Trăm hoa đua nở trên đất Bắc

 

Hoàng Văn Chí

 

 

“... Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối với ḿnh, th́ rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết.” (Phan Khôi)

 

 

Mục lục

 

Lời tựa

 

 

Phần I: Cuộc nổi dậy của trí thức ở miền Bắc

 

Chương I: Nguyên nhân cuộc nổi dậy của trí thức ở miền Bắc

Chương II: Lịch tŕnh đấu tranh của trí thức ở miền Bắc

Chương III: Phương pháp đấu tranh của trí thức ở miền Bắc

 

 

Phần II: Tài liệu (Nhân vật và Tác phẩm)

 

I. Phái cựu học

Cụ Phan Khôi

Giới thiệu cụ Phan Khôi

Phê b́nh lănh đạo văn nghệ

T́m ưu điểm (ngụ ngôn)

Ông B́nh Vôi

Ông Năm Chuột (truyện ngắn)

Nắng chiều

 

 

II. Phái thanh niên

Trần Dần

Giới thiệu Trần Dần

Nhất định thắng (thơ)

Hăy đi măi (thơ)

 

Phùng Quán

Giới thiệu Phùng Quán

Chống tham ô lăng phí (thơ)

Lời mẹ dặn (thơ)

Tạ Hữu Thiện

Giới thiệu Tạ Hữu Thiện

 

Tôi t́m em (thơ)

Bùi Quang Đoài

Giới thiệu Bùi Quang Đoài

Lịch sử một câu chuyện t́nh (truyện ngắn)

 

Chủ nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị (bút chiến Minh Hoàng

 

Giới thiệu Minh Hoàng

 

Đống máy (truyện ngắn)

Phùng Cung

Giới thiệu Phùng Cung

Con ngựa già của chúa Trịnh (truyện ngắn)

Trần Lê Văn

Giới thiệu Trần Lê Văn

 

Bức thư gửi một người bạn cũ


Hoàng Tích Linh

Giới thiệu Hoàng Tích Linh

Xem mặt vợ (kịch ngắn một hồi)

Cơm mới (kịch một hồi)

 

III. Các nhà văn đứng tuổi

 

Tồ Hữu

Giới thiệu Tố Hữu

Bài ca tháng Mười (thơ)

 

Đời đời nhớ Ông (thơ)

Nguyễn Tuân

Giới thiệu Nguyễn Tuân

Phở (tuư bút)

Phê b́nh nhất địnnh là khó

Nguyễn Tuân tự phê b́nh

Văn Cao

 

Giới thiệu văn Cao

Anh có nghe không (thơ)

 

Những ngày báo hiệu mùa xuân (trích trong bài thơ dài “Những người trên

cửa biển”)

Trần Duy

Giới thiệu Trần Duy

 

Những người khổng lồ

 

Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ Hoàng Cầm

 

Giới thiệu Hoàng Cầm

Em bé lên sáu tuổi (thơ)

Tiếng hát (trích 2 đoạn trong hồi thứ nhất vở kịch thơ dài Tiếng hát

 

Trương Chi)

Hữu Loan

Giới thiệu Hữu Loan

Cũng những thằng nịnh hót (thơ)

Lộn ṣng (truyện ngắn)

Sỹ Ngọc

Giới thiệu Sỹ Ngọc

 

Làm cho hoa nở bốn mùa

Bất măn

Chu Ngọc

Giới thiệu Chu Ngọc

Chúng ta gắng nuôi con (hoạt cảnh)

Như Mai

 

Giới thiệu Như Mai

 

Thi sĩ máy

 

IV. Các nhà học giả

 

Đào Duy Anh

Giới thiệu Đào Duy Anh

Muốn phát triển học thuật

Trần Đức Thảo

Giới thiệu Trần Đức Thảo

Nội dung xă hội và h́nh thức tự do

 

Nỗ lực phát triển tự do dân chủ

Nguyễn Mạnh Tường

Giới thiệu Nguyễn Mạnh Tường

 

Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lănh đạo

 

Vừa khóc vừa cười

 

 

 Lời tựa

 

 

Trăm hoa đua nở, Trăm nhà [1] đua tiếng là dịch nôm câu chữ Hán: Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh, trong cổ văn.

 

Đây là một câu mà các học giả đời Hán đặt ra để vừa ca tụng vừa tỏ ư luyến tiếc nền văn học cổ điển của Trung Quốc, sáng ngời trong mấy thế kỷ trước, về thời Đông Chu.

 

Văn học Trung Hoa về thời Đông Chu quả thật xứng đáng cho các thế hệ sau ca ngợi, v́ trong ṿng ba thế kỷ (từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch kỷ nguyên), các học giả thời Đông Chu đă đưa nền văn học Trung Quốc từ chỗ thấp nhất đến chỗ cao nhất mà hai ngh́n năm sau, không tài nào vươn tới.

 

Gần như cùng một lúc, Lăo học, Khổng học và Mạc học đua nhau ra đời, tiếp theo là những học thuyết uyên thâm của Mạnh Tử, Tuân Tử và Dương Chu. Có thể nói được rằng hầu hết các lư thuyết hiện nay c̣n đương tranh giành ảnh hưởng trong nhân loại, như chủ nghĩa dân chủ, lăng mạn, vô chính phủ, duy vật, xă hội, quân chủ chuyên chế, quân chủ lập hiến, phát xít, v.v... đều đă có đại diện từ thời bấy giờ. Tính theo thời gian th́ nền văn học Trung Quốc đă bỏ xa nền văn học Âu châu vào khoảng 20 thế kỷ.

 

V́ vậy nên ngày nay, những học giả nghiên cứu về lịch sử văn hoá Á đông đều phải thắc mắc về một điểm: Tại sao một nền văn hoá đương phát triển một cách tốt đẹp như vậy lại bỗng nhiên đứng dừng lại, khiến trong suốt hai ngh́n năm về sau, Trung Quốc chỉ có lùi mà không có tiến về phương diện tư tưởng?

 

Ông Tibor Mende, một nhà học giả Tây phương, chuyên nghiên cứu về các vấn đề Á đông, đă ví nền văn hoá Trung Quốc và Ấn Độ như hai con sông lớn, đă mang sinh lực tưới khắp miền Đông Nam Á, bỗng dưng bị cạn hết nước. Nguyên nhân ǵ đă làm tịt ng̣i? Ông nêu ra câu hỏi mà không trả lời. [2]

 

Nói một cách rơ ràng hơn th́: Tại sao về thời Đông Chu lại có Khổng, Mạnh, Lăo, Mạc,.. mà hai ngh́n năm sau không có vị thánh hiền nào cả? Hoặc dùng một h́nh ảnh tượng trưng th́: tại sao trong một thời đại loạn ly như thời Xuân Thu, Chiến Quốc, trăm hoa lại đua nở mà từ thời ấy về sau hoa lại không nở?

 

Chúng tôi nghĩ rằng nếu ôn lại lịch sử chính trị Trung Quốc, chúng ta có thể t́m ra câu giải đáp.

 

Về thời Đông Chu, Trung Quốc bị phân chia thành nhiều nước chư hầu, luôn luôn đánh nhau để tranh giành ngôi bá chủ, nên nước nào cũng lo thu phục nhân tài để mở mang thế lực. V́ vậy nên kẻ sĩ đương thời được trọng đăi. Một mặt khác v́ nước nào cũng yếu, nên không ông vua nào có đủ quyền lực để thiết lập chế độ độc tài. Do đó ngôn luận không bị kiềm chế v́ các nhà học giả, nếu chẳng may bị vua chúa trong nước khủng bố v́ tội đă phát biểu một ư kiến trái ngược với đường lối của triều đ́nh, th́ cũng dễ dàng vượt biên giới chạy sang nước đối nghịch, có người sẵn sàng dung nạp ngay. V́ vậy nên mới có quang cảnh “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Nếu hoa không nở được ở khí hậu này, có thể nở được ở khí hậu khác. Nếu một học giả không phổ biến được tư tưởng của ḿnh ở Tề, th́ có thể di cư sang Sở chẳng hạn, để truyền bá học thuyết của ḿnh.

 

Thời Đông Chu tuy là một thời loạn lạc, nhưng chính v́ loạn lạc mà tư tưởng không bị kiểm soát. 

 

Trái lại, sau khi Thương Ưởng đưa ra thuyết quân chủ chuyên chế và Lư Tư, học tṛ của Thương Ưởng giúp Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, th́ từ ngày ấy về sau không một vị thánh hiền nào xuất hiện trên đất Trung Quốc nữa. Một lẽ rất dễ hiểu là không có tự do tư tưởng th́ không có nhà tư tưởng, cũng như hễ không có nước th́ không thể nào có cá được.

 

Lư Tư, môn đệ của phái Pháp gia, được Tần Thuỷ Hoàng bổ làm Thượng thư, làm sớ tâu đại khái như sau:

 

“Từ trước tới nay, thiên hạ sống trong cảnh phân chia, nên tư tưởng bị hỗn loạn... Ngày nay Bệ hạ đă thống nhất sơn hà mà vẫn c̣n nhiều người ngang nhiên mở trường dạy học, mang ư kiến riêng của ḿnh ra chê bai luật pháp và chính sách của triều đ́nh... Nếu Bệ hạ không mau ngăn cấm th́ kỷ cương sẽ sụp đổ từ trên xuống dưới và đảng phái sẽ mọc từ dưới lên trên.”

 

Năm 213 trước Tây lịch, Tần Thuỷ Hoàng nghe theo Lư Tư đốt hết sách vở có phương hại đến đường lối của Tần triều và chôn sống 460 nhà trí thức đối lập.

 

[3]   Họ bị chôn sống v́ bờ cơi của đế quốc Tần rộng quá, không tài nào chạy thoát. Từ ngày ấy Trung Quốc có một chính phủ duy nhất, một luật pháp duy nhất, nhưng cũng có một lối nghĩ duy nhất. Trăm hoa hết đua nở và trăm nhà đều im tiếng.

 

Sau Tần đến Hán. Các vua triều Hán, khôn ngoan hơn vua Tần, không cấm đoán tư tưởng, nhưng hạn chế tư tưởng bằng cách đưa Khổng giáo lên địa vị quốc giáo, khiến các học thuyết khác phải lùi bước. Triều đ́nh chỉ tuyển lựa những người thông hiểu Ngũ kinh, Tứ thư để bổ làm quan lại, nên Nho học trở thành bậc thang cho giới trí thức bước lên đàn sĩ hoạn. [4] Nhưng cũng v́ vậy mà triết lư của Khổng Tử bị xuyên tạc và Khổng học chỉ c̣n là một lợi khí của giới thống trị. Nói theo kiểu cụ Phan Khôi th́ “Trăm hoa” đă trở thành hoa cúc vạn thọ hết thẩy. [5]

 

Suốt trong 20 thế kỷ về sau, trí thức Trung Hoa luôn luôn bị khủng bố. Tư Mă Thiên bị thiến, Ban Cố bị chết trong ngục, Phạm Việp vị xử tử... cho đến người cuối là Lương Khải Siêu, phải chạy sang Nhật Bản mới thoát thân.

 

Từ ngày ông Mao Trạch Đông lên kế nghiệp Tần Thuỷ Hoàng, ông đă giết Hồ Phong, và nhiều học giả khác, nhưng gần đây ông lại tuyên bố cho phép “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”.

 

Không ai biết rơ chủ định của ông Mao như thế nào, nhưng mọi người đều nhận thấy rằng trên toàn cơi Trung cộng hiện nay, không có thứ hoa nào khác hơn là hoa Mác-Xít.

 

Tóm lại dù là chuyên chế kiểu quân chủ hay kiểu cộng sản, chế độ tập quyền vẫn tiêu diệt tự do tư tưởng. Ngày nay cũng như suốt hai ngh́n năm về trước, trí thức Trung Hoa vẫn bị bịt mồm, bịt miệng.

 

Từ ngày Bắc Việt trở thành một “vệ tinh” của khối cộng sản, trí thức ở Bắc Việt cũng lâm vào t́nh trạng chung của đồng bạn ở khắp trong bức màn sắt.

 

Nhưng “40 năm một thuở”, trong dịp hạ bệ Stalin vừa qua, họ đều đứng dậy đấu tranh chống Đảng, đ̣i phục hồi quyền tự do tư tưởng. Trong phong trào quật khởi này, trí thức ở Bắc Việt cũng đă góp một phần quan trọng. Suốt trong thời gian hai năm, 1956 và 1957, trí thức ở miền Bắc đă sản xuất trên một trăm bản văn có giá trị. Cộng sản coi những bản văn ấy là những “cỏ độc”, nhưng chúng tôi coi những tác phẩm của họ như một “trăm hoa” thực sự.

 

V́ vậy nên chúng tôi sưu tầm và kết lại thành một “bó hoa” để cống hiến độc giả, ḥng góp sức vào công việc làm sáng tỏ thêm nền văn học hiện đại của dân tộc Việt Nam.

 

Đối với độc giả trong Thế giới Tự do chúng tôi cũng muốn nói một câu: Không nên nghĩ rằng cần phải chuyên chế mới có đủ phương tiện để thực hiện những công tŕnh vĩ đại, v́ xưa kia Tần Thuỷ Hoàng cũng đă thực hiện những công cuộc vĩ đại, xây đắp Vạn lư Trường thành, thiết lập xa lộ, thế mà nhà Tần vẫn bị mất nghiệp; một mặt khác, chính v́ Tần Thuỷ Hoàng khởi đầu việc đàn áp tư tưởng mà văn hoá Trung Quốc đă bị đứng dừng trong hai ngàn năm nay. Lợi nhất thời không bằng hại muôn thuở.

 

 

Saigon, tháng Giêng 1959

Hoàng Văn Chí

 

Trưởng ban biên tập của

Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hoá

 

Phần I: Cuộc nổi dậy của trí thức ở miền Bắc

 

Chương 1: Nguyên nhân cuộc nổi dậy của trí thức ở miền Bắc

 

Trí thức ở miền Bắc Việt Nam đă nổi dậy chống lại chế độ cộng sản từ mùa Xuân năm 1956 mà măi đến cuối Thu năm ấy báo chí ở Sài G̣n mới được tin v́ nhà cầm quyền miền Bắc đă dùng mọi biện pháp để cố t́nh bưng bít một cuộc nội biến đánh dấu sự suy sụp của hệ thống tư tưởng cộng sản. Suốt trong thời gian mấy tháng, trong khi trí thức ở miền Bắc đă anh dũng vùng dậy đánh những đ̣n chí mạng vào uy tín của Đảng th́ báo chí và đài phát thanh của Đảng hoàn toàn làm ngơ. Đảng chỉ mải miết dùng lực lượng công an để đe doạ những người đọc báo, bán báo và ra lệnh cho công đoàn xui giục công nhân nhà in không in báo đối lập.

 

Cho măi đến khi những “đ̣n ngầm” đó không hạ nổi địch thủ, và cũng đến khi phe đối lập dồn Đảng vào chân tường, không có thế lui, Đảng mới chỉ thị cho các đoàn thể ở khắp mọi nơi viết kiến nghị đ̣i đóng cửa các báo đối lập. Chính những lúc kiến nghị đồng loạt đó xuất hiện trên mặt báo Nhân dân, th́ dư luận ở Sài G̣n mới biết là có báo đối lập ở miền Bắc. Chỉ một tháng sau thông tín viên hăng AFP ở Hà Nội loan tin cho thế giới biết việc nông dân ở Nghệ An đă bạo động nổi dậy, dùng gậy tre và những vơ khí thô sơ khác đánh nhau với bộ đội. Tin đó làm nhiều người sửng sốt.

 

Sửng sốt là phải, v́ trước đó một tháng các báo chí của Đảng và đài phát thanh Hà Nội hăy c̣n say sưa ca khúc khải hoàn sau đợt Cải cách ruộng đất “hoàn toàn thắng lợi”.

 

Đùng một cái, ông Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng, ông Hồ Viết Thắng, Thứ trưởng phụ trách Cải cách ruộng đất đột nhiên bị cất chức: ông Vơ Nguyên Giáp phải đứng ra thay mặt Trung ương Đảng công khai thú nhận sai lầm và hứa hẹn sửa chữa. Tiếp đến là tin cán bộ tập kết phá bóp cảnh sát Bờ Hồ, tin học sinh tập kết khởi loạn ở Ngă Tư sở, và cuối cùng là “vụ Quỳnh Lưu”.

 

Nhiều người ở Sài G̣n không ngờ có những chuyện lạ lùng như vậy. Ngạc nhiên trước tiên là số người trước kia có tham gia kháng chiến, và hiện c̣n lưu luyến chiến khu. Họ không phân biệt kháng chiến với cộng sản, nên cứ yên trí rằng chế độ miền Bắc thực sự là chế độ “dân chủ cộng hoà” và ông Hồ là một người chân thành ái quốc. Họ cũng đinh ninh rằng những phần tử nhiệt thành như họ, trước kia đă tích cực tham gia kháng chiến th́ ngày nay vẫn phục vụ chính sách của “Bác” cho đến cùng. Họ không ngờ rằng “giá” họ được đi tập kết th́ chính họ cũng sẽ phải dự vào cuộc phá bóp cảnh sát Bờ Hồ (Hà Nội) để giải thoát cho một số “tập kết” bị giam cùm trong đó.

 

Những người thông thường, có đôi chút kinh nghiệm đau xót với cộng sản, kể cả những đồng bào Bắc Việt di cư cũng không ngờ rằng trong một thời gian không đầy hai năm t́nh h́nh ở nơi quê cha đất tổ có sự thay đổi quá nhanh chóng như vậy. Họ nhớ ngày nào quân đội của “Cụ” kéo vào chiếm đóng Hà Nội, nhân dân thủ đô c̣n đón rước tưng bừng. Nào cờ quạt, nào biểu ngữ, nào cổng chào, nào kéo nhau đi xem văn công, [6] xem triển lăm. Họ không ngờ rằng chỉ một năm sau khi họ bỏ nhà cửa ra đi, bộ đội oai hùng đó lại bị chính ngay nông dân vác gậy phang vỡ đầu.

 

Giới quan sát ở Sài G̣n th́ không ngạc nhiên khi nhận được những tin tức kể trên. Họ đă tiên đoán rằng sớm muộn thế nào cộng sản cũng phải “sửa sai” để vớt vát ḷng dân v́ từ năm 1926 Mao Trạch Đông, trong bài “Cuộc đấu tranh của nông dân Hồ Nam” đă chủ trương rằng: “Muốn nắn một vật cong th́ phải nắn quá mức, để khi buông tay ra th́ vừa”. Nhưng phải thú thực rằng ít người ngờ rằng khi buông tay ra, vật cong đó lại bật trở lại quá mạnh, và bật đúng vào mặt người đă “uốn quá mức”.

 

V́ dân tộc Việt Nam vốn dĩ là một dân tộc có truyền thống chịu đựng để tồn tại. Trong khi chịu đựng, họ luôn luôn chăm chú chờ dịp kẻ thù yếu thế là lập tức quật trở lại. Đối với cộng sản ngày nay cũng như đối với phong kiến Trung Quốc thuở xưa, dân Việt Nam vẫn dùng chính sách dĩ nhu nhược thắng cương cường. Họ giả vờ găi đầu găi tai, vâng vâng, dạ dạ, làm cho kẻ thống trị ăn no ngủ yên, lâu ngày sinh ra chủ quan khinh địch. Bệnh chủ quan này người Hán, người Minh, người Pháp ngày xưa đă mắc phải. Ngày nay Việt cộng và các cố vấn “vĩ đại” cũng không sao tránh được.

 

V́ nếu thực dân và đế quốc có chủ quan của thực dân đế quốc, th́ cộng sản cũng có chủ quan đặc biệt của cộng sản. Mặc dù đă học thuộc biện chứng pháp, họ vẫn quên không nhớ rằng mọi vật đều biến chuyển, nên chi họ không ngờ rằng ngay trong hàng ngũ của họ đă phát sinh ra những “mâu thuẫn đối kháng” đưa dần đến sự “huỷ thể của huỷ thể”.

 

Nói một cách khác, Việt cộng không tính đến hai việc: Một việc là giới trí thức đă tham gia kháng chiến dưới quyền lănh đạo của họ lại dám ngang nhiên nổi dậy chống họ, hai là họ không ngờ rằng đồng chí Khrushchev lại “nỡ ḷng” hạ bệ cố đồng chí Stalin vĩ đại.

 

Chúng ta thử xét xem hai việc này có liên quan mật thiết như thế nào.

 

*

 

Nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng đều có thể chia làm hai loại: Khách quan và chủ quan.

 

Những nguyên nhân khách quan là những biến chuyển quốc tế quốc nội đột nhiên làm giảm uy thế của giai cấp thống trị và nguyên nhân chủ quan là đời sống mỗi ngày một đen tối của giai cấp bị trị, bị áp bức và bóc lột tới một mức không thể chịu đựng lâu hơn. 

 

A. Những nguyên nhân khách quan

 

Những nguyên nhân này có thể chia làm hai loại: Một là ảnh hưởng quốc tế do bài diễn văn của Khrushchev hạ bệ Stalin gây nên, hai là ảnh hưởng của chiến dịch Cải cách ruộng đất mà giới trí thức miền Bắc đă mệnh danh là một cuộc “ám sát tập thể”.

 

a) Việc hạ bệ Stalin

 

Ngay sau khi Stalin nhắm mắt th́ những mâu thuẫn nội bộ đă phát sinh từ ngay trong bốn bức tường của điện Kremlin. Nào thanh trừng Beria, lật đổ Malenkov, rồi đến hạ bệ uy tín của mồ ma Stalin. 

 

Hiện nay chưa ai biết đích xác tại sao Khrushchev lại giở cái tṛ hạ bệ uy tín của một người đă mồ yên mả đẹp một cách kỳ quặc như vậy. Nhưng phần lớn các nhà quan sát quốc tế cho rằng Khrushchev muốn làm khuây khoả ḷng dân Nga giữa lúc những nỗi khổ cực của họ đă chồng chất tới một mức họ không thể chịu nổi. Đổ tất cả tội lỗi lên đầu một kẻ đă quá cố là một diệu kế để xây dựng uy tín của người mới kế nghiệp và tạo cơ hội để thanh trừng nội bộ.

 

Các đại biểu dự cuộc Hội nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên sô quả đă giật ḿnh khi thấy Khrushchev kể ra nào Stalin đă lưu đầy các dân tộc thiểu số, thủ tiêu hàng vạn đảng viên đối lập, hàng ngàn sĩ quan của Hồng quân. Khrushchev vạch ra nào là sự u mê của Stalin trước hiểm hoạ xâm lăng của Đức Quốc xă, nào là sự ngu độn trong việc điều khiển chiến tranh. Lănh tụ mới tuyên bố trước Hội nghị rằng nguyên nhân duy nhất của tất cả những sai lầm và tội lỗi mà Nga-sô đă mắc phải trong triều đại Stalin là bệnh sùng bái cá nhân. Khrushchev định nghĩa sự sùng bái cá nhân là: đề cao một vị lănh tụ thành một thánh sống có tài triệt thấu mọi việc trong thiên hạ, giải quyết được mọi việc cho mọi người mà không hề mảy may sai lầm.

 

Hội nghị lần thứ 20 cũng sửa đổi lại luận thuyết Stalin, ấy là từ bỏ quan niệm quá khích của Stalin nói rằng “cách mạng nhất thiết phải bạo động và càng tiến tới xă hội chủ nghĩa th́ đấu tranh giai cấp càng quyết liệt”. Thay v́ chính sách “quá tả” của Stalin, Khrushchev đưa ra một chính sách mềm dẻo hơn, đối ngoại cũng như đối nội, Khrushchev tuyên bố sẽ dân chủ hoá chế độ và hứa hẹn từ nay sẽ lănh đạo “tập thể”. Đợi măi không thấy Khrushchev ban bố một biện pháp ǵ khả dĩ mang lại ít nhhiều dân chủ, ngoài việc Khrushchev đi đâu cũng cập kè với Bulganin cho có bạn đồng hành, các nhà văn Nga bắt đầu lên tiếng đ̣i hỏi. Người cầm đầu phong trào là Dundinsev. Ông viết một loạt bài báo lấy nhan đề là “Cơm áo không đủ”, trong đó ông tŕnh bày những bất công của chế độ, nhưng khi xin phép xuất bản thành sách th́ nhà cầm quyền Nga không cho. Quyển sách này phải gửi sang Anh xuất bản.

 

So với các nước Đông Âu th́ phong trào đ̣i hỏi tự do ở Nga tiến chậm hơn, nên chưa kịp gây ảnh hưởng sâu rộng, th́ vụ Budapest đă xẩy ra, khiến Khrushchev vội vă trở lại chính sách cứng rắn của Stalin và thẳng tay đàn áp.

 

b) Khẩu hiệu “Trăm hoa đua nở”

 

Tuy các lănh tụ Trung cộng phải tuân theo chỉ thị của Đệ tam Quốc tế và công bố tân chính sách, nhưng v́ t́nh h́nh nội bộ không đến nỗi khẩn trương như ở Nga-sô, nên họ chỉ thi hành một cách hời hợt cho đủ lệ, nghĩa là chỉ tung ra một khẩu hiệu rất lờ mờ là “Trăm hoa đua nở”. Ngoài ra họ tránh không áp dụng một biện pháp nào có tính cách nới rộng tự do dân chủ. 

 

Ngày 25 tháng 5 năm 1956, cục trưởng cục Tuyên huấn của Đảng Cộng sản Trung Quốc là Lục Định nhất triệu tập các nhà khoa học, xă hội học, các văn nghệ sĩ, các đại diện đảng phái bù nh́n và một số “nhân sĩ tiến bộ” đến viện Hoài Nhân đường ở Bắc Kinh để đọc cho họ nghe một bài diễn văn nhan đề là “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”. Họ Lục nói rằng hai câu tám chữ đó là ông Mao đă trích ở cổ văn ra và giao cho ông công tác giải thích.

 

Họ Lục nói rằng:

 

“Nếu không có nhiều môn phái, nhiều chủ trương th́ văn nghệ không thể trở nên phong phú được.”

 

Vừa mới nói ra, họ Lục lại vội vàng khép lại:

 

“Hai ngh́n năm về trước, trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, Trung Quốc có nhiều học phái khác nhau. Hồi đó các học phái đều tự ư phát triển, không phục ṭng một hệ thống tư tưởng nào cả, nhưng ngày nay... chính quyền của nhân dân đă thành lập và vững mạnh th́ sự tranh luận của bách gia ngày nay phải nằm trong khuôn khổ một chương tŕnh chung.”

 

Nói về những tương quan giữa văn học và chính trị họ Lục cũng tuyên bố nước đôi như sau:

 

“Cần phải đề cao sự tự do tranh luận và bênh vực ư kiến trong mọi ngành học thuật nhưng đồng thời cũng không nên lẫn lộn những cuộc tranh luận xây dựng torng nội bộ Đảng với những cuộc tranh đấu để tiêu diệt những phần tử phản động... Có hai lối phê b́nh: Phê b́nh kẻ thù và phê b́nh những đồng chí phạm sai lầm. Phê b́nh kẻ thù là đập cho nó một truỳ vỡ sọ chết tươi, c̣n phê b́nh một một đồng chí phạm sai lầm là lấy khoan hồng đưa dần họ về với chính nghĩa.”

 

Ông Lục Định Nhất nói rất nhiều, nhưng quên không định nghĩa thế nào là “kẻ thù” và thế nào là “phạm sai lầm” nên không ai dám đụng chạm đến Đảng, sợ nhỡ bị “một truỳ vỡ sọ chết tươi” như ông Lục đă cảnh cáo. V́ vậy nên phong trào chống đối ở Trung Quốc chậm phát hơn ở các nước cộng sản khác. Măi đến 1957 nhóm La Long Cơ mới khởi sự chống Đảng.

 

c) T́nh h́nh ở các nước Đông Âu, ở Ba Lan

 

Ba Lan vốn dĩ là một nước có truyền thống quốc gia rất mạnh, nên phong trào chống đối Nga bộc phát trước tiên. Sau vụ Poznan (28-6-56) các nhà cầm quyền Sô-viết nhận thấy sức mạnh của lư tưởng quốc gia nên cố t́m cách đàn áp phong tràọ Nhưng đảng Cộng sản Ba Lan tranh chấp quyền hành với Nga-sô, tự ư   đón Gomulka từ nhà tù về và đưa lên nắm chính quyền. Đứng trước sự đă rồi, Khrushchev đành nuốt hận làm lành và tiếp đón Gomulka một cách gượng gạo. Về phần Gomulka, ông cũng khéo léo cố tránh không làm ǵ khiến Nga-sô phải bẽ mặt và kiếm cớ can thiệp.

  

d) Ở Hung Gia Lợi

 

Chỉ vài tháng sau các nhà lănh tụ Sô-viết phải đối phó ngay với cuộc khởi nghĩa của dân chúng Hung. Trong mấy ngày đầu họ yên trí rằng họ có thể thu hẹp phạm vi ảnh hưởng như việc đă xẩy ra ở Ba Lan, nhưng đến khi dân chúng đ̣i độc lập và dân chủ hoàn toàn th́ Khrushchev ra lệnh cho bộ đội quay trở lại đàn áp. Vụ Budapest đă vang dội khắp thế giới và có ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần dân chúng ở Bắc Việt.

 

e) T́nh h́nh ở Bắc Việt năm 1956

 

Nếu mang so sánh th́ chúng ta có thể nhận thấy các lănh tụ ở Bắc Việt trong năm 1956 quả đă vất vả hơn các vị đàn anh của họ ở Trung Quốc. Lư do là v́ Trung cộng đă hoàn thành chiến dịch Cải cách ruộng đất từ mấy năm trước khi Đệ tam Quốc tế ban hành đường lối mới nên t́nh h́nh chính trị tương đối đă được ổn định. Hơn nữa Trung cộng đă thanh trừng hết mọi phần tử trí thức đối lập trong vụ án Hồ Phong nên nắm vững được t́nh h́nh nội bộ để đối phó với làn sóng cách mạng từ Đông Âu tràn sang.

 

Trái lại, khi Mikoyan, sứ giả của điện Kremlin sang Hà Nội để giải thích về “tân chính sách” th́ cuộc cách mạng ruộng đất ở miền Bắc c̣n đang dở dang, và đang ở giai đoạn chót và mạnh nhất. Đứng trước t́nh thế đó ông Hồ Chí Minh đành tŕ hoăn việc ban bố chính sách mới và cứ để yên cho cuộc đấu tố tiếp diễn, v́ không có lư ǵ (theo lời ông Hồ) lại “dội một gáo nước lạnh vào đầu cán bộ”.

 

Do đó măi đến tháng tám năm 1956 Việt cộng mới phổ biến quyết định quan trọng của Hội nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên sô, đồng thời tuyên bố “Sửa sai”, v́ măi đến cuối tháng Bảy mới hoàn thành đợt chót của chiến dịch Cải cách ruộng đất, gọi là đợt Điện Biên Phủ. V́ để quá lâu mới mở “súp páp” nên khi mở th́ hơi x́ phải mạnh hơn. Những nỗi oan ức mỗi ngày một chồng chất thêm đă gây trong dân chúng một không khí căm thù đối với chế độ mỗi ngày một sâu rộng. Đồng thời t́nh h́nh Đông Âu mỗi ngày một căng thẳng. Vụ Poznan đă xẩy ra ngày 28-6-1956 và kế đến vụ Budapest, ngày 23-10-1956 làm rung chuyển bộ máy thống trị của Đệ tam Quốc tế ở khắp các nước chư hầu.

 

Chiến dịch sửa sai

 

Chiến dịch này bắt đầu bằng việc giải thích bằng báo chí và bằng “học tập” về quyết nghị của Hội nghị lần thứ 20, trong đó có nói đến “bệnh tôn sùng cá nhân” và “chính sách tập thể”. Việc thứ hai là “hạ bệ” ông Trường Chinh và ông Hồ Viết Thắng, và thả ra 12 ngàn đảng viên bị cầm tù v́ bị quy lầm là địa chủ, trong số đó có nhiều người đă bị lên án tử h́nh.

 

Ảnh hưởng của “sửa sai” ở nông thôn

 

Sau khi các đảng viên trung kiên được tha từ nhà tù về, được khôi phục công quyền, khôi phục đảng tịch và chức vụ th́ họ t́m ngay đến các “đồng chí” đă “tố sai” để trả thù. Do đó t́nh trạng xung đột giết chóc giữa đảng viên cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của Đảng bị sụp đổ, cán bộ đâm ra hoang mang. Trong dịp này nhà văn Nguyễn Sáng có nói một cách hài hước: “Lạc quan sai; bi quan cũng sai; chỉ có hoang mang mới đúng”. Nhân đân được dịp đ̣i lại ruộng nương, nhà cửa bị tịch thu.

 

   nông thôn các đảng viên đi họp phải mang búa theo để “thảo luận” với nhau. Những địa chủ được tha về, thấy t́nh trạng làng xóm như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đ́nh “tiểu tư sản” hồi kháng chiến đă trú ngụ tại nhà ḿnh. Các bần cố nông, trót nghe lời Đảng “tố điêu” nay sợ bị rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp cyclo và đi ở. V́ vậy nên dân số ở Hà Nội, Nam Định đột nhiên tăng gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, lây cho công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức. Đáp lại vụ nổi loạn của nông dân ở Quỳnh Lưu, thanh niên và công nhân “Nam bộ tập kết” đập phá bót cảnh sát Bờ Hồ Hà Nội (bên cạnh ga tầu điện, đầu phố Cầu Gỗ).

 

 

B. Những nguyên nhân chủ quan

 

Trí thức ở miền Bắc trước kia đă chân thành hợp tác với cộng sản để kháng chiến mà ngày nay phải dứng dậy chống lại chính quyền cộng sản, một phần v́ nhiệm vụ thiêng liêng của họ bắt họ phải luôn luôn tranh đấu cho tự do dân chủ mà chế độ cộng sản cũng chỉ hẹn ḥ nhưng thực sự không mang lại. Một phần khác cũng v́ chính bản thân họ bị bóc lột và bị áp bức tới mức độ mà không ai chịu nổi. Nh́n xung quanh ḿnh, người trí thức chỉ thấy chém giết và khủng bố, dă man hơn cả những thời kỳ mà sử sách đă ghi chép, nh́n vào bản thân, họ thấy họ trở thành một thứ tôi đ̣i, vừa bị bóc lột vừa bị chà đạp. Từ giai cấp tiểu tư sản họ tụt xuống trở thành vô sản. Từ địa vị lănh đạo tư tưởng và học thuật họ đă trở thành một thứ người mà ông Mao ngang nhiên gọi là “không ích lợi bằng cục phân”.

 

a) Đời sống vật chất của giới trí thức ở miền Bắc

 

Ai cũng biết trong thời gian kháng chiến giới trí thức đă phải sống một đời sống cơ cực. Câu chuyện cụ Phan Khôi khi trở về Hà Nội, được bạn thân đăi cơm có thịt gà, cầm đũa chỉ vào miếng thịt trên mâm mà nói đùa: “Chín năm nay tao lại mới gặp mày”, đă trở thành một giai thoại.

 

Nhưng không phải tất cả văn nghệ sĩ về Hà Nội đều gặp được thịt gà. Một đoạn trong bản đề án của ông Hoàng Huế, một thi sĩ tập kết, gửi Đại hội Văn nghệ Toàn quốc, đăng trong tập Giai phẩm đă tả cho chúng ta biết t́nh h́nh sinh hoạt vật chất của đa số văn nghệ sĩ ở chiến khu trở về Hà Nội.

 

Ông Hoàng Huế viết:

 

“Ai cũng biết rằng đời sống của chúng ta thiếu thốn quá. Đây là một sự thật buồn bă vẫn hàng ngày đập vào mặt chúng ta làm cho những kẻ đơn giản nhất cũng phải suy nghĩ.

 

Chúng ta không thắc mắc về cảnh sống trong kháng chiến. Nhưng trở về Hà Nội, giữa những phố xá đầy nhung lụa, tủ kính và ánh đèn xanh đỏ, có lẽ chưa bao giờ người nghệ sĩ cảm thấy cay đắng như lúc này. Cần phải nói thẳng rằng ở một toà soạn báo văn nghệ, trong số 8 biên tập viên có vợ, th́ 6 người đă thất nghiệp hay bán thất nghiệp. Những trang giấy trắng đáng lẽ chỉ dùng để chép thơ cũng đă bao lần biến thành đơn xin việc. Những lá đơn ấy gởi đi rồi im lặng không nghe một tiếng trả lời.

 

Sự thật đă có những nhà văn viết đêm, không có một tách cà phê để uống. Đă có những thi sĩ không làm thế nào mua được dăm điếu thuốc lá trong cơn nghiện, và đă có một kịch sĩ bán chiếc đồng hồ đeo tay của ḿnh để bồi dưỡng viết cho xong cuốn sách, nhưng in ra không đủ tiền để chuộc chiếc đồng hồ.

 

Hữu Loan có thể nói cho chúng ta biết t́nh cảnh của anh. Nằm trong bóng tối của một gian nhà nhỏ ở ngoại ô Hà Nội khi không có tiếng vợ kêu con khóc, Hữu Loan chỉ mơ ước có một ngọn đèn dầu để thức mà viết. Văn Kư cũng có thể nói cho chúng ta biết t́nh cảnh của anh. Buổi sớm mai không có củ khoai luộc cho con ăn, nghe tiếng con kêu khóc mà đứt ruột.”

 

Đoạn văn kể trên là lời phát biểu của thi sĩ Hoàng Huế về đời sống vật chất của giai cấp mà cụ Phan Khôi mệnh danh là “quần chúng văn nghệ”. Căn cứ vào những lời tŕnh bày của ông Hoàng Huế th́ đời sống của văn nghệ sĩ sau khi họ về Hà Nội c̣n cực hơn thời kỳ họ nằm gai nếm mật ở chiến khu gấp bội lần. Nhưng không phải mọi văn nghệ sĩ đều sống một cách đen tối như vậy. Đây là lời ông Hoàng Huế tả về đời sống của cấp lănh đạo, một giai cấp mà Milovan Djilas gọi là “giai cấp thống trị mới”:

 

“Hai năm hoà b́nh, chúng ta thấy có nhiều nhà văn (trước kia) có tài, (ngày nay) bị buộc chặt vào địa vị bằng những sợi lụa có tẩm thuốc độc. Tác phẩm của họ (ngày nay) chỉ là chỉ thị, kế hoạch, công văn, thông cáo. Họ trịnh trọng thắt cà vạt đỏ, đi giày da vàng, đọc đít cua và nhồm nhoàm ăn tiệc, rồi lại xách va ly, bay đó bay đây, trên mây trên gió.”

 

Đây là thi sĩ Hoàng Huế muốn nói đến các nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đ́nh Thi, Hoài Thanh, Xuân Diệu vân vân... Họ là cấp lănh đạo, chuyên môn ra chỉ thị, kế hoạch cho quần chúng văn nghệ thi hành, nghĩa là sản xuất theo “com măng” của Đảng đặt. C̣n bọn quần chúng văn nghệ th́ nai lưng sáng tác để bán rẻ văn chương cho Đảng lấy mỗi tháng vài chục kí lô gạo.

 

Hiện nay trong giới văn nghệ sĩ ở miền Bắc có hai giai cấp, sống hai đời sống quá chênh lệch. Cụ Phan Khôi gọi giai cấp trên là giai cấp lănh đạo và giai cấp dưới là giai cấp quần chúng văn nghệ. Cụ Phan Khôi gọi như vậy v́ cụ muốn nói cho có văn vẻ. Sự thực th́ nhiều người gọi một cách nôm na là “cai văn nghệ” và “cu ly văn nghệ”. Gọi bằng hai danh từ đó mới thực sự nêu lên được t́nh trạng “người bóc lột người”. Người bóc lột hiện nay không phải là một nhân vật cầm ba-toong, ngậm x́-gà mà là Đảng, một vật vô h́nh, bóc lột hàng triệu nô lệ làm việc bằng chân tay hay bằng trí óc, để nuôi một lũ cán bộ “thắt cà vạt đỏ và ăn tiệc nhồm nhoàm”.

 

Đây quả thật là một cuộc đấu tranh giai cấp, giữa một giai cấp thống trị ngồi mát ăn bát vàng và một giai cấp bị trị, bị bóc lột đến tận xương tủy.

 

Trong khi bọn văn nghệ sĩ dám can đảm sống với lư tưởng của ḿnh để không có củ khoai mà ăn th́ Nguyễn Tuân sang Helsinki dự Hội nghị Hoà b́nh Thế giới, ở một khách sạn lớn vào bực nhất mà c̣n chê là cơm ở khách sạn đó không hợp khẩu vị. Nguyễn Tuân viết: “Mỗi ngày ăn ba bữa, khẩu phần thừa thăi bổ béo; nghi thức lúc ăn thực là sang trọng; đồ sứ, pha lê, khăn bàn trắng muốt, quanh bàn ăn chốc chốc lại cử nhạc, những chị đưa món ăn trông đẹp như rượu rót trong các truyện thần thoại... Nhưng tôi ăn uống sao không thấy ngon...”.

 

(Xem bài “Phở” của Nguyễn Tuân trong phần tài liệu.)

 

C̣n Nguyễn Công Hoan khi sang dự Hội nghị Văn hoá Á châu lại đương nhiên vào nằm ở khách sạn Asoka là khách sạn nổi tiếng là nơi trú ngụ của các bậc đế vương trên thế giới.

 

b) Đời sống tinh thần của văn nghệ sĩ ở miền Bắc

 

Sự chênh lệch không những chỉ thể hiện trên đời sống vật chất, mà c̣n thể hiện sâu sắc hơn trong cuộc sống tinh thần. Trong khi quần chúng văn nghệ phải làm việc như tôi mọi, th́ một thiểu số, vừa thiếu đức vừa thiếu tài, chỉ khéo nịnh hót để ăn trên ngồi chốc, tác oai tác quái. Một văn nghệ sĩ giấu tên đă làm bài thơ sau đây đăng trong báo Văn số 24 ngày 10-10-1957.

 

Ông “Vỗ ngực”

 

Học thuật văn chương chửa sạch nghề

Tập toè lên lớp cũng khen chê

 

Giáo điều khó nuốt lèn thô bạo

Lư luận không tiêu kéo nặng nề.

T́nh cảm khô khan như củi gộc

Phê b́nh nồng nặc tựa cơm khê.

Anh em vặn lại, cùng kỳ lư,

Vỗ ngực, ông giơ Đảng chực loè. [7]

 

Không phải chỉ có loè không mà c̣n mắng thực sự. Chứng cớ là Nguyễn Công Hoan, tên lư trưởng văn nghệ đă từng nằm ở khách sạn Asoka mắng cụ Phan Khôi, tên cu ly văn nghệ đáng tuổi bố.

 

Sự thể là nhân dịp cụ Phan Khôi thượng thọ 70 tuổi, giữa lúc cụ đương bị Đảng quy vào tội phản động, không một ai dám lai văng đến chúc thọ cụ v́ sợ bị liên quan, cụ bèn làm một bài thơ để kỷ niệm ngày thượng thọ của cụ. Trong bài thơ đó có hai câu như sau:

 

Lên bảy mươi rồi mẹ nó ơi!

Thọ ta, ta chúc lọ phiền ai.

 

Bài thơ này không xuất bản, nhưng cũng đến tai Nguyễn Công Hoan, Hoan liền làm một bài thơ hoạ lại như sau:

 

Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi!

Thọ mi, mi chúc chớ ḥng ai.

Văn chương! Đù mẹ thằng cha bạc!

Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài

 

Lô-dích, trước cam làm kiếp chó,

Nhân văn, nay lại hít ǵ voi,

Sống dai thêm tuổi, cho thêm nhục,

Thêm nhục cơm trời, chẳng thấy gai.

 

Đại khái th́ toàn bộ giai cấp mới đều đểu cáng và hèn hạ như vậy.

 

Trên đây là thơ, c̣n những đoạn văn xuôi chứng nhận rằng hiện nay ở miền Bắc đă phát xuất những hạng người thô bạo và hống hách như vậy th́ có rất nhiều.

 

Cụ Phan Khôi, trong bài “Phê b́nh lănh dạo văn nghệ” (xem phần tài liệu) mang cộng sản ra so sánh với phong kiến và kết luận rằng cộng sản c̣n tàn bạo và quan liêu hơn phong kiến gấp nhiều lần. 

 

Trần Duy trong bài “Những người khổng lồ” (xem phần tài liệu) ví bọn cán bộ cộng sản như một lũ người “không tim”.

 

Ngoài ra ông c̣n vẽ bức tranh khôi hài nhan đề “Một phương pháp xây dựng văn nghệ”, đăng trong báo Văn số 30 ra ngày 29-11-1957, trong đó ông chế giễu sự can thiệp thô bạo của chính trị vào lĩnh vực văn nghệ. (Xem tranh ở trang 35.)

 

Nhưng đặc biệt nhất là bài “Thi sĩ máy” của Như Mai đăng trong tờ Nhân văn số chót trong đó ông chế giễu sự ngu dốt của cán bộ cộng sản về văn nghệ và cách chúng đối xử với văn nghệ sĩ sau này như thế nào. Ông viết:

 

“... Nhạc sĩ Ảo Huyền được cử đi học lớp 'nghiên cứu nghề làm nước mắm‟; hoạ sĩ Lập Thể được điều động sang Mậu dịch; nữ sĩ Trong Trắng ném bút làm nghề đỡ đẻ, thi sĩ Mây Nước ra Bờ Hồ làm nghề bói Kiều, tán róc về thành phần giai cấp cho những người có óc mê tín.

 

Văn sĩ Đắng Văn Cay phải ra chợ Giời làm nghề bán văn kiêm bán săm lốp. Săm lốp v́ cần được khuyến khích nên miễn thuế, c̣n văn của Đắng Văn Cay th́ bị liệt vào hạng vô dụng và phải chịu thuế bốn phần trăm. Rất ít người chịu quăng tiền ra mua. Đôi ba vị khó tính lại c̣n rỉa rói: 'Văn chương anh th́ ra cái đếch ǵ! Không ích lợi bằng chiếc đế dép cao su của tôi nữa ḱa!‟.

 

Nhà đạo diễn Kinh Kha được chuyển sang ngành nuôi cá vàng, mỗi khi luyến tiếc sân khấu, thường ngắm cá bơi lội rồi tưởng tượng con cá vây bạc óng ả này là Điêu Thuyền, con cá mặt đen nọ là Bao Công, cặp cá đuôi cờ lồi mắt kia là đôi nhân vật tiểu tư sản v.v...”

 

(Xem trọn bài trong phần tài liệu)

 

Viết mấy ḍng này Như Mai có ư nhắn nhủ những trí thức nào c̣n mê “thiên đường cộng sản” th́ hăy nên biết trước số phận mà cộng sản sẽ dành cho ḿnh trên cơi thiên đường đó.

 

c) Tâm trạng của giới trí thức ở miền Bắc

 

Tâm trạng của đại đa số trí thức ở miền Bắc, nhất là những tir thức đă dày công theo đuổi kháng chiến, là thấy ḿnh bị lợi dụng tài năng, bị bạc đăi, khinh miệt và cuối cùng là ruồng bỏ, và khủng bố. Tâm trạng đó giống hệt tâm trạng một người đàn bà đẹp, bị rơi vào phận lẽ mọn, và bị chồng và vợ cả vùi dập. Nếu ngày xưa Hồ Xuân Hương đă cám cảnh vợ lẽ mà thốt ra câu:

 

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng

 

Th́ ngày nay cụ Phan Khôi cũng phải ngán cảnh “kháng chiến ngơ ngoài” mà ngâm mấy vần thơ sau đây:

 

Tuổi già thêm bệnh hoạn

Kháng chiến thấy thừa ta

Mối sầu như tóc bạc

Hễ cắt lại dài ra.

 

Ông Nguyễn Mạnh Tường trong bài diễn văn của ông nói về những sai lầm trong Cải cách ruộng đất cũng phải nêu lên câu hỏi sau đây:

 

“Có một chỗ nào mà người trí thức ngoài Đảng nắm được thực quyền hay không? Tác dụng „hiếu hỉ‟ hay „cười gật‟ th́ có, mà lại có nhiều. Nhưng ngay ở các cương vị ấy, ngoài vai tṛ hiếu hỉ, cười gật, người trí thức có một trách nhiệm ǵ không? Có quyền nói ǵ, làm ǵ không? Quần chúng đă biết và tôi miễn giả lời.”

 

(Xem trọn bài trong phần tài liệu.)

 

Trí thức “sống chung” với cộng sản, chỉ được đặt vào địa vị “hầu non” cưới về để tô điểm cho nhà cửa thêm sáng sủa, c̣n thực quyền th́ bao giờ cũng do vợ cả nắm. Vợ cả đây, ai cũng biết là bần cố nông, v́ cộng sản chẳng hề giấu diếm điều đó.

 

Tâm trạng thứ hai của trí thức là thấy sự hy sinh của ḿnh trong chín mười năm trời không đưa lại mảy may hạnh phúc. Trong chế độ “dân chủ cộng hoà” ngày nay vẫn đầy rẫy một lũ chuyên môn nịnh hót để chấm mút và tác oai tác quái.

 

Hữu Loan đă phải rên rỉ như sau:

 

Một điều đau xót

Trong chế độ chúng ta

Trong chế độ “Dân chủ Cộng hoà”

Những thằng nịnh hót c̣n thênh thang đất sống...

 

Rồi ông hô hào mọi người hăy đứng lên làm “tổng vệ sinh” quét sạch lũ chúng, ông hô:

 

Những người

đă đánh bại

xâm lăng;

Đỏ bừng mặt

v́ những tên quốc sỉ

Ngay giữa thời nô lệ

 

Là người, chúng ta

không ai biết cúi đầu

 

(Xem trọn bài trong phần tài liệu.)

 

V́ đỏ bừng mặt, không chịu được sự khinh mạn của cộng sản, nên họ phải vùng dậy. Cụ Phan Khôi phẫn uất quá chừng nên nói liều như sau:

 

Làm sao cũng chẳng làm sao,

Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi.

Làm chi cũng chẳng làm chi,

Dẫu có làm ǵ cũng chẳng làm sao.

 

Từ chỗ uất ức đó tiến tới chỗ ra báo để ngang nhiên chống lại Đảng chỉ có một bước.

 

 

[1]Nhà hoặc gia nghĩa là một học phái.

 

[2]Trong cuốn L’Asie du Sud-Est entre deux Mondes của Tibor Mende, bản dịch tiếng Pháp của René Guyonnet, trang 17, Edition du Seuil, Paris 1954 [3]Con số này trích trong cuốn A Short History of the Chinese People. Revised Edition của L. Carrington Goodrich, Harper and Brothers xuất bản 1951. [4]Câu của Đào Duy Anh, trong cuốn Trung Hoa sử cương [5]Câu của Phan Khôi trong bài “Phê b́nh lănh đạo văn nghệ”

 

[6]”Văn công”: chữ Tàu, là văn nghệ công tác, nghĩa là công tác biểu diễn văn nghệ

 

[7]Trong nguyên bản, sau bài thơ này, ở trang 14 có tranh châm biếm “Một cái quái thai nịnh trên nạt dưới” của Trần Hưởng, Vân Tôn vẽ lại, trích báo Trăm hoa ngày 30.12.1956 (chú thích của talawas).

 

Nguồn: Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc. Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hoá xuất bản, Sài G̣n 1959. 318 trang. Nguyệt san Ngày về tái bản, Hướng Việt phát hành. In tại nhà in Lion Press, 3018 Akron Ct, Denver Co. 80231. Bản điện tử do talawas thực hiện.

 

 

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính