Tôi nhắc nhắc xem thử đôi ṿng nặng bao nhiêu, và cầm tuổi vàng cho thật đúng, ngắm xem những nét chạm cho thật đâu ra đó, c̣n vặn chỗ cái cổ ra coi thử có chữ hay dấu hiệu ǵ không. Xong rồi, tôi trả đôi ṿng lại và nói: „Bẩm bà lớn, đôi ṿng này khéo lắm, chỗ cổ vặn ra vặn vô của nó có khắc cái chữ, bà lớn có để ư không?‟ Cô ta nói: „Tôi biết, nó là chữ ngọc‟. Tôi nói: „Con có thể làm đúng y như thế, nhưng hôm nay con có việc riêng, không ở lại được, mười ngày nữa con xin đến làm hầu bà lớn, không dám sai hẹn‟. Cô ta đồng ư.”

 

Nói đến đây, anh ta nổi ngáp một ngoi đôi ba cái, rồi xin lỗi tôi cho lên ván đốt đèn hút mấy điếu, và mời tôi nằm đối diện nghe nói tiếp.

 

“Tôi về nhà, cầy cục làm mất sáu bảy ngày mới xong một đôi ṿng cốt giả mạ vàng. Đáng lẽ làm bằng đồng th́ được lợi nhiều hơn nhưng v́ có chạm phải làm bằng bạc. Thành khi rồi, xem tuổi vàng nét chạm cho đến cái chữ ở trong đều y hệt như đôi ṿng của cô Hoá Mộc, đem mà đánh tráo, có thánh cũng không biết…”

 

Tôi ngắt:

 

“Đành rằng ông làm một cái rất giống, c̣n như đồng cân của đôi ṿng, tức là sức nặng của nó, ông biết là bao nhiêu mà làm cho đúng được?”

 

“Ấy thế mới là tài.” Anh ta cười híp mắt mà không ra tiếng. “Chính ăn người là

 

   chỗ đó. Bất kỳ thử kim khí ǵ, tôi nhắc nhắc trên tay khắc biết đồng cân của nó đúng không sai. Chẳng tin, ông tháo cái dây chuyền đồng hồ đưa đây xem.”

 

Tôi tháo ngay cái dây chuyền để trước mặt anh ta. Kéo xong điếu thuốc anh ta đằng hắng một cái, ngồi dậy, cầm dây chuyền trên nhắc nhắc một cái rồi đứng dậy đi lấy cái cân tiểu ly đưa cho tôi, nói quả quyết:

 

“Ông biết mặt cân chứ? Cân xem. Cái dây chuyền này nếu nó là vàng th́ nó nặng hơn, nhưng nó là đồng mạ vàng cho nên nó chỉ có ba chỉ tám.”

 

Tôi cân, quả thật, ba chỉ tám hơi yếu một chút, song đem vào chỗ ba chỉ th́ hơi vát. Tôi kêu lên:

 

“Thế th́ tài thật. Xin chịu.”

 

Anh ta lại nói:

 

“C̣n một chỗ bí quyết nữa. Ông biết, vàng nặng hơn các thứ kim khí khác, nghĩa là vàng, bạc, đồng, ch́ cùng một thể tích th́ lượng của vàng phải nhiều hơn. Vậy th́ ḿnh muốn cho đồng cân của đôi ṿng giả bằng đôi ṿng thật, mà cái vóc của nó cũng chỉ bằng đôi ṿng thật, không to hơn, thế mới là khó. Nhưng cái đó có thực hành mới cắt nghĩa được, nói bằng miệng sợ ông cũng không hiểu.”

 

Nghỉ một lát anh ta kể tiếp đến cuộc đánh tráo:

 

“Đúng mười ngày tôi lại đến. Hai bên thoả thuận với nhau về điều kiện làm việc rồi, cô ta mở tủ lấy đôi ṿng và vàng diệp ra đặt trên sạp, rồi gọi tôi đến đứng bên cạnh xem cô cân. Cân đôi ṿng nặng một lạng hai - tôi chắc dạ lắm, v́ đôi ṿng giả của tôi cũng đúng một lạng hai - cho nhích một chút, định giao cả cho tôi. Tôi chưa nhận, xin cho xem đôi ṿng đă. Cô ta đứng dậy cầm bó vàng diệp cả chỗ một lạng hai cất vào tủ. Trong lúc đó tôi lấy đôi ṿng giả ra đặt trên bàn tay trái, đậy vuông lụa trắng lên trên. Khi cô ta quay ra đưa đôi ṿng cho tôi, tôi ch́a bàn tay có vuông lụa trắng ra nhận lấy cũng như lần trước. Tôi đi ra chỗ sáng ngồi xuống làm bộ xem lại đôi ṿng, cô ta cũng đi theo. Xem xong tôi đứng lên. Cô ta sấp lưng đi về chỗ sập. Tôi đi sau, lật cả ṿng và vuông lụa từ bàn tay trái qua bàn tay phải, thành ra đôi ṿng giả nằm trên, cứ thế mà trả lại cho cô ta, và tôi gấp nhanh vuông lụa có đôi ṿng thật ở trong mà bỏ vào túi. Cô ta hỏi: „Chứ chú thợ không giữ lấy để làm mẫu à?‟. Tôi nói: „Bẩm bà lớn, con xem hai lần như thế đủ rồi, xin bảo đảm làm thật đúng‟. Cô ta khen: „Hèn chi mà nổi tiếng là thợ khéo. Tôi nhờ ông Phủ Điện viết trát đ̣i chú là v́ có bà Phủ mách miệng‟. Bấy giờ chừng mười giờ sáng, tôi xin đi ra mua thuốc phiện rồi trở lại nhận vàng diệp bắt đầu làm. Ra đến chợ Vĩnh Điện, tôi đem đôi ṿng chạm vàng mười chính hiệu của bà lớn gửi cho một người anh em đồng đạo. Tôi không quên câu tục ngữ: „Có gian phải có ngoan‟.”

 

“Ông ăn cắp chỉ có thế, hay là lúc trở lại làm c̣n ăn cắp nữa?” Tôi hỏi.

 

“Không, tôi dại ǵ mà ăn cắp nữa. Trong những ngày làm, cô ta ngồi giữ một bên, không phải v́ thế mà tôi không ăn cắp được, có điều tôi đă định bụng không ăn cắp. Khi làm xong, tôi hỏi muốn khắc chữ ǵ. Cô ta ngẫm nghĩ rồi bảo: „Tôi là người Hoá Mộc, khắc chữ mộc cho tôi‟. Tôi khôn ở chỗ đó. Bởi v́ hai đôi ṿng giống nhau như hệt, có khắc chữ khác nhau để làm dấu th́ mai sau đôi giả có x́ ra, hắn mới không có thể ngờ được là đôi do tay tôi làm. Cho đến bây giờ tôi cũng c̣n ân hận là, như thế, sẽ làm cho ông bạn đồng nghiệp nào của tôi đă làm cho hắn đôi ṿng thật đó hoá ra là người bất lương thiện, nhưng ông tính, đă giết người ai c̣n gớm chảy máu!”

 

“Ông làm cái việc như thế có nhiều lần không?”

 

“Kể ra cũng không ít. Nhưng tôi đều ăn cắp ở bọn ăn cướp như Tổng đốc, Bố chánh, Án sát, Phủ, Huyện, chính cái bà Phủ nói lúc năy đă mất với tôi mấy lạng vàng mà không biết, đi mách miệng cho người khác. Những việc như thế  tôi cũng chẳng giấu, cứ hay đem nói với người ta cũng như nói với ông đây, cho nên mang tiếng, chứ thuở nay đă có ai bắt được tôi ăn cắp đâu.”

 

Hỏi đến sự đúc súng, làm bạc giả, anh ta bảo:

 

“Ta có nấu sắt được đâu mà đúc súng? Nhưng chữa súng th́ có. Hồi tôi ở Đà Nẵng, các thứ súng liệt máy của Tây thường đem thuê tôi sửa. Bạc giả th́ tôi có làm, nhưng tính ra không có lợi ǵ mấy, về sau tôi không làm nữa.”

 

Năm Chuột c̣n nói cho tôi nghe về tính chất của các thứ loài kim và phép hợp kim, như đồng và kẽm, mỗi thứ bao nhiêu, hợp nhau thành ra thứ ǵ, đồng và thiếc bao nhiêu, hợp nhau th́ thành ra thứ ǵ, nghe ra thông thạo như người có học chuyên môn. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi:

 

“Ông có học với thầy nào mà biết được những điều ấy là những điều mà các thợ bạc khác hầu như không biết?”

 

Anh ta vùng ngồi dậy, cười, ra điều đắc ư, vỗ vào đùi tôi:

 

“Xưa nay mới có một người hỏi tôi câu ấy, là ông! Tôi chẳng học với thầy nào hết, tôi chỉ đọc có một cuốn sách là cuốn Kim thạch chí biệt.”

 

Tôi sửng sốt, nghĩ bụng: té ra anh này c̣n biết chữ nữa ḱa. Cái tên sách ấy tôi chưa hề nghe, cũng không dám ngờ là anh ta bịa đặt. Một hôm khác tôi hỏi thầy tôi có biết cuốn Kim thạch chí biệt không, thầy tôi cũng chịu không biết, và hỏi tôi nghe ở đâu, tôi kiếm đường nói trớ, chứ không dám nói nghe ở Năm Chuột. Cho măi đến gần nay, đọc Lỗ Tấn toàn tập, tôi mới thấy trong đó có nhắc đến tên cuốn sách ấy. Tôi nghĩ mà lấy làm thẹn, sao ḿnh đă không biết mà lúc bấy giờ không hỏi ngay anh ta, chỉ v́ nghĩ ḿnh là người học thức viết báo viết biếc, mà tỏ cái dốt trước mặt một anh thợ bạc th́ ê quá.

 

Đó về sau mấy năm, mỗi năm tôi ở Hà Nội hoặc Sài G̣n về thăm nhà, đều có đến với anh ta. Anh ta c̣n in trong đầu tôi mấy câu chuyện lư thú và bất ngờ nữa.

 

Năm Chuột từng nói với tôi rằng từ rày anh ta không nói những chuyện như đă phê b́nh cậu tôi một cách không nể nang, nhưng rồi lại chứng nào tật ấy, vẫn không cải nết.

 

Một lần, phê b́nh nhân vật làng tôi, anh ta chê ông Tú nọ dốt, ông Bá kia keo kiệt, cuối cùng anh ta nói: “Tôi chỉ phục có hai người, một là ông Biện Chín, một là ông Tám Thứ.”

 

Ông Tám Thứ, người Minh hương, ở ngụ làng tôi, nghèo chuyên nghề làm thuốc, ít hay giao du với ai, tôi không biết ông ta cho lắm. C̣n ông Biện Chín, tên thật là Phan Định, chú ruột tôi, cha của Phan Thanh, Phan Bôi. Chú tôi là dân tráng, nghèo, cố gắng lắm mới cho con đi học được, nhưng đúng là người cần kiệm liêm chính lại khẳng khái nữa, chính tôi, tôi cũng phục chú tôi mà sợ thầy tôi. 

 

Tôi không tham gia ư kiến ǵ, chứ ngấm ngầm chịu anh ta là biết người, phê b́nh đúng. Nhưng, trước mặt tôi mà nói như thế, tôi ngờ anh ta có ngụ một thâm ư, là anh ta không phục thầy tôi. Thầy tôi đă đỗ đại khoa, làm quan, bỏ quan về làng, cầm cân nẩy mực cho cả làng, cả tổng, không có mang tai mang tiếng ǵ, nếu anh ta không lấy làm đáng phục, chắc anh ta thấy về khía cạnh nào đó. Từ đó tôi đâm ra áy náy, hoặc giả cha ḿnh cũng có khuyết điểm ǵ như cậu ḿnh, làm cho người ngoài phi nghị mà ḿnh không biết chăng. Tôi có đem hỏi chú tôi và thuật lại lời Năm Chuột khen phục chú, th́ chú tôi trách tôi sao lại đi nghe chuyện của Năm Chuột. Th́ ra chú tôi cũng có thành kiến đối với Năm Chuột như thầy tôi, như những người làng.

 

Lần khác, bỗng dưng anh ta hỏi tôi:

 

“Quan lớn nhà ta (chỉ thầy tôi) sao lại không làm quan nữa? Ông có nhớ lúc ngài bỏ quan mà về là bao nhiêu tuổi không?”

 

Tôi lấy làm lạ sao hắn lại hỏi ḿnh điều ấy. Song cũng cứ theo ḿnh biết mà trả lời:

 

“Thầy tôi tuổi Tuất, cái năm cáo bệnh mà về là năm Kỷ Hợi, mới có ba mươi tám tuổi. Sở dĩ không làm quan nữa, có lẽ là tại không chịu làm với Tây.”

 

Cho đến lúc tôi ngoài hai mươi tuổi, thầy tôi vẫn coi tôi như trẻ con, những việc như thế chưa hề đem nói với tôi. Có điều một đôi khi tôi nghe thoảng qua dư luận bên ngoài, nhất là lúc ở Hải Pḥng gặp Lê Bá Cử, ông ấy có kể cho tôi nghe khi ông làm phán sự toà án Nha Trang, thầy tôi làm tri phủ, có lần căi nhau kịch liệt với viên công sứ, chính ông đứng làm thông ngôn, th́ tóm tắt mà trả lời như vậy. Nhưng Năm Chuột hỏi vặn tôi một câu rất oái ăm:

 

“Ở làng này c̣n có hai ông nữa đều làm đến tri huyện, đều bỏ quan mà về trước tuổi hưu trí, vậy th́ ông cũng cho rằng hai ông ấy cũng không chịu làm quan với Tây hay sao?”

 

“Thằng cha khó chịu thật”, tôi nghĩ bụng. Không biết đối đáp thế nào với hắn, tôi phải nói một câu mà tự ḿnh cũng thấy là non nớt quá:

 

“Việc hai ông ấy th́ tôi không biết.”

 

Anh ta vẫn cười cái lối xỏ lá rất khả ố. Ngớt cơn cười mới b́nh tĩnh nói:

 

“Tôi cũng có nghe và biết về chánh tích và nhân phẩm của quan lớn nhà ta, nhưng tôi lại có một sở kiến khác, nói ra, ông đừng tưởng tôi cố ư làm đôi ṿng thật thành ra đôi ṿng giả th́ tôi mới nói.”

 

“Th́ ông cứ nói đi.”

 

“Làng Bảo An, người ta nói, không có đất phát quan lớn, mà kinh nghiệm xưa nay rành rành như thế. Từ trước bao nhiêu ông làm đến tứ phẩm trở lên đều bị cách tuột hết. Cho nên Đồng Khánh, Thành Thái đến giờ, ông nào cũng làm đến phủ huyện rồi kiếm cách từ chức mà về. Nếu nói không chịu làm quan với Tây th́ không làm từ đầu, chứ không có lẽ lúc mới ra làm, không biết rằng ḿnh sẽ làm với Tây. Hai ông huyện kia cầy cục măi đến ngoài bốn năm mươi tuổi mới về, c̣n quan lớn nhà ta về sớm là v́ mới 38 tuổi đă làm Tri phủ.”

 

Tôi làm như không để ư gật gật nh́n anh ta, kỳ thực tôi cho là cái sở kiến của anh ta đó, không biết chừng, là độc đáö. Làng tôi, tây giáp làng Đông Mỹ, đông giáp làng Xuân Đài, hai làng này đều có Tổng đốc, mà làng tôi, thi đỗ th́ đông, đại khoa cũng có, nhưng không có quan to. Thuở Tự Đức ông Nguyễn Duy Tự, làm đến Phủ doăn Thừa Thiên, ông nội tôi làm đến Án sát Khánh Hoà, cũng đều bị cách. Tôi không tin phong thuỷ, nhưng đó là sự thực. Hoặc giả các ông quan làng tôi, trong đó có thầy tôi, thấy thế mà sợ, làm đến phủ huyện lo rút lui cũng nên. Huống chi cái luận chứng của Năm Chuột rơ ràng mà đanh thép lắm, tôi bấy lâu trau dồi cái đức tính ngay thực của người viết báo, tôi không thể căi chày căi cối được.

 

Tôi thấy chắc chắn lắm, v́ tôi biết chịu chuyện cho nên anh ta thích nói chuyện với tôi, c̣n anh ta, hay nói cái lối móc ruột móc gan người ta như thế, cho nên họ mắng anh ta là nói láo nói phét.

 

Có một sự rất lạ. Một lần tôi đến chơi, vẫn ngồi trên đ̣n kê xem anh ta làm việc, liếc thấy trong cái thùng đựng đồ nghề có quyển sách, tôi tḥ tay lấy xem, th́ là một cuốn Thương Sơn thi tập không có b́a, đă xé mất nhiều trang. Tôi hỏi:

 

“Ông cũng có sách này à? Nó là một bộ đến mười cuốn, sao ở đây chỉ c̣n một cuốn?”

 

“Tôi có mà tôi xé để quấn thuốc lá hết, chỉ c̣n một cuốn, bởi v́ in bằng giấy quyến, quấn thuốc tốt lắm.”

 

  “Ông có xem qua chứ?”

 

“Thơ của ông Hoàng ḿnh xem thế nào được? Tôi chỉ xem được có mỗi một bài “Mại trúc diêu.”

 

Tôi phát lạnh người. Tôi có đọc thơ Thương Sơn rồi, tôi cũng không thích, nhưng cái bài “Mại trúc diêu” là bài thế nào, tôi có biết đâu? Chỉ v́ dấu dốt, tôi lại cứ làm thinh, không hỏi anh ta.

 

 

Về nhà, tối hôm ấy, tôi lật bộ thơ Thương Sơn ra t́m, t́m được bài “Mại trúc diêu”. Về sau, tôi dịch ra đăng báo Phụ nữ Tân văn, sau nữa, đem in trong Chương Dân thi thoại. Lục ra đây để bạn đọc thưởng thức cái mức thưởng thức văn học của anh thợ bạc:

 

Bài hát bán tre

 

Ngày đốn hai cây trúc

Bán đi để dằn bụng

 

Trong cửa tre đầy kho

Ngoài cửa tiền chẳng cho

Không nói th́ cũng khổ

Nói th́ roi dài sẽ quật chú

Rày về sau đừng đốn tre nữa

Đói nằm trong tre chết cũng đủ!

 

Từ khi biết Năm Chuột có biết chữ Hán nhiều, xem sách xem thơ được rồi, tôi có lúc đem văn học nói với anh ta, anh ta chỉ nghe và hỏi chứ không tỏ ư kiến. Tôi có ư trách. Anh ta giải thích thế này: “Người ta, cái ǵ biết ít th́ chỉ nên nghe chứ không nên nói, tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như ông không dạy nghề làm thợ bạc cho tôi.”

 

Anh ta làm thợ bạc, nhưng cũng kiêm luôn thợ rèn nữa mà là thợ rèn rất khéo. Những dụng cụ của anh ta như cái ḱm, cái búa, cái kéo, anh ta đều đi đến ḷ bễ rèn, ngồi mà tự đánh lấy. Cái đó th́ ở làng tôi có nhiều người biết, cái ḱm của anh ta đánh, ai cũng chịu là không kém của Tây.

 

Năm 1944, tôi ở Hà Nội, về nhà được mấy hôm th́ thầy tôi mất. Làm đám xong, tôi ở luôn trong nhà ba bốn tháng không ra khỏi cổng. Buồn quá, một hôm tôi đi t́m anh ta. Đến nơi, cái túp tranh không có nữa. Hỏi th́ người ta nói Năm Chuột dọn đi đâu đă lâu rồi. Từ đó tôi mất Năm Chuột của tôi.

 

Một lần, trước mặt ông Tú già, anh Giáp trong làng gọi Năm Chuột bằng ông, ông Tú già đập bàn quở: “Mầy gọi thằng Năm Chuột bằng ông, th́ gọi tao bằng  ǵ?” Tôi nghe mà tức ḿnh, cho nên bài này, tôi nêu đầu đề là “Ông Năm Chuột”.

 

PHAN KHÔI

 

*

 

Nắng chiều

 

Lời soạn giả: Nắng chiều là tên một tập sách cụ Phan mới viết gần đây, nhưng v́ chính quyền miền Bắc cấm, không cho phép xuất bản nên chúng tôi không thể nào kiếm được bản chính. May nhờ có bài đả kích cuốn sách ấy đăng trong báo Văn nghệ số 15, xuất bản trong tháng 8-1958, nên chúng ta có thể biết những nét chính về tác phẩm sau cùng của cụ Phan. Chúng tôi xin trích nguyên văn bài báo đả kích để tạm thời thay thế cho bản chính không có.

 

Tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi

 

Tháng 12-1957, Phan Khôi đưa đến nhà xuất bản Hội Nhà văn một xấp bản thảo dày, bên ngoài đề hai chữ Nắng chiều. Cái nhan đề gợi nhiều man mác bâng khuâng ấy, chứa đựng bên trong một nội dung ǵ? Người có thể nghĩ rằng đây là kết quả sáng tác vào những ngày gần cuối, lúc tuổi trời đă xế của Phan Khôi. Nó gồm nhiều bài bút kư, tạp văn viết từ đầu kháng chiến ở Việt Bắc đến hoà b́nh lập lại, và mấy bài viết sau khi về thủ đô.

 

Vào đầu, Phan Khôi ghi lại đời sống của những người nuôi vịt, cách chăm, cách lấy trứng v.v... gọi theo tiếng miền Nam là “Cầm vịt”. Cuộc sống phiêu lưu, nay

 

   vùng này mai ở vùng khác, chủ cũng như người làm công, đều làm lụng cực khổ như nhau, ăn uống có thịt gà như nhau, không có chi là phân biệt đối xử, không ai bóc lột ai cả.

 

“Tôi thấy làm cái nghề này tuy vất vả mà ăn ở như thế th́ đầy đủ lắm, giữa chủ và bạn cũng không có chi khác nhau. Ông chủ nói rằng nếu không thế th́ không thuê được người, chẳng những phải trả tiền thuê mỗi tháng mà cuối mùa c̣n phải chia hoa hồng cho anh em nữa, v́ thế, tuy được lăi nhiều mà vào tay người chủ không c̣n mấy.”

 

Quả như thế, th́ xă hội này, vấn đề đấu tranh giai cấp, quan hệ giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột, quan hệ giữa chủ và người làm công đặt ra cho có chuyện chăng? Chủ và khách quí và người làm công cùng ngồi uống chè Tân Cương, mua tận bên Thái, nói chuyện tự do mang sẵn gà theo để thay đổi thức ăn cho người làm công khỏi chán, chẳng những trả tiền công mỗi tháng mà cuối mùa c̣n chi hoa hồng cho người làm công: “Tuy được lăi nhiều mà vào tay người chủ không c̣n mấy”. Ở ngay bài đầu Phan Khôi muốn đặt một vấn đề ǵ? Phải chăng, Phan Khôi muốn đánh vào một vấn đề căn bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin? Xă hội không có đấu tranh giai cấp, không có chuyện ai bóc lột sức lao động của ai cả.

 

Tiếp theo là bài “Tiếng chim”. Phan Khôi dẫn ra một số chuyện cổ tích về một vài giống chim ở Việt Bắc, h́nh dáng, tiếng kêu của nó v.v... Trong đó phần chính nói về con quạ. Ở một đoạn Phan Khôi viết:

 

“Một lần ở Cẩn Nhân, tôi ngồi nơi nhà sàn, thấy hai con quạ ŕnh bắt gà con, một con bắt được bay ra đứng ở bờ ruộng, xé con gà ra ăn; c̣n con kia bị gà mẹ chống cự, bắt không được cũng bay đi tuốt, nó không hề nói: „Mầy phải cho tao với!‟.”

 

Vấn đề thứ nhất Phan Khôi đặt ra là không có người bóc lột người. Vấn đề thứ hai là của ai người nấy ăn. Cho đến thứ quạ kia c̣n biết giành giật cái miếng không phải của nó là không ổn, và không hề nói: “Mày phải chia cho tao với”. Phan Khôi mỉa mai, xuyên tạc vấn đề đấu tranh giai cấp là một sự đ̣i chia phần của kẻ khác.

 

Đến bài “Cây Cộng sản”. Bài này đă lột trần ra tư tưởng chống cộng của Phan Khôi. Nhân đây, tôi cũng xin nhắc lại để thấy rơ rằng đó là một tư tưởng phản động có hệ thống của Phan Khôi, chứ không phải là bất măn, hằn học với một vài cá nhân lănh đạo sai lầm như có người lầm tưởng. Phan Khôi trước kia đă từng viết báo khinh miệt chế giễu “phong trào cộng sản giống như đống lửa rơm” và đă cho Sô-viết Nghệ An là “cái loạn cộng sản”. Sau Cải cách ruộng đất, lúc cán bộ ta đang tích cực sửa chữa những sai lầm khuyết điểm th́ lúc nào gặp đồng bọn, Phan Khôi cũng hỏi: “T́nh h́nh thế nào? Có chuyện ǵ lạ không?”. Rồi cả bọn tranh nhau nói xấu Cải cách ruộng đất, và mong cho ta đừng sửa sai được. Phan Khôi lần nào nghe xong cũng cười thích chí. Y đọc ngay hai câu ca dao: “Bao giờ có được tự do/ Ngày nay Đảng đă thay vua trị v́” và nói là của đồng bào đâu trong Khu Tư.

 

 

Một lần, ở nhà Minh Đức, trong một cuộc họp bàn bạc để in một số thơ giữa bọn chúng với nhau, Phan Khôi khoe rằng mới sưu tầm hai câu ca dao nữa: “Cộng sản ở tại nước Nga/ Chính danh thủ phạm tên là Lê-nin”. Liền lúc ấy, bọn họ làm một bài thơ “kịp thời” tên là cây cau, khen Phan Khôi người “trung thực, tiết tháo” thẳng như cây cau, càng già càng cứng, giông băo chỉ làm cong thôi chứ không thể bẻ gẫy được.

 

Trở lại bài “Cây Cộng sản”, ngay câu đầu, Phan Khôi đă chỉ ngay vào Việt Bắc, quê hương cách mạng:

 

“Có một thứ thực vật nữa cũng như sen Nhật bản, ở xứ ta trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu th́ tôi chưa thấy, chỉ thấy trong mấy tỉnh Việt Bắc, không chỗ nào là không có.”

 

Đầu tiên, Phan Khôi thấy nó rải rác mấy nơi ở tỉnh Phú Thọ, và nhiều nhất là ở Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại “như rừng, ken kít nhau”. Nơi gọi là “Cỏ Bù-xít” v́ nó có mùi hôi như con bọ xít, nơi gọi là “Cây Cứt lợn”, nơi gọi là “Cây Chó đẻ”. Tên đều không nhă tí nào hết, thứ cây ấy những người có học không gọi bằng Cây Cứt lợn dại, mà gọi bằng Cây Cộng sản. Phan Khôi bịa rằng trước kia xứ ta không có cây này (cứt lợn dại), người Pháp mang đến trồng ở các đồn điền cà phê, cao su, để che đất cho mát gốc.

 

“Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn điền. Cái t́nh trạng ấy bắt đầu có trong những năm 1930-1931 đồng thời với Đông Dương Cộng sản Đảng bắt đầu hoạt động, phong trào cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là “herbe communiste”, đáng lẽ dịch là Cỏ Cộng sản, nhưng nhiều người gọi là Cây Cộng sản. Nó c̣n một tên nữa rất lạ...”

 

Phan Khôi bịa ra rằng y gặp một ông già người Thổ:

 

“Hỏi ông tên nó là cây ǵ, ông nói tên nó là “Cỏ cụ Hồ”. Thứ cỏ này trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lănh đạo cách mạng, th́ thấy thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá đồi đống, người ta không biết tên nó là ǵ, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về th́ gọi nó như vậy.”

 

Tại sao Phan Khôi đem Cây Cứt lợn, cũng gọi là Chó đẻ, là Bọ xít, “toàn những tên không nhă tí nào hết” để gọi nó là Cây Cộng sản, và Cỏ cụ Hồ? Cái con người vẫn tự cho ḿnh là học giả, bản chất phản phúc, con người đă đưa ra thứ triết lư “con chó th́ phải ăn cứt” th́ việc mượn tên xấu của một giống cây cỏ, để xỏ xiên nói móc chửi cạnh chửi khoé cộng sản là cái sở trường của y!

 

Phần thứ hai là tạp văn, ngoài đầu, Phan Khôi có viết:

 

“Cả hai phần đều có một ít bài mà mấy người đọc qua, cho là giống như truyện ngắn. Nếu có vậy nữa th́ tôi cũng không biết làm sao được. Tôi chỉ ghi chép sự thực chứ không hề viết tiểu thuyết.”

 

“Sự thực” mà Phan Khôi ghi chép, là những sự thực ǵ? Là những “sự thực” kiểu Năm Chuột.

 

Mở đầu phần này là “Thái Văn Thu”, Thái Văn Thu là tên một thằng ăn trộm trùng tên với một nhân vật trong Thuỷ hử, mà Phan Khôi quen biết và kính phục hắn đă lâu, nay mới có dịp chép lại…

 

Phan Khôi kể lúc y “bị tù Văn Thân” bọn Pháp có đưa vào giam chung một anh có tướng học tṛ - can vào tội ăn trộm của Tây.

 

“Theo lời Thu th́ nhà hắn cũng đủ ăn, hắn đi ăn trộm không phải v́ túng thiếu mà không muốn làm nghề ǵ hết. Cái nhân sinh quan hắn đại khái là người annam phải làm giặc, đánh Tây mà không làm được, th́ đi ăn trộm, ăn trộm của Tây.”

 

Có phải đó chính là nhân sinh quan, tư tưởng của Phan Khôi đă bộc lộ trân tráo như trên kia chăng? Phan Khôi c̣n mượn lời Thu để phê b́nh Phan Chu Trinh, bảo cụ đi sai đường, “nói phải, nói không với Tây làm chi, đưa điều trần cho Toàn quyền làm chi để bây giờ nó đày đi Côn Đảo?”. Và cũng mượn lời Thu để Phan Khôi tỏ rơ quan điểm của y từ trước đến nay không tán thành sự đấu tranh chống Pháp. Thu tủm tỉm cười nói về chúng tôi: “Các thầy cũng vậy. Giá như Thu này ở tù cho đáng, các thầy ở tù không đáng”. Thu kể một vụ ăn trộm ở nhà Tây và biểu diễn vài môn nghề khiến Phan Khôi rất phục. Sau đó, nhân một trận băo, tù phá ngục ra. Có trát sức nă, đặc biệt là nghiêm nă Thái Văn Thu, tên cầm đầu.

 

“Nhưng có người nói với tôi, có phải phá ngục ǵ đâu, băo từ sáng đến chiều, không đưa cơm vào, đói th́ họ mở cửa họ ra, chứ có phá phách ǵ?”

 

Phan Khôi viết truyện này với một thâm ư ǵ? Chúng ta cứ liên hệ đến t́nh h́nh văn nghệ sau lớp học 18 ngày, sẽ thấy Phan Khôi hiện lên nguyên h́nh trong Thái Văn Thu.

 

“Khi gió càng ngày càng to, quá giờ ăn đă lâu rồi mà cơm không có. Thu đứng ra diễn thuyết bảo anh em cứ đi ra. Không tội chi mà nhịn đói. Rồi tự tay lấy ch́a khoá mở cửa, đội đề lao và lính canh không dám cản lại, cả mấy trăm người đều đi theo Thu đi ra hết.”

 

Nhân lúc Cải cách mắc sai lầm nghiêm trọng, cán bộ ta đang tích cực sửa sai th́, trong giới văn nghệ, bọn đầu cơ Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi đứng lên đả vào lănh đạo văn nghệ. Trong cuộc họp tổng kết lớp 18 ngày Phan Khôi đứng lên phản đối đồng chí Tố Hữu và sau đó Phan Khôi cùng một nhóm Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt v.v... tập họp lại ra báo Nhân văn.

 

Chính Hoàng Cầm đă tự thú: Ban đầu Phan Khôi định đặt tên báo là Cái chổi, là Thượng vàng hạ cám đều không ổn... tên Nhân văn là do Nguyễn Hữu Đang t́m ra sau. Phan Khôi nói rằng: “Nếu chỉ ra báo văn nghệ không th́ hẹp lắm. Bây giờ nhiều vấn đề lắm. Phải làm báo văn hoá xă hội. Tôi c̣n gọi là chính trị nữa. Tôi sẽ c̣n nói về nhiều vấn đề thế giới…” Xưa nay, Phan Khôi vẫn lấy làm ngông nghênh khoái trá ở chỗ hắn xỏ xiên, nói móc nói cạnh ta mà ta không làm ǵ được hắn: “Ăn trộm, không bắt được, mọi người biết cả nên cũng không giấu.”

 

Báo Nhân văn bị quần chúng phản đối, công nhân không in, mọi người yêu cầu chính phủ phải đóng cửa để ngăn chặn sự nguy hại của nó. Bọn Nhân văn đă rêu rao lúc bấy giờ: “Gọi cả làng ra đánh một con chuột”, “Giết con chim sẻ không cần dùng đến dao mổ trâu”, “Ăn cướp chỉ đông người vào hùa với nhau, ỷ thế đánh người lấy của, là khiếp nhược”. Phan Khôi đă gọi phong trào Sô-viết Nghệ An là “cái loạn cộng sản”, đă nói rằng: “Chính danh thủ phạm tên là Lê-nin” cũng là những người làm loạn lớn mà kết tội hắn là một người loạn nhỏ.

 

Viết bài này, Phan Khôi đă hiện nguyên h́nh trong tên ăn trộm Thái Văn Thu mà y hết sức tán dương, đề cao. Cũng như kế đó là bài “Ông Năm Chuột”. Phan Khôi mượn lời xảo hoạt, ranh vặt của một tên thợ bạc gian hùng nghiện ngập để đ̣i trả văn nghệ cho văn nghệ, trả chuyên môn cho chuyên môn. Văn nghệ chuyên môn phải tách rời chính trị. Bọn phá hoại tờ-rốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo, bọn Nguyễn Hữu Đang và Phan Khôi cùng bè lũ chống Đảng đă hợp xướng điệp khúc của Năm Chuột:

 

“Người ta cái ǵ biết ít th́ chỉ nên nghe chứ không nên nói. Tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông cũng như ông không dạy nghề làm thợ bạc cho tôi.”

 

Truyện thứ ba là “Chuyện ba ông vua Kiền Long, Quang Trung và Chiêu Thống”.

 

Trước kia, lúc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, quân Nhật vào Đông Dương, chủ nghĩa phát-xít vươn móng sắt ra để doạ nhân dân ta, Đảng Cộng sản đă kêu gọi mọi người chống Pháp đuổi Nhật, dùng những gương anh hùng liệt nữ xưa động viên ḷng ái quốc của đồng bào, th́ bọn tờ-rốt-kít cũng đă giở cái thủ đoạn của Phan Khôi ngày nay là xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ Hai Bà Trưng, cho rằng Hai Bà Trưng chống phong kiến Trung Quốc cũng như Trung Quốc chống Nhật bây giờ là trái qui luật tiến hoá của loài người... Và đưa luận điệu “Nhật không vào Đông Dương” để làm lạc hướng đấu tranh của nhân dân v.v...

 

Phan Khôi đưa ra chuyện “Ba ông vua” này nhằm xuyên tạc và đả vào t́nh đoàn kết quốc tế, t́nh hữu ái giai cấp của nhân dân ta và Trung Quốc, theo đúng cái hướng đả vào Liên-sô, Trung Quốc của đế quốc Mỹ và Ngô Đ́nh Diệm hiện nay. Đây là bài dài nhất trong toàn tập, Phan Khôi trích dẫn nhiều sách, nhiều tài liệu suy diễn lung tung. Xin chỉ lược ra đây mấy câu, để thấy cái xương sống của bài ấy, và cái tâm thuật xảo quyệt của Phan Khôi:

 

“Ư tôi cốt muốn cho người đọc qua sẽ thấy ngay ba ông ấy một ông là đểu giả, một ông là quay quắt, một ông là khờ khạo. Tư cách ba người thấy chung trong một tiệc. Vả lại cũng thấy được rất rơ ràng trong bọn vua chúa phong kiến, giữa thiên tử với chư hầu, bề ngoài làm bộ nhân nghĩa trung thuận, quang minh chính đại lắm lắm, mà bề trong không khác ǵ một tụi buôn hàng xách, một tụi ba que xỏ lá gặp nhau, đứa nào gian ngoan th́ chiếm phần thắng, đứa nào ngu đần th́ chịu thiệt.”

 

Có thể có người nhẹ dạ tin và cho là Phan Khôi viết bài này, nhằm đả vào bọn phong kiến, bọn vua chúa ngày xưa. Can chi đến ta mà vơ lấy, vặn vào. Không phải thế. Phan Khôi đă từng tuyên bố: “Nước Việt Nam ta làm ǵ có phong kiến? Đánh đổ phong kiến chỉ là câu chuyện bịa đặt vu vơ...” th́ đả vào phong kiến, không thể có được. Cái dă tâm của Phan Khôi muốn gợi lại hận thù dân tộc cũ (Măn Thanh bắt Chiêu Thống và bọn tùng vong cạo đầu thắt bím, đày đi v.v...) và so sách cái quan hệ ngoại giao giữa Quang Trung và Kiền Long ngày xưa không khác ǵ quan hệ hữu nghị giữa ta và Trung Quốc ngày nay, “một con cáo và một con sói đồng t́nh vật chết một con dê”. Nhân dân ta và nhân dân Trung Quốc đoàn kết trên cơ sở thống nhất về những quan điểm chung của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Phan Khôi cho rằng Trung Quốc ngày nay cũng chỉ là một thứ kiểu xâm lược như Măn Thanh xưa. Chẳng vậy, sao khi sang thăm Trung Quốc, trong cuộc triển lăm kỹ nghệ ở Măn Châu, Phan Khôi đă phát biểu: “Theo tôi nghĩ th́ nước ngoài phục Trung Quốc không phải v́ chủ nghĩa cộng sản mà vi nền kỹ nghệ Trung Quốc. Ngày kia Trung Quốc sẽ chiếm thị trường thế giới”.

 

   bài “Giới thiệu Nguyễn Trường Tộ” càng lộ ra trắng trợn cái ư Phan Khôi muốn so sánh chế độ ta với cái triều đại ngày xưa. Không khác ǵ thời đại chuyên chế hồi Gia Long. Nước Việt Nam ngày nay cũng là triều đại ǵ đó; người ta đặt bài viết cho báo tất nhiên phải có yêu cầu của toà soạn, y cũng gọi “Cụ Đồ Chiểu ơi, Cụ Đồ Chiểu!” bù lu bù loa đấm ngực nói rằng bảy tám mươi năm sau cũng không khác ǵ ngày xưa.

 

Đưa Nguyễn Trường Tộ ra trong bài này vừa khen vừa chê - một mặt để tỏ rằng “cậu tú Phan Khôi” hơn “danh Tộ” nhiều, một mặt là đả vào chế độ ta. Nguyễn Trường Tộ, đi đạo Thiên Chúa (từ đời cha) sau v́ Tự Đức cấm đạo, Tộ theo một linh mục sang Pháp và lưu học ở Paris. Năm 33 tuổi trở về, có dâng nhiều bài điều trần yêu cầu cải cách nhiều vấn đề trong nước. Tộ là người tin Đạo, coi Đức Chúa Trời là chủ vạn vật và cũng đồng thời rất tôn trọng Nho giáo. Phan Khôi nói rằng: “Người có tài như thế, sinh gặp thời cần dùng cái tài ấy, mà không thi thố ǵ được, ôm mối thất vọng mà chết là v́ lẽ ǵ?”

 

Phan Khôi cho Tự Đức là một ông vua nhu nhược, làm việc ǵ cũng sợ, không dám làm mà lại coi ḿnh là thần thánh, khinh người.

 

“Tự Đức có phê vào một bổn điều trần của Nguyễn Trường Tộ do quan tỉnh dâng lên, một câu: “Dùng được đấy, hay là cho nó một chức quan để lấy ḷng nó, dùng sức nó.” -

 

‟Một chức quan! Ông ấy tưởng người ta báu cái chức quan của ông ấy lắm đấy!”

 

Tại sao Phan Khôi hằn học đến như vậy? Bởi v́:

 

“Vua th́ như thế, c̣n đám quan liêu từ triều đ́nh đến ở các tỉnh phần nhiều là hủ nho, đám sĩ phu ở dân gian càng đông hơn, cũng đều là hủ nho, dưới vua, hai hạng người này nắm quyền lợi một nước trong tay họ, họ cấu kết với nhau để giữ lấy quyền lợi, th́ c̣n ai mà làm ǵ được?”

 

Chúng ta có nắm và giữ lấy quyền lợi một nước không? Có. Nhiệm vụ của cách mạng, của vô sản chuyên chính đề rơ yêu cầu phải chuyên chính đối với bọn giai cấp bóc lột, đối với bọn đi ngược và phản lại quyền lợi dân tộc. Bọn chúng không thể có tự do trong chế độ ta, thứ tự do áp bức bóc lột, tự do buôn lậu, đầu cơ tích trữ, tự do cấu kết với phần tử phản động trong nước và bọn đế quốc ngoài nước để phá rối trật tự xă hội, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, xây dựng lại chế độ phong kiến và thực dân đă bị nhân dân đánh đổ.

 

Phan Khôi nói: “Không phải đợi đến ngày nay, từ trước chúng ta cũng đă biết rằng có tại làm sao... người ta mới giấu đinh giấu điền, trốn lính!”. Trong thời đại phong kiến, dưới chế độ thực dân Pháp, người ta làm như thế là đúng. 

 

Người ta không muốn đóng góp phục vụ cho bọn thống trị, chỉ có mục đích vơ vét cho vào túi chúng. Dưới chế độ ta, những người khai man diện tích ruộng đất, không đi dân công, trốn thuế công thương, không thi hành nghĩa vụ quân sự th́ chỉ là những kẻ ích kỷ sâu mọt của xă hội, những kẻ đào ngũ và chống chế độ.

 

Cũng cần nói vào mặt Phan Khôi rằng: V́ chính sách đoàn kết của Mặt trận Dân tộc, v́ Đảng ta sẵn ḷng quên những tội lỗi cũ của một người và tạo mọi điều kiện để đưa họ về con đường chính, v́ ḷng nhân của Đảng muốn nhặt những kẻ

 

   dưới bùn lên mà chùi rửa cho, giúp cho họ trở lại làm người, v́ thế mà Phan Khôi vẫn được đăi ngộ rộng răi, ăn lương nhân sĩ, không phải làm ǵ cả, viết hay dịch sách th́ hưởng tiền nhuận bút. Để rồi chửi Đảng, chửi chế độ. “Một chức quan, ông ấy tưởng nguời ta báu cái chức quan của ông ấy lắm đấy”. Phan Khôi ăn cháo đá bát, hợm hĩnh, tự đánh giá ḿnh là cao to, nhưng cái mặt thật

 

của y không ai lạ ǵ. Phan Khôi chống lại cái chế độ đă cứu vớt cho ḿnh, th́ Phan Khôi rơi nguyên h́nh là một tên chống cách mạng.

 

Bây giờ - mà có phải mới bây giờ đâu - cái bộ mặt thật của Phan Khôi đă bị lột trần ra, cũng nhiều khi tự y lột trần ra. Phan Khôi là một tên giảo quyệt, phản phúc, một tên làm tay sai cho đế quốc, lợi dụng sự khoan hồng của cách mạng và chính sách đăi ngộ rất tốt của Đảng để chống lại Đảng, chống lại chế độ. Không có cơ hội th́ nằm yên, dùng cách nói bóng nói gió, xuyên tạc xách mé; có cơ hội th́ vùng lên ra mặt chống đối hẳn ḥi như thời kỳ tác quái của báo Nhân văn.

 

Lẻ tẻ từng lúc, từng bài, y lập lờ đánh tráo, vờ vịt để cho mọi người lầm tưởng rằng ḿnh là một “học giả” một tay “lăo thành cách mạng”, một người “ngay thẳng, bộc trực”, một “nhà văn khí tiết”. Do đó, cũng có đôi người bị mắc lừa. Nhân văn-Giai phẩm bị đánh tan bước đầu hồi cuối năm 1956. Cả bọn rút vào bóng tối “phục xuống sáng tác”. Phan Khôi gom góp tất cả sáng tác của y, đem tàn lực hy vọng, có thể đánh được ta một đ̣n cuối cùng trước khi xuống lỗ. Y đặt tên tập sách là Nắng chiều. Ngờ đâu, chính tập sách này đă phơi bày rơ rệt nhất toàn bộ hệ thống tư tưởng phản động của Phan Khôi và cái nắng quái ấy mới định kịp hửng lên, đă bị nhân dân làm cho tắt phụt!

 

Chỉ đứng riêng về phương diện văn học mà nói, Phan Khôi không c̣n chỗ đứng nữa, đă bị khai trừ ra khỏi Hội Nhà văn. Chỗ đứng của y ở đâu, để cho y tự biết mà tự phong. Chưa nói đến hành động phá rối về chính trị, không thuộc về thẩm quyền kết luận của những người cầm bút như chúng ta.

 

Chú thích: Đoàn Giỏi bị kiểm thảo sau khi viết bài này và bị quy vào tội: vờ đả kích Phan Khôi để công bố những nét đại cương của một tác phẩm mà Đảng đă cấm không cho xuất bản.

 

 

II. Phái thanh niên

 

Phái này gồm tất cả các nhà văn trẻ tuổi, lớn lên trong khói lửa của cuộc kháng chiến dân tộc và đă được rèn luyện đầy đủ trong hệ thống tư tưởng Mác-xít. Tất cả đều là đảng viên và đa số đă tích cực tham gia bộ đội. Trẻ nhất trong bọn là Phùng Quán (năm nay mới 25 tuổi) và nhiều tuổi nhất là Hoàng Tích Linh (năm nay chừng 45 tuổi).

 

Điều đáng chú ư nhất là hiện nay không có một nhà văn thanh niên nào theo Đảng, mặc dù Đảng đă đào tạo nên họ.

 

Họ chống lại học thuyết Mác-xít và chế độ cộng sản không phải v́ quyền lợi giai cấp hoặc v́ họ đă bị tiêm nhiễm những triết lư phong kiến hoặc tư sản, mà chính v́ bản chất trong con người thiên nhiên của họ phải có phản ứng tự vệ để khỏi bị tiêu diệt. Tiếng nói của họ là tiếng nói của con người “nhân chi sơ”, không đại diện cho một học phái nào cả, tiếng nói của những linh hồn c̣n trong trắng.

 

Trần Dần, một nhà thơ đă tham dự trận Điện Biên Phủ có thể coi là điển h́nh cho thế hệ này.

 

 

 

Trần Dần

 

Tiểu sử: Trần Dần sinh năm 1924 [1] ở Nam Định, học tiểu học ở tỉnh Nam rồi sau lên học trung học ở Hà Nội. Khi ông học văn chương Pháp để thi tú tài, ông bị ảnh hưởng Baudelaire và Verlaine, trở thành một thi sĩ làm thơ tiếng Việt theo lối “tượng trưng” (symbolisme) của Pháp. Cho tới ngày nay ông vẫn giữ lối thơ đó v́ ông chủ trương rằng ḿnh lời văn không đủ mà phải dùng cả âm điệu trong câu mới diễn tả được những rung động trong tâm hồn của thi nhân.

 

Ông mới xuất hiện là một nhà thơ th́ cuộc chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ. Trở về Nam Định, ông tham gia kháng chiến và đảm nhận công tác tuyên truyền. Sau khi Nam Định thất thủ, ông xung phong gia nhập bộ đội và được cử lên mặt trận Sơn La. Ở đây, ông phụ trách điều khiển đoàn văn công, được các văn nghệ sĩ trong trung đoàn rất quư mến và được kết nạp làm đảng viên. Nhưng là một văn nghệ sĩ, ông không chịu nổi sự chèn ép của các cán bộ chính trị cấp trung đoàn, nên đến năm 1951, ông xin về Trung ương, nhận công tác viết báo cho Cục Quân huấn.

 

Trong thời kỳ này, ngoài việc viết báo, ông c̣n phụ trách giảng về văn nghệ nhân dân và chính sách lănh đạo văn nghệ của Đảng đối với văn nghệ sĩ trong những lớp đào tạo cán bộ văn công. Bị phê b́nh là giảng sai đường lối của Đảng, ông tức ḿnh xin đi công tác tiền tuyến và được cử lên mặt trận Điện Biên Phủ. Xúc cảm trước sự tấn công ào ạt của quân đội kháng chiến vào thành luỹ của Pháp, nhất là trước cái chết thê thảm của Tô Ngọc Vân, bạn đồng hành của ông, Trần Dần sáng tác cuốn Người người lớp lớp. Nhờ cuốn sách này ông được Đảng yêu chuộng trở lại và năm 1954 được cử đi Trung Quốc để viết bản dẫn giải bằng tiếng Việt cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ, là cuốn phim Việt Minh đóng lại trận Điện Biên Phủ do cán bộ Trung cộng sang quay và mang sang Tàu thu thanh.

 

Nhân chuyến du hành này, Trần Dần được tiếp xúc với nền văn hoá của Trung cộng. Ông lấy làm thất vọng nên khi trở về, ông nói nhỏ với bạn bè: “Chớ nên theo đường lối văn nghệ của Trung Quốc”. 

 

Cùng đi với ông sang Trung Quốc có một cán bộ chính trị phụ trách về đường lối giải thích, nhưng tên cán bộ này mặc dầu dốt đặc về văn chương cũng cứ nhất định dùng quyền lực chính trị của ḿnh để sửa chữa từng câu, từng chữ của Trần Dần, mà có khi ngang nhiên đọc lời giải thích của ḿnh cho Trần Dần viết. Ông lấy làm bất măn, nên khi về đến Việt Nam, ông cùng một số văn nghệ sĩ đảng viên khác như Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh và Đỗ Nhuận, cùng trong cảnh ngộ, viết kiến nghị lên cấp trên yêu cầu hạn chế sự can thiệp của cán bộ chính trị vào lănh vực văn nghệ.

 

Kiến nghị c̣n đang được cứu xét th́ xẩy ra một việc quan trọng hơn. Đó là việc Trần Dần tự tiện lấy vợ, bất chấp sự cấm đoán của Đảng. Theo một đạo luật bất thành văn mà Đảng đă đặt ra, các đảng viên cấp xă phải báo cáo cho cấp trên biết trước mỗi khi dự định lấy vợ, lấy chồng; các đảng viên huyện (trường hợp của Trần Dần) phải xin phép Đảng mới được cưới xin hoặc yêu đương, c̣n về phần các đảng viên cấp tỉnh trở lên th́ việc dựng vợ gả chồng là đo Đảng quyết định.

 

Trần Dần tuy là đảng viên, nhưng vẫn giữ tính chất văn nghệ sĩ, không chịu nổi luyến ái quan Mác-xít. Hồi ở chiến khu bao nhiêu lần Đảng “xây dựng” cho ông với các nữ đồng chí, ông dều không chịu và khi hoà b́nh trở lại, ông t́nh cờ gặp và mê ngay một thiếu nữ tiểu tư sản ở phố Sinh Từ, sống bơ vơ một ḿnh, v́ bố mẹ họ hàng di cư vào Nam không kịp mang theo.

 

Trần Dần xin phép Đảng để cưới người yêu, nhưng Đảng nhất định không cho v́ một lư do căn bản: người con gái đó theo đạo Thiên chúa. Tuy vậy, Đảng không nêu lên lư do tôn giáo để từ chối mà chỉ giải thích rằng người con gái đó sống về tiền thuê nhà mà bố mẹ để lại nên thuộc vào thành phần bóc lột, và một đảng viên không thể lấy vợ thuộc giai cấp “địch”.

 

Trần Dần không chịu cắt đứt t́nh yêu nên khuyên ư trung nhân mang nhà cửa bố mẹ để lại giao cho Uỷ ban quản trị tài sản của những người vắng mặt trông coi và thu hoa lợi; hai người đều cam chịu sống trong cơ cực để yêu thương nhau. Đảng bèn rẽ duyên bằng cách điều động Trần Dần lên Việt Bắc công tác, nhưng Trần Dần lấy cớ ốm đau xin về Hà Nội nghỉ dài hạn và tự ư xin ra khỏi Đảng, ngang nhiên đến phố Sinh Từ sống với t́nh nhân không cần cưới xin. Đảng toan trừng trị, nhưng ngặt v́ lúc đó đang có phong trào di cư, nên không dám khủng bố bất cứ ai sợ làm náo động nhân tâm khiến cuộc di cư bành trướng thêm. Đảng bèn nuốt giận làm lành, chỉ gây dư luận là Trần Dần đă sa đoạ, rơi vào hố tư sản phản động.

 

Nhưng sau khi đóng cửa Hải Pḥng, Trần Dần lại làm một việc táo bạo thứ hai là phê b́nh đả kích cuốn thơ Việt Bắc của Tố Hữu, một thi sĩ giữ chức trung ương uỷ viên, phụ trách lănh đạo văn nghệ. Tố Hữu liền ra lệnh bắt cóc Trần Dần mang nhốt trên một nhà giam ở Việt Bắc. Vợ Trần Dần lại sống bơ vơ giữa Hà Nội một lần nữa, hỏi thăm chồng ở đâu, không ai biết, vẫn thất nghiệp, lại thêm bụng mang dạ chửa. Bạn bè của Trần Dần phải chung tiền giúp đỡ và thay phiên đến thăm hỏi nâng đỡ tinh thần.

 

Tin Trần Dần bị bắt mang đi biệt tích lan ra khắp Hà Nội và gây dư luận sôi nổi trong giới trí thức kháng chiến. Để dẹp yên dư luận, Đảng bèn sửa sai bằng cách đưa Trần Dần về mạn xuôi, bắt đi theo chiến dịch Cải cách ruộng đất. Đảng cũng gọi vợ Trần Dần đến cho công việc may vá cho mậu dịch.

 

Không được bao lâu, xẩy ra vụ Khrushchev hạ bệ Stalin. Nhóm văn nghệ sĩ kháng chiến nổi lên đấu tranh chống Đảng bằng cách xuất bản tập Giai phẩm 1956 (sau này gọi là Giai phẩm mùa Xuân). Lúc này Trần Dần không có mặt ở Hà Nội, nhưng Hoàng Cầm là bạn thân, biết Trần Dần hồi 1954 có viết bài “Nhất định thắng” có giá trị, nên đến nhà bảo vợ Trần Dần đưa bản thảo và mang in trong tập Giai phẩm.

 

Tờ tạp chí vừa in xong th́ bị tịch thu ngay. Đảng ngờ rằng Trần Dần đă bị nằm tù mà c̣n dám viết bài chống Đảng nên gọi Trần Dần về, mang ra đấu giữa một cuộc hội nghị của đông đủ các văn nghệ sĩ, quy Trần Dần vào tội phản động, lấy cớ là trong các bài thơ ông có dùng chữ “Người” viết hoa nên gán cho ông có ư đả kích cụ Hồ và ra lệnh tống giam vào nhà pha Hoả Ḷ ở Hà Nội. Trần Dần uất ức quá dùng lưỡi dao cạo cứa cổ, nhưng không chết, sau này vẫn mang cái sẹo ở cổ.

 

Năm tháng sau, Việt cộng tuân theo chỉ thị của Đệ tam Quốc tế phát động phong trào sửa sai. Giới trí thức được dịp phát động phong trào đấu tranh chống Đảng. Họ xuất bản tờ Giai phẩm muà Thu và tờ Nhân văn, lên tiếng phản đối vụ tịch thu tờ báo Giai phẩm mùa Xuân và việc khủng bố Trần Dần. Cụ Phan Khôi có nêu hai vấn đề này trong bài “Phê b́nh lănh đạo văn nghệ” đăng trong Giai phẩm mùa Thu và Hoàng Cầm viết một bài nhan đề “Con người Trần Dần” đăng trong tờ Nhân văn số đầu. Bị công kích không có thế đỡ, Đảng bèn thả Trần Dần về và phục hồi danh dự bằng cách ra lệnh cho Hội Văn nghệ viết bản tự kiểm thảo đăng trên các báo. Nhóm Giai phẩm bèn tái bản tờ Giai phẩm mùa Xuân trong đó có bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần.

 

Nhưng sau khi Nga-sô đàn áp cuộc khởi nghĩa Budapest th́ Việt cộng cũng đóng cửa tờ Nhân văn và Giai phẩm. Một lần nữa, Trần Dần lại bị quy là phản động và bị “treo gị” không được viết văn. Nhưng đến tháng cuối năm 1957, nhân báo Văn trở lại chống Đảng, Trần Dần gửi đăng một bài thơ nhan đề là “Hăy đi măi” nói lên ư chí cương quyết đấu tranh đ̣i tự do đến cùng.

 

Về thơ, ông c̣n sáng tác những bài:

 

“Nói thật”, trong đó ông lư luận rằng chỉ v́ cán bộ hèn nhát không dám nói thật với Đảng nên mới xảy ra vụ “sai lầm” trong Cải cách ruộng đất.

 

“Nhân văn làm lớn con người”, trong đó ông đề cao nhân văn.

 

“Một bài thơ chưa có đề”, trong đó ông ám chỉ Tố Hữu là nhà thơ “ti tỉ đờn bầu”.

 

Về truyện, ông viết:

 

“Chú bé làm văn” để chỉ trích nền giáo dục cộng sản chuyên môn tập cho trẻ em nói dối từ thuở bé để sau này nói dối thuê cho Đảng.

 

“Mâu thuẫn với cả nước” tả một nhạc sĩ bất tài (ám chỉ Lương Ngọc Trác) dùng thế lực Đảng, quy cho một nhạc sĩ có tài hơn ḿnh vào tội “mâu thuẫn với cả nước”.

 

“Lăo Rồng” tả một nông dân hiền lành bị bọn “lư trưởng mới” chà đạp.

 

Nhưng đặc biệt hơn cả là truyện “Anh C̣ Lắm”, tả sự khổ cực của nông dân trong cải cách ruộng đất. Trong truyện đó có đoạn như sau:

 

“Tôi đi thẳng vào nhà C̣ Lắm. Vắng cả, nhà chả có ai, nhưng có tiếng trẻ khóc. Ba gian nhà nhỏ vẫn một cái giường, một cái chơng, có thêm một lá cờ đỏ rắt mái nhà rủ trước mặt bức ảnh Hồ Chủ tịch. Một đứa bé con độ lên hai ḅ giữa nhà, giời rét mà độc một manh áo nâu, c̣n cởi chuồng, chân tay lắm mụn, bôi phẩm xanh lè cả người. Thấy tôi nó càng khóc, giơ tay quẹt má. Tôi nh́n: Tay nó có cái ǵ vàng vàng? À ra cứt, nó ỉa một đống c̣n kia, cổ chân nó lại buộc một cái dây bằng vải khá dài, một đầu dây buộc vào cột nhà, chắc hẳn mẹ nó buộc nó vào dây cho nó chơi một ḿnh.”

 

Trừ có hai bài thơ “Nhất định thắng” và “Hăy đi măi” ông kư tên thật, c̣n tất cả những bài khác đều kư bằng bí danh, sau này bị tra khảo trong tù ông mới nhận là chính ông viết.

 

Sau đây chúng tôi chỉ trích hai bài: “Nhất định thắng” và “Hăy đi măi” vừa điển h́nh cho lối thơ của ông, vừa nói lên tâm sự của thế hệ mới ở Bắc Việt. [2]

 

Nhất định thắng

 

Lời soạn giả: Bài thơ này đă gây nên cuộc đấu tố tác giả, khiến tác giả phải cứa cổ tự tử. V́ vậy nên tuy dài, chúng tôi cũng đăng trọn bài. Đại ư của tác giả là nêu sự đói rét của đất Bắc và nỗi u buồn trong ḷng người phương Bắc hiện nay.

 

 

Tôi ở phố Sinh Từ:

Hai người

Một gian nhà chật.

Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui?

Tổ quốc hôm nay

tuy gọi sống hoà b́nh

 

Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất

Chúng ta c̣n muôn việc rối tinh...

Chúng ta

Ngày làm việc, đêm th́ lo đẫy giấc

Vợ con đau th́ rối ruột thuốc men

Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên

Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt

 

Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt.

Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù

Chúng c̣n đương bày kế hại đời ta?

Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc

Đất hôm nay tầm tă mưa phùn

Bỗng nhói ngang lưng

 

máu rỏ xuống bùn

Lưng tôi có tên nào chém trộm?

A! Cái lưỡi dao cùn!

Không đứt được - mà đau!

Chúng định chém tôi làm hai mảnh

Ôi cả nước! Nếu mà lưng tôi lạnh

 

Hăy nh́n xem: có phải vết dao?

Không đứt được mà đau!

Lưng Tổ quốc hôm nay rớm máu

Tôi đă sống ră rời cân năo

 

Quăng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam Những con mưa rơi măi tối sầm

 

Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng

 

Tôi đă trở nên người ôm giận

Tôi đem thân làm ụ cản đường đi.

-   Dừng lại!

-   Đi đâu?

-   Làm ǵ?

Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo

 

Thiếu Cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân

 

Có cả anh Nam chị Nữ kêu buồn

-   Ở đây

Khát gió thèm mây...

Ô hay!

 

Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ

Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi?

Sau đám mây kia là cả miền Nam

Sao nỡ tưởng là non bồng của Mỹ!

Tôi muốn khóc giữ từng em bé

Bỏ tôi ư? - Từng vạt áo - Gót chân

 

Tôi muốn kêu lên - những tiếng cộc cằn...

-   Không! Hăy ở lại!

Mảnh đất ta hôm nay dù tối

Cũng c̣n hơn

non bồng Mỹ

triệu lần...

Mảnh đất dễ mà quên?

 

Hỡi bạn đi Nam

Thiếu ǵ ư? Sao chẳng nói thực thà?

Chỉ là:

-   thiếu quả tim, bộ óc!

Những lời nói sắp thành nói cục

Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi

 

Tôi nức nở giữa trời mưa băo.

Họ vẫn ra đi.

Nhưng sao bước ră rời?

Sao họ khóc?

Họ có ǵ thất vọng?

Đất níu chân đi

 

gió cản áo bay về

Xa đất Bắc tưởng như rời cơi sống.

Tưởng như đây là phút cuối cùng

Giăng giối lại: - mỗi lùm cây - hốc đá

Mỗi căn vườn - gốc vả - cây sung

Không nói được chỉ c̣n nức nở

Trắng con ngươi nh́n lại đất trời

 

Nh́n cơn nắng lụi, nh́n hạt mưa sa

Nh́n con đuờng cũ, nh́n ngôi sao mờ

Ôi đất ấy - quên làm sao được?

Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi

Hôm nay đây mưa gió dập vùi

-   Mưa đổ măi lên người xa đất Bắc...

 

Ai dẫn họ đi?

 

Ai?

Dẫn đi đâu? - mà họ khóc măi thôi!

Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió

Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi

 

Tôi cúi xuống - quỳ xin mưa băo

Chớ đổ thêm lên đầu họ

-   khổ nhiều rồi!

Họ xấu số - chớ hành thêm họ nữa

Vườn ruộng hoang sơ - Cửa nhà vắng chủ

Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thiu

 

Họ đă đi nhưng trút lại tâm hồn

Ôi đất Bắc! Hăy giữ ǵn cho họ.

Tôi ở phố Sinh Từ

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà

 

Chỉ thấy mưa sa

trên mầu cờ đỏ

Gặp em trong mưa

Em đi t́m việc

Mỗi ngày đi lại cúi đầu về

-   Anh ạ!

 

họ vẫn bảo chờ...

Tôi không gặng hỏi, nói ǵ ư?

Trời mưa, trời mưa

Ba tháng rồi

Em đợi

Sống bằng tương lai

 

Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi

Lũ lượt dắt nhau đi buồn bă

Em đi

trong mưa

cúi đầu

nghiêng vai

Người con gái mới mười chín tuổi

 

Khổ thân em mưa nắng đi về lủi thủi

Bóng chúng

đè lên

số phận

từng người

Em cúi đầu đi, mưa rơi

 

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

 

Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa

 

trên mầu cờ đỏ

Đất nước khó khăn này

sao không thấm được vào Thơ?

Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi

Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua

Nhưng mà sách - h́nh như khá chạy

 

À  quyển kia của bạn này - bạn ấy Quyển của tôi tư lự, nét đăm đăm Nó đang mơ: - nếu thêm cả miền Nam Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu Tôi đă biến thành người định kiến Tôi ước ao tất cả mọi người ta

 

Đ̣i thống nhất, phải đ̣i từ việc nhỏ - từ cái ăn

 

cái ngủ

 

chuyện riêng tư - từ suy nghĩ nựng con

 

và tán vợ.

 

Trời mưa măi lây dây đường phố Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào Tôi vẫn quyết Thơ phải khua băo gió Nhưng hôm nay

 

tôi bỗng cúi đầu Thơ nó đi đâu? Sao những vần thơ

 

Chúng không chuyển, không xoay trời đất? Sao chúng không chắp được cơi bờ?

 

Non nước sụt sùi mưa Tôi muốn bỏ thơ làm việc khác

 

Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa Chút tài mọn

 

tôi làm thơ chính trị

 

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót Tôi bước đi

 

không thấy phố không thấy nhà Chỉ thấy mưa sa

trên mầu cờ đỏ

Em ơi! - ta ở phố Sinh Từ

Em đương có chuyện ǵ vui hử

À cái tin trên báo - Ừ em ạ

 

Chúng đang phải giậm chân đấm ngực!

Vượt qua đầu chúng nó

mọi thứ hàng

Những tấn gạo vẫn vượt đi

Những tấn thơ, tài liệu

Vẫn xéo qua đầu chúng, giới danh ǵ?

 

Ư muốn dân ta là lực sĩ khổng lồ

 

Đè cổ chúng mà xoá nhoà giới tuyến Dân ta muốn trời kia cũng chuyển Nhưng Trời mưa to lụt cả gian nhà Ôm tất cả che mưa cản gió

 

Con chó mực nghe mưa là rú Tiếng nó lâu nay như khản em à Thương nó nhỉ - nó gầy - lông xấu quá Nó thiếu ăn - Hay là giết đi ư?

 

Nó đỡ khổ - Cả em đỡ khổ.

 

Em thương nó - Ừ thôi chuyện đó Nhưng hôm nay anh mới nghĩ ra Anh đă biến thành người định kiến Những ngày ấy bao nhiêu thương xót Tôi bước đi

 

không thấy phố không thấy nhà Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ

Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc

 

Tai bỗng nghe những tiếng th́ thầm Tiếng người nói xen tiếng người ầm ả. - Chúng phá hiệp thương

 

Liệu có hiệp thương? - Liệu có tuyển cử?

 

- Liệu tổng hay chẳng tổng?

 

- Liệu đúng kỳ? hay chậm vài năm? Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương lai Người quên mất Mỹ là sư tử giấy.

 

Người vẫn vội - Người chưa kiên nhẫn mấy

Gan người ta chưa phải đúng công nông

Người chửa có dạ lim trí sắt

Người mở to đôi mắt mà trông!

A tiếng kèn vang

 

quân đội anh hùng

Biển súng

rừng lê

bạt ngàn con mắt

Quân ta đi tập trận về qua

Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà...

 

Lá cờ ấy là cờ bách thắng

 

Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn Từ đất dấy lên

 

là quân vô sản

Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành

Thắng được Chiến tranh

 

Giữ được Hoà b́nh

Giặc cũ chết - lại lo giặc mới

Đoàn quân ấy kẻ thù sợ hăi

Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu

Dân ta ơi! Chiêm nghiệm đă nhiều

Ai có Lư? Và ai có Lực?

 

Tôi biết rơ đoàn quân sung sức ấy

Biết nhân dân

Biết Tổ quốc Việt Nam này

Những con người từ ức triệu năm nay

Không biết nhục

Không biết thua

 

Không biết sợ

Hôm nay cả nước chỉ có một lời hô:

THỐNG NHẤT!

Chúng ta tin khẩu hiệu ta đ̣i

-   Giả miền Nam

Tôi ngửa mặt lên trời

Kêu một tiếng - bỗng mầu trời rơi xuống

 

Vài ba tia máu đỏ rớt vào tôi

Dân ta ơi!

Những tiếng ta ḥ

Có sức đâm trời chảy máu

Không địch nào cưỡng nổi ư ta

Hiền hậu lắm - Nhưng mà đi cả quyết...

 

Hôm nay

Những vần thơ tôi viết

Đă giống lưỡi lê: đâm

Giống viên đạn: xé

Giống băo mưa: gào

 

Giống t́nh yêu: thắm

Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây

Cả nước đă bầu tôi toàn phiếu

Tôi là người vô địch của ḷng tin.

Sao bỗng đêm nay

tôi cúi mặt trước đèn?

 

Gian nhà vắng - chuột đêm nó rúc.

Biết bao nhiêu lo lắng hiện h́nh ra.

Hừ! Chúng nó đă biến thành tảng đá

chặn đường ta!

Em ơi thế ra

Người tin tưởng nhất như anh

vẫn có phút giây ngờ vực

 

Ai có lư? Và ai có lực?

Ai người tin? Ai kẻ ngă ḷng tin?

Em ơi

Cuộc đấu tranh đây

cả nước

cả hoàn cầu

 

Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu

Có lẫn máu, có xót thương lao lực

Anh gạch xoá tranh thơ hằn nét mực

Bỗng mặt anh nh́n thấy! Lạ lùng thay!

Tảng đá chặn đường này!

Muôn triệu con người

 

muôn triệu bàn tay

Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực!

 

Anh đă nghĩ: Không có con đường nào khác Đem ngă ḷng ra

 

mà thống nhất Bắc Nam ư?

Không không!

Đem sức gân ra!

 

Em ơi em!

Cái này đỏ lắm, gọi là TIM

Anh cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT.

 

(Bài thơ này lúc đầu lấy nhan đề là “Bài thơ thống nhất” và chỉ có đến đây là hết. Hoàng Cầm khuyên Trần Dần nên làm thêm một đoạn nữa để “giữ vững lập trường” mới có thể xuất bản được. V́ vậy nên mới có đoạn văn sau này và bài thơ cũng đổi nhan đề là “Nhất định thắng”.)

 

Hôm nay Trời đă thôi mưa thôi gió

 

Nắng lên đỏ phố đỏ nhà

Đỏ mọi buồng tim lá phổi

Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa!

Bây giờ

Em khuân đồ đạc ra phơi

Em nhớ đừng quên

 

Em khuân tất cả tim gan chúng ḿnh phơi nắng hết

Em nh́n cao tít trời xanh

Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ!

Hôm nay em đă có việc làm

Lương ít - Sống c̣n khó khăn

Cũng là may...

Chính phủ muôn lo ngh́n lắng

 

Thực có tài đuổi băo xua mưa, không th́ c̣n khổ

Em treo cờ đỏ đầu nhà

Lá cờ trừ ma

Xua được bóng đen chúng nó!

Những vết thương kháng chiến đỏ ḷm

Đă mím miệng, lên da lên thịt

 

Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực

Em ơi

Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni

và nhiều phố khác

Anh đă sống ở Sài G̣n thuở trước

Cảnh miền Nam thành một góc tim anh

 

Chúng đốt tận đâu

mà lửa xém tim ḿnh

Tim nó bị đen thui một nửa

Từ dạo ấy

mà em chẳng rơ.

 

-   Em hăy đỡ cho anh khỏi ngă Đứng đây

 

Một lúc! Cờ bay đỏ phố đỏ nhà

 

Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh Ai thắng ai thua?

 

Ai có lư? Và ai có lực?

 

Em ơi

Hôm nay

trời xanh

xanh đục

 

Nắng lên

đỏ phố

đỏ cờ

Cuồn cuộn mít tinh

 

Những ngày thương xót đă lùi xa

Hoà b́nh

 

thêm vững

Anh bước đi

đă thấy phố

thấy nhà

Không thấy mưa sa

Chỉ thấy nắng lên

trên màu cờ đỏ.

 

Ta ở phố Sinh Từ

Em này

Hôm nay

đóng cửa

Cả nhà ra phố

mít tinh

 

Vung cờ đỏ

hát ḥ

vỡ phổi.

Hỡi những người

thành phố

thôn quê

 

Đói no lành rách

Người đang vui

Người sống đang buồn

Tất cả!

Ra đường!

Đi!

Hàng đoàn

 

hàng đoàn

Đ̣i lấy tương lai:

HOÀ B̀NH

THỐNG NHẤT

ĐỘC LẬP

DÂN CHỦ

 

Đó là tim

 

là máu đời ḿnh

Là cơm áo! Là ái t́nh

Nhất định thắng!

 

(Trích Giai phẩm mùa Xuân 1956) [3]

 

*

 

Hăy đi măi

 

Lời soạn giả: Ngụ ư của tác giả trong bài này là kêu gọi những người yêu chuộng tự do hăy tranh đấu đến cùng, bất chấp mọi sự đe dọa.

 

Khi trái đất c̣n đeo bom

trước ngực

 

thắt lưng

c̣n lựu đạn, bao xe;

Khi bạo lực c̣n khua

môi mơm mốc x́,

khẩu đại bác mỏi đừ

vẫn sủa;

 

Khi bóng tối

c̣n đau như máy chém

những lời ca đứt cổ

bị bêu đầu

Lũ đao phủ tập trung

h́nh cụ

 

mặt trời lên

phải mọc giữa rừng gươm;

Khi thế kỷ c̣n rung

chuông lừa bịp

Những canh gà

báo trượt rạng đông.

Con rắn lưỡi cắn người như cắn ngoé;

 

Khi xe tăng

chửa đi cấy đi cày,

như

một lũ tội nhân cần cải tạo;

Khi

con tḥ ḷ ngày đêm hai mặt đói meo,

 

c̣n quay tít


trên kiếp người hạ giá;

Những khi ấy

sẵn sàng

nổi giận,

 

loài người

c̣n tổ chức nhau đi.

Hăy đi măi như người

cộng sản

có thể mỏi mọi điều

không mỏi: tấn công!

 

Phải làm lại chúng ta, tất cả -

không tha,

để đừng có một ai lần lữa,

khi nào

chân lư gọi tên đi.

Hăy đi măi! –

dù mưa băm nát mặt

 

Sương rơi, hơn đạn xưa

đau đầu.

Dù bốn mùa

nhưng nhức nắng mưa

mùa băo tuyết thế chân

mùa gió độc.

 

Hăy đi măi! –

dù mưa đông phục kích

hay

lửa hè đánh trộm sau lưng

Dù những đêm

buồn như sa mạc hoang vu

 

Đoàn du mục tủi thân

vùi băi cát.

những ngày, mũi kiếm heo may

đi hành hạ

những tâm tư trằn trọc

Hăy đi măi! –

 

Dù trên biển cả

sóng như người vật vă

khắp đại dương.

Dù những con tầu

bỗng nhớ bến b́nh yên.

c̣i rúc măi những tiếng kêu rùng rợn

 

Hăy đi măi! –


Dù khi cần thiết

người ta cần đói khát

vượt b́nh sa.

Ta bỗng có thể nhịn lâu

 

hơn cả lạc đà

đi

đến tận những kinh thành no ấm.

Hăy đi măi! –

Dù có phen chót ngă

Hăy bó đôi chân lầm lỡ

 

mà đi.

Hăy tin chắc

rồi ta

xứng đáng

một ṿng hoa đỏ nhất

phủ quan tài

 

Tôi chửa có khi nào quên táo bạo

 

chửa khi nào quên hát

quên đau.

Tôi yêu đất mẹ đây –

có cỏ hoa làm chứng

Tôi yêu chủ nghĩa này

cờ đỏ căi cho tôii.

 

Nhưng

chẳng thể rúc kèn củ rích,

vác loa mồm kêu:

“Hiện tại rất thiên đường!”

Không!

Thiên đường chúng ta

 

là nối đuôi nhau

vô tận triệu Thiên đường.

Đi măi

chẳng bao giờ thoả.

Tôi có thể mắc nhiều

tội lỗi,

chẳng bao giờ quá ngu đi

 

mắc tội: nằm ́

Han rỉ

khác ǵ cái chết?

Chết con tim chẳng c̣n dám

đau thương.

Chết khối óc

 

chẳng c̣n dám nghĩ!


Nếu

tôi chửa đến ngày thổ huyết

phổi tôi c̣n xâu xé măi

lời thơ.

 

Tôi có thể mặc thây

ngàn tiếng chửi tục tằn

trừ tiếng chửi: -

“Sống không sáng tạo!”

Nếu tôi bị gió sương

đầu độc,

 

một hôm nào ngă xuống

giữa đường đi

tôi sẽ ngă

như người lính trận

hai bàn tay chết cứng

vẫn ôm cờ.

Nếu vầng nhật

 

thui tôi làm bụi,

nắng oan khiên đốt lại

làm tro.

Bụi tôi sẽ

cùng tro –

vẫn sống

 

vẫn chia nhau gió bấc

xẻ mưa phùn.

Nếu dĩ văng đè trên lưng

hiện tại

nặng nề

hàng tạ đắng cay,

 

tôi sẽ nổ tung

ngàn kho đạn tiếng kêu

tan xác pháo

mọi cái ǵ cũ rích,

Nếu

 

hàm răng chuột nhắt của gia đ́nh

gậm nhấm

 

cả t́nh yêu cùng dự định

tôi sẽ biến thân tôi thành

thép nguội

làm thất bại

mọi thứ rũa đă quen rũa người

tṛn trặn quá ḥn bi.

 

Ở trong tôi


nếu c̣n sức mạnh ǵ

chính là sức những ai

nghèo khổ nhất.

những ai

 

lao lực nhất –

địa cầu ta.

Tôi vẫn nâng chiếc đầu lâu

nặng nề sáng tạo

như

nâng một viễn vọng đài

 

trên cuộc sống hàng ngày

nhí nhách

Tôi vẫn cháy

ngọn hải đăng con mắt

 

   trong biển sống từng đêm.

 

Tôi vẫn đóng những câu thơ như người thợ

 

đóng tàu, chở khách

 

đi về phía trước, nói

 

loài người –

 

đă biết sống chung nhau. Nói

 

tất cả -

 

chẳng c̣n ai bần tiện, chẳng c̣n lo

 

cơm áo nợ nần

 

(Trích báo Văn số 28, xuất bản ngày 15-11-1957)

 

*

 

Phùng Quán

 

Phùng Quán, năm nay 25 tuổi, là một thanh niên nghèo. Trước đi bộ đội, sau được giới thiệu về trường Dự bị Đại học để học thêm. Về Hà Nội anh lại tiếp tục công tác văn nghệ trong quân đội. 

 

Anh viết văn theo lối hiện thực xă hội và được coi là Triệu Tử Long trong nhóm đối lập. Những bài thơ của anh được dư luận gọi là những “bom nguyên tử”.

 

Chúng tôi trích đăng bài “Chống tham ô lăng phi” đăng trong Giai phẩm mùa Thu, tháng 10-1956 và bài “Lời mẹ dặn” đăng trong tờ Văn, tháng 9-1957.

 

Anh không đ̣i hỏi ǵ khác hơn là quét sạch những rác rưởi trong xă hội và yêu cầu các nhà văn phải trung thành với tâm hồn của ḿnh: “Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét”. [4] Anh bị khủng bố chỉ v́ dám nói như vậy. Phùng Quán bị lôi đi chỉnh huấn và phải viết bài thú tội. Trong bản này nhà thơ trẻ tuổi thú nhận rằng sau khi nhóm Nhân văn-Giai phẩm bị giải tán th́ suốt ngày chỉ chơi với một con bú dù. Các bạn hỏi tại sao thích nuôi bú dù, Phùng Quán trả lời: “Chơi với người chán lắm rồi, thành phải chơi với bú dù”.

 

Một chế độ đă đào luyện cho thanh niên một tâm trạng như vậy đủ làm cho chúng ta suy nghĩ về chân giá trị của chế độ đó vậy.

 

Thơ cái chổi - Chống tham ô lăng phí

 

Ta đă đi qua

Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt:

 

Tôi đă gặp

 

Những bà mẹ già quấn giẻ rách

Da đen như củi cháy giữa rừng

Kéo dây thép gai tay máu chảy ṛng

Bởi đồn giặc trồng ngô tỉa lúa.

 

Tôi đă gặp

 

Những cô gái trồng bông

Hai mươi? Ba mươi?

Tôi không nh́n ra nữa.

Mồ hôi sôi trên lưng

Mặt trời như mỏ hàn x́ lửa

Đốt đôi vai cháy hồng.

 

Tôi đă đi qua

Nhiều xóm làng vùng Kiến An Hồng Quảng.

Nước biển dâng lên ướp muối các cánh đồng

Hai mùa lúa không có một bông.

Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ.

 

Tôi đă gặp

 

Những đứa em c̣m cơi

Lên năm lên sáu tuổi đầu.

Cơm tḥm thèm độn cám với rau

Mới tháng ba đă ngong mong đến Tết

 

Để được ăn cơm no có thịt

Một bữa một ngày…

 

Tôi đă đi

 

Giữa Hà Nội những đêm mưa lất phất Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm

 

Tôi đă gặp

Chị em công nhân đổ thùng

Yếm rách chân trần

Quần xắn quá gối

Run lẩy bẩy chui vào hầm xia tối

Vác những thùng phân

 

Ta thuê một vạn một thùng

Có người không dám vác

Các chị suốt đêm quần quật

Sáng ngày vừa đủ nuôi con.

 

Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn Của quần chúng anh hùng lao động Đang buộc bụng thắt lưng để sống Để xây dựng kiến thiết nước nhà

 

Để yêu thương nuôi nấng chúng ta.

 

V́ lẽ đó

 

Tôi quyết tâm rời bỏ

Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa

Những vần thơ xanh đỏ sáng loà

Như trang giấy kim

Dán lên quân trang

 

Đẫm mồ hôi và máu tươi của cách mạng Như công nhân

 

Tôi muốn đúc thơ thành đạn

Bắn vào tim những kẻ làm càn

Những con người tiêu máu của dân

Như tiêu giấy bạc giả!

Các đồng chí ơi!

Tôi không nói quá

 

Về Nam Định mà xem.


Đài xem lễ [5] họ cao hứng dựng lên

Nửa chừng thiếu tiền bỏ dở.

Mười một triệu đồng dầm mưa dăi gió

Mồ hôi máu đỏ mốc rêu.

 

Những con chó sói lăng phí quan liêu

Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng!

 

Nghe gió mùa đông thâu đêm suốt sáng

Nhớ “đài xem lễ” tôi xót bao nhiêu

 

Đất nước chúng ta không đếm hết người nghèo Đêm nay thiếu cơm thiếu áo.

 

Những tên quan liêu Đảng đă phê b́nh trên báo

Và bao nhiêu tên chưa ai biết ai hay

Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gày

Khắp mặt đất

Như ruồi nhặng

 

Ở đâu cũng có!

Đảng muốn phê b́nh tất cả

Phải một ngh́n số báo Nhân dân!

 

Tôi đă đến thăm nhiều hố xí cầu tiêu

Giấy trắng nửa mặt, xé toang chùi đít

 

Những người này không bao giờ họ biết

 

   làng quê con cái nhân dân ta Rọc lá chuối non đóng vở học i-tờ!

 

Tôi đă đến dự những phiên toà

Họp suốt ngày luận bàn xử tội

 

Những con chuột mặc áo quần bộ đội

Đục cơm khoét áo chúng ta

Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ

Kim phút kim giờ lép gầy như bụng đói

Những mẹ già, em trai, chị gái

C̣ng lưng, rỏ máu lấn vành đai!

 

Trung ương Đảng ơi!

Lũ chuột mặt người chưa hết

Đảng lập đội quân trừ diệt

-   Có tôi!

đi trong hàng ngũ tiền phong.

 

(Trích Giai phẩm mùa Thu tập II 1956) [6]

 

*

 

Lời mẹ dặn

 

Tôi mồ côi cha năm hai tuổi

 

Mẹ tôi thương con không lấy chồng

Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải

Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.

 

Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ

Ngày ấy tôi mới lên năm

Có lần tôi nói dối mẹ

Hôm sau tưởng phải ăn đ̣n.

 

Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn

 

Ôm tôi hôn lên mái tóc

-   Con ơi –

trước khi nhắm mắt

Cha con dặn con suốt đời

Phải làm một người chân thật.

 

Mẹ ơi, chân thật là ǵ?

Mẹ tôi hôn lên đôi mắt

Con ơi một người chân thật

Thấy vui muốn cười cứ cười

Thấy buồn muốn khóc là khóc.

Yêu ai cứ bảo là yêu

 

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét.

Dù ai cầm dao doạ giết

Cũng không nói ghét thành yêu.

 

Từ đấy người lớn hỏi tôi:

 

-   Bé ơi, Bé yêu ai nhất? Nhớ lời mẹ tôi trả lời:

 

-   Bé yêu những người chân thật. Người lớn nh́n tôi không tin Cho tôi là con vẹt nhỏ

 

Nhưng không! Những lời dặn đó In vào trí óc của tôi


Như trang giấy trắng tuyệt vời

In lên vết son đỏ chói

Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi

Đứa bé mồ côi thành nhà văn

 

Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm

Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.

Người làm xiếc đi dây rất khó

Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn

Đi trọn đời trên con đường chân thật.

Yêu ai cứ bảo là yêu

 

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét

Dù ai cầm dao doạ giết

Cũng không nói ghét thành yêu.

Tôi muốn làm nhà văn chân thật

chân thật trọn đời

 

Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi Sét nổ trên đầu không xô tôi ngă Bút giấy tôi ai cướp giật đi

 

Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.

 

(Trích báo Văn số 21 ra ngày 27-9-1957)

 

 

 

[1]Trần Dần sinh năm Bính Dần 1926 (talawas).

 

[2]Sau phần giới thiệu Trần Dần, trong nguyên bản có h́nh chụp b́a tập Giai phẩm mùa Xuân 1956, trong đó có đăng bài “Nhất định thắng” của Trần Dần (talawas).

 

[3]Xem nguyên văn bài thơ gồm 9 đoạn trong Giai phẩm mùa Xuân 1956. Bản đăng trong cuốn sách này có lược bỏ một số câu và nguyên đoạn 6 (talawas). [4]Trong cuốn Bác sĩ Zhivago, Boris Pasternak có viết: “Muốn chiều cộng sản th́ dể lắm. Cứ nói là yêu cái ḿnh ghét, và cứ nói là ghét cái ḿnh yêu”. [5]Đài xem lễ do ủy Ban thành phố Nam Định dựng lên để các đại biểu đứng xem lễ. Việc này đă bị phê b́nh ở báo Nhân dân.

 

[6]Bài thơ c̣n có một đoạn cuối bị lược bỏ trong sách này. Xem nguyên văn trong Giai phẩm mùa Thu tập II 1956 (talawas)

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính