Chữ Việt trên Báo Việt

Thiển ư và đề nghị của Hoàng Ngọc Liên

 

Hoàng Ngọc Liên

 

 

Sau khi bài “Tiếng Việt Trong Phim Tầu” được phổ biến. Người Viết (NV) đă nhận khá nhiều thư khích lệ. Có bạn c̣n muốn đọc thêm để giúp con em trau giồi tiếng Việt. Nhưng trộm nghĩ một bài cũng gọi là gợi ư niệm tổng quát đến quư vị phụ huynh. C̣n nếu muốn đầy đủ về tất cả các phim Trung Hoa được lồng tiếng Việt, th́ không biết phải viết bao nhiêu bài báo nữa. Bởi mỗi ngày các tiệm cho mướn video tape khắp nơi đều nhận được những sản phẩm mới.

 

Vậy để đáp ḷng ưu ái của quư vị, NV xin thay đề tài. Lần này xin bàn về “Chữ Việt Trên Báo Việt”. Ở đây, NV chỉ muốn nói đến các báo Việt ngữ của đồng bào tỵ nạn Cộng sản ở hải ngoại. C̣n các báo chữ Việt khác, xin không đề cập tới.

 

Sở dĩ NV muốn minh bạch là chỉ đề cập tới các báo Việt ngữ của đồng bào tỵ nạn Cộng sản ở hải ngoại, bởi với bốn chữ tỵ nạn Cộng sản in nghiêng, cũng đủ phân ranh với những tờ báo chữ Việt khác. Tuy nhiên, NV chỉ ghi sự kiện mà không nêu xuất xứ, để tránh ngộ nhận. Nhưng thiết nghĩ, báo nào mà những ghi nhận nêu ra phù hợp, xin vui ḷng thể tất cho và cũng xin coi lại các bài viết trước khi lên máy. Con em chúng ta, nhất là các thế hệ sau, càng phải được những người đi trước tránh cho những lỗi lầm khi viết chữ Việt. Chúng ta đă mất tất cả, chỉ c̣n văn hóa truyền thống, mà chữ Việt là vốn quư muôn đời, mong được các phụ huynh trân trọng truyền đạt lại cho con em. Có người không lạc quan, nói với NV là chỉ trong ṿng chưa tới 20 năm sau, có thể sẽ không c̣n sách báo chữ Việt ở hải ngoại nữa! NV hy vọng là sự lo ngại đó sẽ không bao giờ xảy ra, như lời Phạm Quỳnh tiên sinh đă nói: “Người Việt c̣n, tiếng Việt c̣n”.

 

Một tờ báo của người Việt tỵ nạn Cộng sản đăng tin “Luật Sư Ngô Bá Thành Đă Qua Đời”. Bên cạnh tấm h́nh của người quá văng, có những ḍng chữ như sau:

 

Vào lúc 22 giờ 50, ngày 3/2 bà Ngô Bá Thành - Phó Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Ủy viên Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQVN, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội, Đại biểu QH khóa 6,7,8,10... đă đột ngột qua đời.

 

Đọc đoạn tin trên, quư vị có thấy giống hệt tin đăng trên các báo của CSVN trong Nước không? Lối viết này lẽ ra không phải do người viết tin cho các báo Việt ngữ của đồng bào tỵ nạn Cộng sản hải ngoại đặt bút! Thế mà bản tin lại do tờ báo của người Việt tỵ nạn Cộng sản ở Hoa Kỳ viết! Chuyện như đùa!

 

Một câu chuyện đăng báo, có đoạn sau đây là lời của một thanh niên:

 

- “Cha mẹ tôi đă bị sát hại v́ đi ngược lại quyền lợi của ban Giám Đốc.... Dù cho có mất mạng, tôi cũng phải trả thù cho họ!”

 

Chữ hoï ở đây không chấp nhận được. Con cái không bao giờ có thể dùng chữ họ để nói về Cha Mẹ ḿnh!

 

Càng tệ hơn, đọc trong một truyện ngắn:

 

- Những người đẻ ra tôi chẳng bao giờ để ư đến những cố gắng mà tôi lo cho chúng!

 

Tại sao không viết Cha Mẹ tôi mà lại viết Những người đẻ ra tôi?

 

Tại sao không viết lo Cha Mẹ mà lại viết lo cho chúng?

 

Trong mục Thư Ṭa Soạn của một tuần báo có trích Thư Độc Giả:

 

-... “Tôi rất hoan nghênh mục T́m Bạn Bốn Phương của bản báo...

 

Chữ bản báo ở đây, lẽ ra phải viết là ... quư báo. Chúng ta đều hiểu, khi viết về tờ báo của ḿnh mới ghi là bản báo. C̣n nói về tờ báo mà ḿnh liên lạc, nên ghi là quư báo.

 

Cũng như người ta thường hỏi tên của người đối diện:

 

- Xin vui ḷng cho biết quư danh. Không bao giờ có ai hỏi... bản danh!

 

Thiển ư và đề nghị của NV:

 

* Khi dùng từ quyù , xin nhớ là chữ quư không hề là số nhiều. Ta quen viết hay nói: Thưa Quư Vị, và được hiểu rộng là tất cả các vị đang có mặt. Thực ra không phải như vậy. Nếu muốn thưa tất cả mọi người, nên dùng cụm từ các quư vị. Nhưng người ḿnh đă quen dùng quư vị để chỉ số nhiều, tưởng cũng nên chấp nhận.

 

* Khi viết về người đàn bà có chồng là quân nhân đă hy sinh v́ nước, thường viết là quả phụ của Tử Sĩ. Nếu chỉ viết quả phụ, th́ hiểu là người đàn bà nói chung mà chồng đă mất!

 

* Khi viết về trẻ mồ côi, có thể viết cô nhi, không nên viết các em bé cô nhi.

 

* Khi viết về nơi ở của gia đ́nh binh sĩ, nên viết Trại Gia Đ́nh Binh Sĩ; không nên viết Trại Gia Binh, v́ chữ gia binh thường được dùng để nói đến các binh sĩ làm việc trong nhà của các ông bà ... lớn.

 

* Khi viết về bà vợ một ông lớn , ví dụ Thủ Tướng VNCH, nên viết bà XYZ (tên chồng), phu nhân của Thủ Tướng VNCH. Không nên viết Bà Thủ Tướng, trừ khi người đàn bà làm Thủ Tướng, như các Bà Thủ Tướng Ấn Độ, Anh Quốc... Như vậy ở Miền Nam VN (ngày xưa) không nên dùng cụm từ Bà Đại Tướng XYZ, v́ trong Nữ Quân Nhân QLVNCH, người mang cấp bậc cao nhất là Đại Tá (Trần Cẩm Hương).

 

* Khi viết về người đàn ông góa vợ lấy vợ khác, chữ Hán là tục huyền. C̣n người đàn bà góa chồng bước đi bước nữa, chữ Hán là tái giá. Nếu nói bạn trai... tái giá, chỉ là một kiểu nói đùa! Tái giá là người đàn bà xuất giá lần nữa. Cùng nghĩa với ... tái tiếu là cười lần nữa, cũng có nghĩa là tái giá. Bà Tương Phố trong bài thơ khóc chồng có những câu:

 

- Bước đi âu cũng thương nhau,

Dừng chân đứng lại cơ mầu dở dang.

Dây loan chắp nối đoạn tràng,

Ngâm câu tái tiếu, hai hàng lệ sa!

 

* Khi viết chữ Hán chúc mừng hôn lễ, nên dùng cụm từ Loan Phụng (hay Phượng) Ḥa Minh. Loan là chim Phượng mái, Phụng là chim Phượng trống. Không nên viết Long-Phụng Ḥa Minh, v́ Long là con rồng được hiểu là giống đực. Lại nữa rồng trong truyền thuyết không phải loài chim. Chúng ta đều biết: Long, Ly, Quy, Phụng là tứ linh, là bốn thần vật (trong truyền thuyết) khác biệt nhau, không thể kết đôi.

 

* Khi viết về những chữ kỵ húy, nên thận trọng để tránh sai lầm.

 

- Ví dụ họ Huỳnh (Miền Trung và Miền Nam) Hoàng (Miền Bắc) cũng chỉ là một họ, v́ kỵ húy Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng... vân vân ...

 

- Ví dụ hai chữ trong bát quái: Càn (Miền Bắc) và chữ Kiền (Miền Trung và Miền Nam) cũng chỉ là một chữ. Nguyên do Kiền đổi thành Càn là kỵ húy từ đời nhà Trần (khoảng năm 1230) v́ đây là chữ thứ hai trong tước phong Phụng Kiền Vương Trần Liễu... vân vân...

 

Viết đến đây, NV sực nhớ một câu chuyện, xin kể hầu bạn đọc:

 

Người Trung Hoa dựng vợ, gả chồng cho con em, thường tránh người đồng tông, tức cùng một họ, bất kể là họ xa, hay người dưng nước lă. Họ tán thành đôi con d́, con cô con cậu lấy nhau, v́ cả hai không cùng một họ, trái với người Việt thường không chấp nhận như thế, dù trong phương ngôn có câu:

 

- Đôi con d́, rù ŕ lấy nhau!

 

Ở Chợ Lớn trước đây có cuộc hôn nhân không thành, v́ nhà trai họ Chu, nhà gái họ Châu. Nguyên do v́ không phải người Hoa nào cũng biết chữ Hán, nên cô gái họ Chu và chàng trai họ Châu (đều không viết và đọc được chữ Hán) đă yêu nhau. Khi gia đ́nh hai bên biết được, cuộc hôn nhân không thành, v́ Châu và Chu là cùng một họ.

 

Nguyên do Chu đă được đổi thành Châu v́ kỵ húy của Minh Vương Nguyễn Phúc Chu. Đến nay phần lớn các tỉnh miền Trung và Nam VN vẫn dùng âm Châu, đọc là Châu Văn Tiếp, Ngô Ṭng Châu thay v́ Chu Văn Tiếp, Ngô Tùng Chu như các tỉnh Miền Bắc.

 

* Khi viết về những chữ gốc Hán. Theo NV, tốt hơn hết là tránh dùng từ Việt Hán, khi có thể được, để tránh việc dùng sai.

 

- Ví dụ sầm uất có nghĩa là nơi thâm sơn cùng cốc, u buồn vắng vẻ. Thế mà đă có sách in sầm uất có nghĩa là nơi thị tứ đông vui!

 

- Biểu muội, biểu ca là những từ dùng để chỉ các anh chị em con cô con cậu hay đôi con d́ của người Trung Hoa. Những từ này không... Việt Nam chút nào, chúng ta không nên dùng.

 

* Hiền và Ngu

 

Trong văn chương Trung Hoa, người tư xưng thường dùng chữ Ngu tỏ ư khiêm tốn. C̣n nói với người khác th́ dùng chữ Hiền, tỏ ư tôn trọng. Ví dụ: “Ngu huynh đă biết ư hiền đệ” Vậy cụm từ hiền huynh không phải để tự xưng, mà dùng để nói với bằng hữu hay người em đối diện.

 

* Măi và Mại

 

Một số các bạn ta thường ít để ư, khi dùng hai từ Măi và Mại. Đây là hai chữ Hán: Măi là mua, Mại là bán. Vây một bé gái bị bán vào động chứa, buộc phải hành nghề mại dâm (bán dâm), không phải măi dâm (mua dâm).

 

* Những chữ đồng âm trong Hán Tự

 

Chữ Hán rất nhiều đồng âm. Ví dụ có đến 13 chữ Minh. Chữ này có nhiều nghĩa, tùy theo bộ. Chữ Minh có bộ Nhật nghĩa là sáng, bộ Mịch là tối, bộ Thủy là biển, bộ Mănh là thề, bộ Thảo là trà như Hương Minh là trà thơm... Nhưng trong chữ Việt đều viết là Minh, vậy xin đề nghị nên tùy theo nội dung mà dùng để tránh lầm lẫn.

 

* Những từ đảo ngược lại có nghĩa khác nhau.

 

Chữ, Tiếng Việt có những từ đảo ngược mà cùng nghĩa, như ái ân, ân ái; yêu thương, thương yêu... Nhưng chữ Hán không phải vậy: Hạ Thành: Đánh chiếm lấy thành của đối phương; Thành Hạ: ở dưới thành. Yếu Điểm: Nơi quan trọng nhưng điểm yếu lại là chỗ kém cỏi. Xin được lưu ư.

 

* Nhân viết đến chữ Đối Phương, NV từng nghe một câu: “Anh tỏ t́nh với cô B. vậy phản ứng của đối phương ra sao?” Đối phương ở đây là cô B. Cách nói này không phải Việt Nam. Chúng ta không nên dùng. Vào trường hợp này, Ta nói... phản ứng của cô ấy ra sao?

 

* Những chữ thừa.

 

* Khi viết về người lính, có thể viết quân nhân, hay người lính, hay chiến sĩ. Nếu viết người quân nhân là thừa chữ người.

 

* Khi viết cụm từ thiếu phụ ta hiểu là người đàn bà trung niên. Như vậy không nên viết :”Người thiếu phụ này c̣n trẻ”. Cũng không cần dùng cụm từ người thiếu phuï, chỉ viết thiếu phụ cũng đủ.

 

* Một người nằm xuống, nếu từ 59 tuổi trở xuống th́ nên ghi là hưởng dương. Từ 60 trở lên mới ghi là hưởng thọ.

 

* Nên phân biệt Tiếng và Giọng.

 

Người Việt chỉ có tiếng Việt phổ thông từ Nam chí Bắc và tiếng của các dân tộc tiểu số.

 

Tiếng Việt phổ thông có nhiều giọng nói, và cách diễn đạt tùy địa phương: giọng Bắc (thành thị, thôn quê); giọng Trung (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng B́nh, Quảng Trị, Huế, Quảng Ngăi, Nha Trang...) giọng Miền Nam...

 

Do vậy mà không nên nói và viết: tiếng Bắc, tiếng Trung, tiếng Nam!

 

* Nhập gia tùy tục.

 

Tính chất địa phương rất quan trong trong cách nói và viết, - tiếng và chữ – Việt.

 

Ví dụ: Người Miền Bắc nói chuyện với người Miền Nam, không nên nói: -” Thằng cả nhà tôi...” V́ chữ Cả trong Nam rất quan trong, chỉ danh Ông Cả, một vị chức sắc đứng đầu hội đồng xă. Người con đầu ḷng trong Nam được danh xưng cô hay cậu HAI, không ai dùng tiếng hay chữ Cả!

 

* Chữ Hán, Chữ Nôm.

 

Chúng ta đều biết, do ảnh hưởng của cả ngàn năm Bắc thuộc, văn tự mà chúng ta dùng hôm nay có đến hơn phân nửa là những từ Hán đă Việt hóa. Nhiều từ c̣n giữ luôn cách đọc của chữ Hán của Cha Ông để lại. Có những từ không thể thay bằng chữ Nôm, như Hạnh Phúc, Ḥa B́nh, Tự Do. Cũng v́ chúng ta có rất nhiều từ chữ Hán, nên tiếng nói và chữ viết rất phong phú. Nói T́nh Mẫu Tử, hay T́nh Mẹ Con cũng được hiểu như nhau. Ta thấy chữ T́nh, nguyên là chữ Hán đă Việt hóa, không thể thay bằng chữ Nôm, v́ chữ Nôm cũng viết T́nh y như chữ Hán. Cha Ông ta, khi sáng tạo ra chữ Nôm (tức chữ Nam), đă dùng những chữ Hán ghép lại. Chữ nào dùng sẵn đă quen mà mọi người đều hiểu ư, th́ không cần ghép thêm chữ để tạo ra chữ mới nữa. Ví dụ:

 

- Trăm năm trong cơi người ta,

Chữ tài, chữ mệnh, khéo là ghét nhau.

 

Hai chữ tài, mệnh sẵn có trong chữ Hán, nên trong bản Truyện Kiều chữ Nôm vẫn dùng Hán tự để viết.

 

* Khi viết cụm chữ Hán, hoặc dùng chữ Hán Việt, hoặc dùng chữ Nôm. Hai thứ chỉ nên chọn một. Do vậy mà khi viết về người đàn bà góa chồng, có thể viết quả phụ (từ Hán Việt) hay bà góa. Không nên viết nửa chữ nửa nôm như góa phụ!

 

Trên đây chỉ ghi một vài thiển ư và đề nghị của NV, dám mong được các vị phụ huynh quan tâm hầu giúp con em chúng ta bảo tồn và phát huy Việt ngữ tại hải ngoại.

 

Bài viết c̣n nhiều thiếu sót, xin các vị Cao Minh bổ túc cho.

 

Vạn tạ.

 

 

Hoa Thạnh Đốn Tiết Xuân Phân, năm Giáp Thân (2004)

Hoàng Ngọc Liên

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính