THINH QUANG và ĐƯỜNG HUYNH MỘNG ĐÀI

 

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

 

 

      Nhà văn Thinh Quang


Hội ái hữu Quảng Ngăi Bắc California họp mặt lần đầu tiên tại nhà của ông Hội trưởng Hoàng Ngọc Thành. Ông là giáo sư Tiến sĩ Sử học, người sinh trưởng tại phố Thu Xà thuộc tỉnh Quảng ngăi . Buổi họp mặt với mục đích đón mừng Xuân mới để đồng hương và thân hữu ôn lại những kỷ niệm vui buồn một thời trên quê nhà. Buổi vui chơi có chương tŕnh văn nghệ “cây nhà lá vườn”. Trong tiết mục góp vui, MC giới thiệu một nhà thơ lăo thành đọc bài thơ sáng tác tại chỗ. Một cụ già đứùng lên, thân h́nh mảnh khảnh, khuôn mặt xương xương nhưng đôi mắt sáng trưng đầy thần lực. Tuy đă cao tuổi nhưng nước da c̣n hồng hào. Từ dăy ghế đầu, cụ chậm răi đến trước máy khuếch âm tự giới thiệu tên là Trần Dũ Lương. Cụ đă xúc cảm trước hai câu đối: “Thiên Ấn mây gom t́nh đất mẹ. Sông Trà nước tụ nghĩa anh em” treo trước cổng nhà chào mừng đại hội nên cụ nảy ư viết tặng Hạo Nhiên là tác giả hai câu đối đo,ù bài thơ có nhan đề : “Tụ Hội Quê Người”:

 

Về đây tụ hội bên nhau

Cho vơi năm tháng nỗi đau xứ người

Vầng trăng Thiên Ấn ngậm ngùi

Mây giăng nỗi nhớ, c̣n đâu chuông chùa

Sông Trà vắng tiếng chèo khua

Nắng nung băi cát, gió lùa băi dâu

Bút Thiên ghi dấu chưa nḥa

Quê người đất khách một nhà yêu thương

Cho dù cách trở quê hương

Ḷng ta vẫn hướng một phương t́nh người.


Khi đọc xong bài thơ kèm theo bút hiệu Mộng Đài, tôi vội vàng đến ôm cụ như người học tṛ ôm vị thầy cũ đầy khả kính mà mấy mươi năm trời tôi xem cụ như một thần tượng cùng với nhà thơ Bích Khê. Hai người cùng thời và cùng quê Thu Xà. Sau đó tôi gởi tặng cụ bài thơ : “Nỗi Đau C̣n Đó”

 

Nghe bài thơ tặng dạ nao nao

Nghĩa tứ t́nh thơ đượm sắc màu

Quê cũ biển trời xanh bát ngát

Kết thành giai điệu nhạc thanh tao !

 

***


Bác với tôi một ḍng sông

Ḍng sông nước mát tưới đồng phương Nam

Một trời thắng cảnh danh lam

Cho ta nỗi nhớ muôn vàn tuổi thơ

Sông Trà , Cổ Lũy mộng mơ

La Hà Thạch Trận chửa mờ dấu xưa

Quê người sớm nắng chiều mưa

Như cơn mộng ảo gió lùa mây trôi

Kỷ niệm xưa nửa cuộc đời

Nghe như mật đắng cuối trời vong thân

Nay dầu trẩy hội mùa Xuân

Nỗi đau c̣n đó thạch trầm tim ta

Mộ phần chiến hữu xót xa

Lối đi vàng úa máu pha sắc hồng

Tháng ngày nỗi nhớ bâng khuâng

Ḷng ta hiển lộng t́nh nồng quê hương

Dấu xưa - ngày ấy - chiến trường !


Bẵng đi thời gian. Một hôm bất ngờ tôi nhận được tạp chí Viễn Xứ từ miền nam Cali gởi tặng. Mở ra tôi thấy cả hai bài thơ “Tụ Hội Quê Người” của thi lăo Mộïng Đài và”Nỗi Đau C̣n Đó” của Hạo Nhiên được đăng trên hai trang báo liên tiếp khá trinh trọng. Kèm theo tạp chí là một bức thư của vị chủ bút kư tên Thinh Quang thay mặt ban biên tập mời tôi đóng góp bài vở cho tờ báo qua sự giới thiệu của nhà thơ Mộng Đài.


Hồi c̣n ở quê nhà tại thị trấn Sông Vệ, gia đ́nh tôi và gia đ́nh anh Trần Dũ Chiêu quen thân với nhau và thường hay lui tới thăm viếng trong những ngày lễ lạc. Anh Chiêu là một đông y sĩ có tiếng thời bấy giờ. Anh là vị thầy thuốc bắc trị bịnh rất mát tay có uy tín cả huyện Tư Nghĩa và có thể nói tiếng đồn cả tỉnh cũng không ngoa tư nào. Ngày tôi và gia đ́nh lên đường sang Hoa Kỳ tỵ nạn, vợ chồng anh chị Trần Dũ Chiêu có đến thăm từ biệt. Nhân đó, anh mới tiết lộ có một người anh ruột là Trần Dũ Khiêm hiện đang sống tại Hoa Kỳ.


Những ngày đầu đặt chân trên đất Mỹ, chúng tôi như loài chim chích lạc vào rừng, bơ vơ, lạc lơng, ngơ ngác trước cảnh lạ quê người. Quyết vượt qua mọi khó khăn, vợ chồng tôi vùi đầu ngay trong trường học, tất bật trong việc làm, chăm lo cho bầy con trẻ, không c̣n thời giờ rảnh rỗi để t́m kiếm bạn bè. V́ vậy mà tên Trần Dũ Khiêm, người anh ruột bạn tôi ở quê nhà không c̣n nhớ nữa. Khi nhận được tạp chí Viễn Xứ có đăng hai bài thơ nói trên mà chỉ có tôi và nhà thơ Mộng Đài lưu giữ. Tôi cầm tạp chí đến thăm cụ Lương mới hay cụ và nhà văn Thinh Quang là anh em con chú bác và Thinh Quang là bút hiệu của ông Trần Dũ Khiêm là anh ruột của bạn tôi thầy thuốc Trần Dũ Chiêu.
Qua những lần thăm viếng chúc Tết hay chở giùm cụ Mộng Đài tham dự đại hội đồøng hương tôi được nhà thơ kể về kỷ niệm của hai anh em cụ ở quê nhà có khá nhiều chi tiết lư thú.


Cụ kể:

“Tên thực của tôi là Trần Dũ Lương con ông bác c̣n Trần Dũ Khiêm là con ông chú. Ông tổ ḍng họ Trần của chúng tôi là cụ cố tổ Trần Kư Cao đă truyền lại tám chữ: “Kư Chi Quang Dũ, Trường Phát Hường Tường” để quy định các chữ lót đặt tên cho con cháu các thế hệ sau. Chẳng hạn con trai tôi là Trần Trường Nguyên, con nó là Trần Phát Cường. Con trai chú Khiêm là Trần Trường Long, con là Trần Phát Ngọc... Hiện giờ những đứa chắc sinh ra ở Mỹ đều lót đến chữ Hường...”


Nghe đến đây, tôi chợt nhớ đến bài “ Đế Hệ Thi” của vua Minh Mạng : “Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh, Bảo Quư Định Long Trường, Hiền Năng Kham Kế Thuật, Thế Thoại Quốc Gia Xương” (*) Khiến tôi càng thêm kính nể anh em Trần Dũ. Đó là một ḍng họ thuộc “Danh gia vọng tộc”.


- Chú Khiêm nhỏ hơn tôi 4 tuổi, cụ Mộng Đài tiếp. Chú ấy rất thông minh, học một biết mười. Tôi là người dẫn dắt Khiêm đi vào con đường văn học, về sau vượt trội trên tôi rất nhiều. Hồi chú ấy lên 14 tuổi học trường Tây về quê Thu Xà nghỉ Hè, t́nh cờ tôi thấy trong rương của Khiêm có một tập thơ viết tay. Chong đèn đọc một mạch, tôi mới phát hiện tác giả tập thơ là một tài năng mới. Sáng ngày tôi hỏi Khiêm : “ Ê, chú mầy làm thơ mà tại sao không cho anh biết. Thơ chú khá lắm, anh sẽ chọn những bài thơ trong tập này lần lượt cho đăng trên báo đấy! Đó là quyết định đầu tiên của tôi d́u dắt chú ấy vào con đường văn học sau này. Mười lăm tuổi đă xuất hiện trên trang thơ của nhật báo Đông Pháp. Mỗi lần qua chơi nhà thơ Bích Khê là tôi thường hay dẫn Khiêm theo. Có lẽ Khiêm tiếp nhận được kiến thức về thơ văn từ những cuộc mạn đàm giữa anh em tôi với nhà thơ Bích Khê. Thi sĩ Bích Khê có người cháu gái tên Mộng Cầm đẹp quư phái, nết na. Ông ấy mến Lương nầy lắm muốn mai mối cho cô cháu gái nên đề nghị tôi lấy bút hiệu Mộng Đài. Lúc bấy giờ tôi thú thật đă có người t́nh đầu tiên tên là Hồng Lan. Bích Khê liền ứng khẩu đọc tặng tôi bài thơ như sau:

 

“Vân Anh hề Bùi Hàng

Lộng ngọc hề Tiêu Lang

Bí Phi hề lướt sóng

Huyền Hoàng hề Hương Địêp Lang”

Sau này Mộng Cầm là người yêu của Hàn Mặc Tử.”

 

Thinh Quang sinh ngày 17 tháng 9 năm Quư Hợi tức ngày 26 tháng 10 năm 1923. tại Thu Xà – một tiểu nhượng địa dưới thời Pháp thuộc nằm phía Đông tỉnh lỵ Quảng Ngăi khoảng 10 cây số , cùng quê với cụ Bút Trà, Hồng Tiêu, các nhà văn nhà báo Nguyễn Vỹ, Hồ Văn Đồng và giáo sư sử học Hoàng Ngọc Thành. Giáo sư Phạm Huệ trong một bài viết có giới thiệu Thu Xà như sau:
“...Thu Xà là nơi anh hùng hội. Đó là thuộc về thời xa xưa lắm. Là cái cửa ngơ giao lưu văn hóa. Có người Tống sơn ngoài Bắc Hà đến lập các làng lân cận như Hà Khê, Phước Lộc, Xuân Quang, Long Phụng, Điện An. Có người Hoa đến lập phố. Có người Tây đến đóng đồn. Có trường Pháp Việt, có các di dân thuộc Minh Hương, các bang người Tàu. Có các ḍng họ giàu sang, quyền thế đến định cư. Quan chức về hưu mang cháu con từ khắp nơi trong nước về quê...các thương gia, các ông địa chủ, các ông ‘văn vật’ hào phóng, các ông Lái, buôn Nam bán Bắc, các công chức, các nhà văn, nhà thơ trong tỉnh, trong nước ghé lại phố Vạn này hưởng những sinh thú mới lạ, văn minh tiên tiến. Thu xà có đủ thứ, giống như Hội An, như Chợ Lớn, Hà Tiên, Phố Hiến... Thu Xà là nơi có văn hóa văn minh sớm sủa. V́ vậy người Thu Xà ăn nói dịu dàng, ngọt ngào.. Soft Speaking, như người ‘ smiling...’ Mỹ Lợi Á, như người phường phố Thăng Long...”

Đầøu thập niên 40, Trần Dũ Khiêm theo học các trường Trung học Chấn Thanh Tourane, Pellerin Huế, thi đậu bằng Brevet trường Pháp. Rồi tiếp tục vừa làm báo vừa đi học. Năm 1943 Thinh Quang cùng với kư giả Tế Xuyên lèo lái nhật báo Dân Báo và tuần báo Thanh Niên Đông Pháp tại Sài G̣n. So tuổi tác đối với các vị trên , Thinh Quang thuộc hàng hậu bối. Năm 1944 viết cho nhật báo Tin Mới Hà Nội, đồng thời cộng tác với tuần báo Sports Jeunnesses de L’Indochine. Vào thập niên 50, 60 lại cộng tác với báo Tin Điển, Tiếng Chuông, Ngôn Luận, Trắng Đen... Nói chung bút hiệu Thinh Quang xuất hiện hầu hết trong làng báo chí nước nhà...


Thuở nhỏ, bọn tôi rất thích đá banh mà đội banh nổi tiếng nhất Quảng Ngăi là đội tuyển Thu Xà. Các trận tranh hùng giữa những đội banh của các huyện hay đấu giao hữu với các đội tuyển của các tỉnh lân cận cũng thường được tổ chức ở sân banh Thu Xà. Dân ở đây giàu có nhờ buôn bán, tàu bè cập bến thông thương nên dân làng đóng góp xây dựng được sân banh thuộc hàng nhất nh́ của tỉnh. V́ vậy mà bọn nhóc tôi kéo bộ hàng chục cây số đi xem các trận đá banh ở Thu Xà. Thông thường gần đến giờ khai mạc trận đấu, ông trọng tài mới xuất hiện. Một thanh niên dong dỏng cao mặc bộ đồ tây trắng, đầu đội chiếc mũ “kết” trắng, chân đi đôi giày cũng trắng. Mọi người nhao nhao : “sắp đá rồi”. Người ta đón rước ông trọng tài tuổi chỉ trên đôi mươi. Những người lớn tuổi biết rơ tài năng của vị trọng tài trẻ tuổi này ồ lên xít xoa : “Trọng tài Khiêm !” Từ đó tôi chỉ biết ông Khiêm là trọng tài đá banh. Đâu có ngờ ông Trọng tài Trần Dũ Khiêm lại là ông Thinh Quang tài hoa người Quảng Ngăi của chúng tôi, là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà biên khảo, nhà dịch thuật...Lănh vực nào ông cũng thành công.


Ông Anmota người xă Đức Phụng có bài viết trên Quangngai net khá dí dỏm về ông Thinh Quang :

“...Tôi nhớ th́ h́nh như những trận đá banh mà có trọng tài Khiêm...th́ ít gây ra ‘bạo động trong sân’ ít có lần ‘bạo động sau trận đấu’. Có thể ông có sẵn cái Đức để ‘thổi c̣i’. Ông không làm tàng, làm phách, làm điệu, làm oai... Cái chữ Đức đó là ḷng công minh, chính trực. V́ tui quá thương kính ông mà nói thật ḷng th́ ông cũng chớ bịt mũi cười thầm : Tụi bay con nít nhà quê ...nhầm người bên phố ... Tụi bây chỉ biết mặt cân tạ ... cân đường muỗng, bây đâu có biết tao xài cân tiểu ly... Tao có ‘bắt gian’, thiên vị cho đội tuyển nhà Thu Xà th́ may ra người như Năm Chuột mới biết... và... chỉ có Trời biết ! Anh Thinh Quang hồi đó, tôi hay điều tra lư lịch - Anh học ở đâu...Rồi sau đó anh đi đâu... Anh làm ǵ ở đâu ... Anh Thinh Quang ... Vậy th́ nhứt định là anh nói tiếng Tây ‘ngọt’..., nhứt định là anh nói tiếng ‘Tàu’ cũng phải ngọt... Hèn chi anh viết sách, anh dịch...ra tiếng Việt đều ngon ơ vậy...! Thế th́ là... anh đâu có ở Thu Xà nhiều trước những năm 1942- 1943. Mà sao anh lại vô Sài G̣n sớm vậy...Mà sao... chưa thấy anh kể một chuyện t́nh nào của ḿnh cho tụi này coi thử... Hồi mấy năm kháng chiến (46-54) ...anh đi đâu mất, tui t́m hoài chẳng thấy anh đâu...”

Trước năm 1975 tôi làm việc trong khối chiến tranh chính trị thuộc tiểu khu Quảng Ngăi. Hàng năm vào ngày lễ hay nhân dịp các đơn vị hành quân từ chiến trường được về hậu phương dưỡng quân, chúng tôi tổ chức đón tiếp, choàng ṿng hoa cho các chiến sĩ . Mỗi lần như thế tôi thường đến các trường trung học trong thị xă nhờ các cô nữ sinh tiếp tay. Vào năm 1968- 69 đúng ngày lễ Quân Lực 19 / 6, tôi quên khuấy mùa nghỉ Hè của học đường. Khi đến các trường đều vắng hoe khiến tôi lo lắng vô cùng . Rất may, tôi chạy đến trường trung học Kim Thông th́ c̣n các lớp học hèø luyện thi của quư thầy dạy miễn phí. Tôi vào lớp học đang dạy luyện thi Pháp văn của thầy Khiêm. Sau khi nghe tôi tŕnh bày về yêu cầu được giúp đỡ, thầy đă tận t́nh kêu gọi các em nữ sinh, hết lớp ḿnh rồi chạy sang lớp khác khuyến khích các em lên xe đến choàng ṿng hoa cho các anh chiến sĩ. Dáng thầy đạo mạo. Với bộ vét - tông trang nghiêm của vị giáo sư trung học khiến tôi liên tưởng đến bộ áo quần trọng tài thể thao trắng tinh cầm c̣i ngày nào vừa hiền ḥa vừa thẳng thắn càng thêm phần kính phục trong ḷng tôi. Đầu niên khóa 69 -70, tôi đến trường Kim Thông đểâ thăm Giáo sư Khiêm. Nhưng được Linh mục Hiệu Phó Nguyễn Thế Hoạt cho biết thầy Trần Dũ Khiêm đă ra lại Đà Nẵng và đang đứng Chủ Nhiệm, Chủ Bút tuần báo Trường Sơn .


Mới đây, tôi có đọc tập hồi kư “Hai Mươi Năm Thăng Trầm” của ông bầu thể thao Đinh Văn Ngọc có đoạn đặc biệt nói về sự hoạt độïng thể thao cũng như lănh vực văn học của thầy Khiêm như sau:

“...Thinh Quang là một trong năm cây bút nổi bật nhất về b́nh luận chuyên đề “Thể Thao” của Việt Nam lúc bấy giờ gồm có :Thinh Quang, Nguyễn Ang Ca, Phan Như Mỹ, Huyền Vũ và Thiệu Vơ.


Đặc biệt, tôi phải giới thiệu anh Thinh Quang v́ đối với anh có nhiều yếu tố đáng được cho ta lưu ư.


Anh từng là một cây bút then chốt cùng với anh Tế Xuyên lèo lái Nhật báo Dân Báo và Tuần báo Thanh Niên Đông Pháp của cụ Trần Văn Hanh đứng làm Quản Nhiệm. Anh là một nhà thơ trước tuổi thành niên - mới 15 tuổi đầu đă có thơ đăng tải trên nhật báo Đông Pháp - tờ nhật báo có tầm vóc lớn nhất Hà Nội của cụ Ngô Văn Phú - thân sinh của Ngô Văn Cường, người bạn nối khố với tôi.
Tôi bắt đầu quen biết anh vào thời điểm phong trào thể thao của Ducoroy tràn ngập cả hang cùng ngơ hẻm trên khắp bờ cơi Đông Duơng. Lúc bấy giờ ngoài sở trường viết b́nh luận thể thao cho các báo Sports Jeunnesses de l’Indochine và nhật báo Tin Mới của anh Trần Văn Quư ở Hà Nội là những tờ báo có nhiều độc giả nhất, anh c̣n là một trong những trọng tài tên tuổi đương thời nữa.
Anh chủ trương tờ Tuần Báo Trường Sơn Đà Nẵng – tờ báo có lắm giai thoại – bán chạy nhất tại Miền Trung lúc bấy giờ. Anh cũng c̣n là Chủ Nhiệm – Chủ Bút Nhật Báo Dân Luận Sài G̣n, là một trong những tờ báo lớn hàng đầu của Miền Nam Việt Nam, cùng một thời gian với tôi xuất bản tờ Nhật báo Bến Nghé – nên chúng tôi có dịp hỗ trợ cho nhau về mọi phương diện. Năm 1973, bà Hồ Tiên – nhà làm văn hóa nổi tiếng ở Đông Nam Á – Chủ Tịch Hiệp Hội Báo Chí Thế Giới hướng dẫn phái đoàn đến thăm ṭa soạn Dân Luận và đạt lời mời anh tham dự Đại Hội Báo Chí được tổ chức tại Kowloon Hong Kong. Tôi là một trong các thân hữu được đặc biệt tham dự buổi nghênh đón này.
Anh Thinh Quang ngoài việc làm báo anh c̣n viết đủ các bộ môn từ dịch thuật, trước tác,triết học đến cả b́nh luận, thi ca...Vốn đức tính khiêm nhường không thích phô trương nhất là tránh thường xuyên xuất hiện trước quần chúng – kể cả sự mời mọc của tôi. Có thể v́ vậy anh ít khi được nhắc nhở đến dù khả năng và tài viết lách của anh ngang ngửa với Tử Vi Lang, Nguyễn Hiến Lê v.v...
Nói đến Thinh Quang phải xem anh là một trong những cây bút đóng góp được rất nhiều cho nền văn học nước nhà. Các anh Vơ Văn Hải, Nguyễn Ang Ca và Nguyễn Văn Đạt đă từng nhận xét anh như vậy với tôi...


Tại hải ngoại anh từng Chủ Bút của các tạp chí Hồn Việt, New York Times và cũng là Chủ Bút cho Nhật Báo Trắng Đen, Bán Nguyệt San Viễn Xứ...
Tính t́nh hồn nhiên, có cuộc sống giản dị, ḥa nhă với mọi người nhưng đặc biệt “tếu” với bạn bè. Nhiều lần tôi ngỏ ư viết về anh song anh mỉm cười từ chối và cho rằng: “Những lời chúc tụng giống như hương thơm, ta chỉ nên để nó thoảng qua đừng nên để nó ngấm vào người” như Clarkmun đă nói.
Phải chăng đó là “Nhân Sinh Quan” của anh chọn phương châm này cho cuộc sống của ḿnh?!” (Trích các trang 179-180 và 181 trong 20 Năm Thăng Trầm của Đinh Văn Ngọc).


Nhà thơ Mộng Đài hỏi:

- Hạo Nhiên có muốn biết giai thoại về bài “ Hoa Thơ” nổi tiếng của Thinh Quang không ? - Đó là điều rất lư thú, thưa bác, tôi vội vă trả lời. Rồi cụ Mộng Đài kể : - Đêm rằm Trung Thu năm 1940 ba người cùng rủ nhau xuống thuyền dạo chơi ḍng sông Vực, có nước trà và bánh Trung thu mang theo. Tôi và Nhà thơ Bích Khê vừa ăn bánh dùng trà cùng đàm đạo với nhau về thơ văn, riêng chú Khiêm lại ngồi bên kia khoang thuyền gần tay chèo. Chú ấy ngắm cảnh làng quê dọc bờ sông soi ḿnh trong ḍng sông trăng rồi hư hoáy viết trên cuốn sổ tay dưới ánh trăng rằm sáng tỏ. Khi lên bờ, Khiêm dúi vào tay tôi mảnh giấy có ghi một bài thơ. Đó là bài “Hoa Thơ”. Một bài thơ khổ năm chữ, dài 75 câu. Tôi đọc tới đâu người tôi lâng lâng tới đó. Tôi liền trao bài thơ cho Bích Khê. Ông ấy đọc xong trố mắt nh́n tác giả , rồi bảo : “Bài thơ tuyệt cú, một tài hoa trẻ của quê hương ḿnh !” Năm ấy Khiêm vừa tṛn 18 tuổi mà đă nổi tiếng bài thơ “Hoa Thơ” đăng trên nhật báo Đông Pháp, tờ báo có tầm vóc lớn nhất của Hà Nội lúc bấy giờ. Đó là lúc bút hiệu Thinh Quang xuất hiện đầu tiên với bài Hoa Thơ, va øtừ đó bút hiệu nầy gắng liền với con đường văn nghiệp trong suốt cuộc đời .Vừa nói đến đây, với giọng đầy xúc cảm cụ Mộng Đài ngâm nga một đoạn trong bài Hoa Thơ nay :

 

Nhấp nhô gịng sông Vực

Buổi tối rực trờiThu.

Mái chèo tung ngọc ướt

Sao rớt nhẹ xuôi ḍng ...

......................................
Đây vũ khúc Nghê Thường

Chập chờn bên điện ngọc

Tre cong ḿnh xơa tóc

Nh́n bóng rũ – sông cười

Nghe như t́nh thiếu nữ

Vừa chớm nụ đôi mươi

Nghe như hồn lăng tử

Trôi dạt giữa gịng đời ...

.....................................
Ngự thuyền chơi sông Vực

Cúi hái mảnh trăng mờ

Về chơi bờ sông Vực

Mơ cảnh Động Đ́nh Hồ

Đôi ta chừ – Lư Bạch

Vỗ tay cười khanh khách

Cầm bút trổ Hoa Thơ ...

 

Thinh Quang 1940


Đọc xong bài thơ, mắt cụ Mộng Đài lim dim như c̣n trong mơ, như h́nh ảnh tuổi thơ ngày ấy của hai anh em đă cùng quấn quít bên nhau nơi quê hương xóm Vạn, có ḍng sông Vực, có núi Thiên Ấn, có Trà giang và muôn ngàn kỷ niệm dấu yêu với người em tài hoa Thinh Quang đă hiện ra trong trí nhớ của cụ già tám mươi.


Ngày tôi đến Nam Cali để ra mắt tập truyện ngắn “Lưu Dấu Ngày Xưa” tại hội trường báo Người Việt . Rất tiếc ngày hôm đó sức khỏe của nhà văn Thinh Quang bị yếu không đến tham dự được. Hôm sau, tôi và người bạn cùng quê Quảng Ngăi đến viếng và mang sách đến tặng ông. Dù bị cảm đă mấy ngày nhưng giọng nói của ông rổn rảng tràn đầy sinh lực, mang một xúc cảm trào dâng, phấn chấn trong ḷng. Nhà văn tâm sự : “Tôi rất vui mừng, giới trẻ Việt Nam nói chung và giới trẻ Quảng Ngăi ḿnh nơi hải ngoại này đăû thành công vượt bực trên mọi lănh vực. Tôi hằng kỳ vọng nền văn học trong nước cũng như ở ngoài nước được tiến triển hơn lên, hy vọng trong làng văn hải ngoại và quốc nội xuất hiệân nhiều nhà làm văn hóa lỗi lạc hầu bắt kịp với nền văn minh của nhân loại.”


Nh́n lên tủ sách đặt nơi pḥng khách, những cuốn sách mang tên tác giả Thinh Quang dày có, mỏng có được sắp ngay ngắn nơi kệ trên cùng. Đó là 18 tác phẩm của ông xuất bản tại hải ngoại chưa kể những tác phẩm xuất bản tại quê nhà trước 1975 bị thiêu hủy hay thất lạc. Chợt tôi thấây ḿnh nhỏ nhoi như loài đom đóm về đêm nhấp nháy dưới ánh trăng rằm sáng rực. Tôi thật sự hănh diện, quê hương núi Ấn sông Trà của chúng tôi có được một nhân vật kiệt xuất như nhà văn Thinh Quang. Ông là cây cổ thụ trong nền văn học nước nhà, là ánh sáng của ngọn hải đăng soi đường cho hậu bối t́m về. Trước khi từ giă trở lại San Jose, tôi hỏi nhà văn Thinh Quang :

- Bác có mấy người con và có anh chị nào nối nghiệp văn chương của bố ?

 

Nhà văn Thinh Quang tươi cười :

- Vợ chồng tôi sinh được sáu con, hai trai và bốn gái. Chúng nó đều theo các ngành về khoa học kỹ thuật nên không đứa nào muốn mở tiệâm sách để bán sách của cha nó theo câu tục ngữ : “Cha làm thầy con bán sách” mà! Ông lại tếu với bạn bè, đúng như nhà văn Đinh Văn Ngọc nhận xét khiến chúng tôi không nín được cười. Ông mời dùng thêm trà rồi rung đùi ngâm nga: “Khuyên con chớ lấy chồng thi sĩ . Nghèo lắm con ơi, khổ lắm con”. Đọc hai câu thơ của thi sĩ Nguyễn Bính, nhà văn Thinh Quang có ư xác nhận thêm rằng, trên đất nước tư bản này các con ông không theo nghiệp văn chương của cha, xét cho cùng cũng không đáng trách.


Tôi lại hỏi:

- Trải qua cuộc đời trên 80 năm, bác có kỷ niệm nào sâu đậm nhất ? Với nụ cười chúm chím, nhà văn nói :

- Thuở học trường Pháp tên Chấn Thanh ở Đà Nẳng, tôi và một số bạn học được đề cử theo đoàn Hướng đạo vào diện kiến đức vua Bảo Đại. Người đă đến vuốt tóc từng đứa trẻ khen ngợi và khuyến khích chúng tôi học hành ngày càng tiến bộ, mỗi cháu sẽ là một nhân tài trong tương lai làm rạng rỡ cho non sông đất nước. Không hiểu sao h́nh ảnh ngày đó đă khắc ghi rất sâu đậm trong tiềm thức ḿnh. Anh bạn Xược cùng đi với tôi hồi đó hiện giờ ở Úc có tên quốc tịch Úc là Tony Quang thỉnh thoảng điện thoại cho tôi là không quên nhắc đến kỷ niệm ngày đó. C̣n một kỷ niệm về những ngày đầu bước chân vào nghề làm báo viết lách của tôi cũng sâu đậm lắm, nhưng để dịp khác tôi sẽ kể cho Hạo Nhiên nghe. Với bản tính khiêm tốn, nhà văn Thinh Quang không muốn nói về ḿnh như nhận xét của ông bầu thể thao Đinh Văn Ngọc, v́ vậy tôi không dám nài ép ông và xin cáo biệt ra về.

 

Hơn tuần lễ sau, tôi nhận được cú phôn của nhà văn Thinh Quang :

“Tôi đọc xong tập truyên của anh rồi. Hăy tiếp tục đọc và viết nữa đi. Người làm văn học không ngưng nghỉ dù chỉ một ngày hay một giờ. Càng miệt mài đọc và viết, văn ḿnh càng được tôi luyện. Tuyển tập Lưu Dấu Ngày Xưa của Hạo Nhiên có chỗ đứng trong nền văn học hải ngoại rồi đấây”. Không biết rơ đó là lời khen, lời khuyên nhủ hay ngụ ư khuyến khích, an ủi nhưng ḷng tôi vẫn thấy rộn ràng. Một nhà văn bậc thầy đă có nhận xét như thế đă củng cố thêm niềm tin trong tôi.

 

Câu chuyện “những ngày đầu bươcù chân vào nghề làm báo, viết văn của nhà văn Thinh Quang” tôi không được nghe đích thân ông kể cũng ấm ức lắm. Bởi biết đâu cái kỷ niệm của nhà văn lớn lại cho ta một kinh nghiệm quư giá sau này. V́ vậy, tính ṭ ṃ đă thúc dục tôi đến thăm thi sĩ Mộng Đài, người đă từng dắt dẫn đường đệ của ḿnh vào nghiệp làm báo. Tôi đi thẳng vào mục đích là t́m biết giai thoại này. Cụ vui vẻ nói:

“ Lần đầu tiên ấy, chính tôi là người đưa chú Khiêm vào Sài G̣n. Tôi c̣n nhớ năm Khiêm đang học trường ḍng Pellerin ở Huế. Hồi đó họ cấm đem báo tiếng Việt vào trường như Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Tri Tân từ Hà Nội...thế mà Khiêm vẫn mang được các loại sách báo Việt ngữ đó vào cất dấu trong pḥng ngồi đọc lén trong toa-lết ban đêm. Thế rồi Khiêm viết về nhiều đề tài thể thao, tùy bút, truyên ngắn...gởi đến các báo. Bài gởi đi nhưng không dám để địa chỉ của trường. Năm 1943, Khiêm về Quảng Ngăi nghỉ Hè nhận được thư của cụ Trần Văn Hanh, giám đốc nhà xuất bản Tín Đức Thư Xă, chủ nhiệm Nhật báo Dân Báo Sài G̣n và chủ nhiệm Tuần báo Thanh Niên Đông Pháp ở đường Sabourrain. Thư ông mời Thinh Quang vào Sài G̣n cộng tác với báo ông với mức lương hàng tháng là 80 đồng tiền Đông Dương. Số lương đó đối với chúng tôi lúc bấy giờ quáù lớn (tiền ở nhà trọ chỉ 3 đồøng mỗi tháng ). Tuy vậy, chú Bảy của tôi tức là thân sinh của Khiêm chỉ cho đi trong ba tháng Hè, sau đó phải trở về trường tiếp tục học và ông chú đă nhờ tôi đưa Khiêm đi để anh em chăm sóc cho nhau nơi phồn hoa đô hội. Sáng sớm ngày đầu tiên chúng tôi đến gặp ông Giám đốc Trần Văn Hanh. Để trắc nghiệm tài năng, ông ấy bảo Khiêm về nhà trọ viết cho ông hai bài b́nh luận. Một cho tuần báo Thanh Niên Đông Pháp với đề tài “B́nh luận cuộc đua xe đạp ṿng quanh Đông Dương”, c̣n một bài nữa dành cho nhật báo Dân Báo Sài G̣n về đề tài: “B́nh luận Trận đấu bóng tṛn giữa Cao Miên và Nam Kỳ ”. Thời hạn chót nộp bài là 2 giờ chiều cùng ngày. Trên đường về nhà trọ Khiêm ghé sạp báo mua đủ các loại báo ra buổi sáng mang về. Khiêm b́nh tĩnh ngồi đọc hết những bài tường thuật về cuộc đua xe đạp ṿng quanh Đông Dương và những bài liên quan đến trậân đấu bóng tṛn giữa hai đội tuyển của Cao Miên và Nam Kỳ. Sau cùng Khiêm ngồi viết một mạch quên cả ăn trưa. Đúng 1 giờ 30 chiều hôm đó, Khiêm gọi tôi cùng đi đến ṭa soạn để nộp bài. Đọc xong hai bài b́nh luận, ông Giám đốc Hanh gật gù rồi yêu cầu Thinh Quang ngày mai đến nhận việc. Ngày mai, tôi không đi với chú ấy nhưng được Khiêm kể lại như sau:

 

“ Ông chủ báo Hanh đưa chú ấy đến ṭa soạn đặt trên lầu hai. Một căn pḥng rộng gồm hai dăy bàn dài . Mỗi bên là mười biên tập viên phụ trách viết bài hàng ngày tổng cộng hai chục người. Ông giám đốc Trần Văn Hanh giới thiệu trước mọi người là nhà văn, nhà báo Thinh Quang người Quảng Ngăi. Mọi người trố mắt nh́n anh thanh niên 20 tuổi mà đă được nhà báo kỳ cựu gọi mời trân trọng. Từ thuở sinh ra và lớn lên ở quê nhà, Thinh Quang chỉ biết lớp học, sân trường, vui chơi với bạn bè cùng lứa. Nay đối diện với cái khung cảnh ngoài sức tưởng tượng của ḿnh. Anh chàng “tân binh” gia nhập vào hàng ngũ báo chí toàn những tay “cựu chiến binh sừng sỏ” trong nghề nên Thinh Quang bị khớp nhưng vẫn giữ được thái độ b́nh tĩnh trước mọi người . Sau đó ông giám đốc đưa Thinh Quang ngồi vào chiếc bàn đặt ở giữa hai vị biên tập viên kỳ cựu : Ông Viên Hoành bên tay mặt, ông Tế Xuyên bên tay trái. Viên Hoành là người chuyên “thử lửa” tài năng đối với nhà báo trẻ tuổi mới đầu quân. C̣n nhà báo Tế Xuyên đă lớn tuổi lại là người nâng đỡ thường xuyên Thinh Quang ngay từ buổi đầu.

 

Gần ba tháng sau, bất ngờ máy bay của quân độïi đồng minh thả bom xuống xóm Chiếu Sài G̣n, Chú Bảy đánh điện buộc anh em tôi phải về lại Quảng Ngăi gấp. Thế là nghiệp làm báo của Thinh Quang tạm thời ngưng để tiếp tục việc học hành. Chúng tôi đưa nhau về trên chuyến xe lửa mà ḷng cứ phập phồng lo sợ những cuộc oanh tạc của quân đội đồng minh.


* * *


Sáng sớm ngày 12 tháng 10 năm 2004 bầu trời chưa sáng tỏ, tôi nhận được cú phôn của nhà văn Thinh Quang :

“ Hạo Nhiên ơi, anh Lương của tôi mất rồi !”

 

Như tiếng kêu thảng thốt rồi nín lặng. Một sự im lặng trong cơn xúc động nghẹn ngào. Phần tôi th́ ngỡ ngàng, bối rối. Mấy tháng trước đây tôi nghe tin nhà văn Thinh Quang có lên San Jose thăm ông anh Mộng Đài nhưng khi biết được th́ ông đă về lại Nam Cali. Thỉnh thoảng tôi điên thoại hỏi thăm sức khỏe cụ Mộng Đài, được người con gái cho biết hiện giờ hai chân cụ yếu không đi dạo bộ được, nhưng đầu óc c̣n minh mẫn lắm.

 

Hạo Nhiên ơi, nhà văn Thinh Quang lên tiếng tiếp:

- Hiện giờ trong người tôi không được khỏe, cháu lớn của tôi là Trần Trường Long đại diện gia đ́nh đến San Jose đưa Bác nó về nơi an nghỉ cuối cùng. Hạo Nhiên và Hội Ái Hữu Quảng Ngăi cố gắng tiếp sức với gia đ́nh Trần Tường Nguyên và các cháu trên đó nhé.

 

- Xin bác yên tâm. Đó là điều hẳn nhiên , tôi trả lời.

Giờ đưa linh cữu nhà thơ Mộng Đài đến mộ phần, tôi nhận được bài thơ của nhà văn Thinh Quang chuyển tay qua cháu Trần Trường Long, con trai lớn của ông :

 

ANH ĐĂ ĐI RỒI


Anh tôi đâu c̣n nữa

Tất cả đă xa rời

Đă đi vào muôn thuở

Người xưa nay c̣n đâu!

Hồn anh về cơi Mộng

Lạc lơng nẽo Tuyền Đài

Non tiên chừ mở rộng

Chữ nghĩa rực đầy tay ./


Thinh Quang


Bài thơ thật ngắn nhưng mang đầy nước mắt tiếc thương. Nhà văn Thinh Quang như gởi cả trái tim quặng thắc của ḿnh cho đường huynh một thời sống bên nhau như tơ liền mối như cây liền cành. Tôi ngậm ngùi đốt bài thơ “Anh Đă Đi Rồi”, rải tro tàn trên quan tài người quá cố và xin được thay mặt nhà văn Thinh Quang tiễn đưa cụ Mộng Đài, người con của quê hương “Núi Ấn Sông Trà” về bên kia trời miên viễn ./

 

San Jose, ngày 3/ 3 / 2007

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

 

 

 

 

Trang Chính     Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Phỏng Vấn     Văn Học Nghệ Thuật     Tham Khảo