
Hàn
Giang Trần Lệ Tuyền
“Vui
Xuân Không Quên Diệt Cộng”; đó là câu khẩu hiệu mỗi lần Tết đến,
của một thời đă được Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa luôn luôn phải
chi nhớ trong công cuộc chiến đấu để bảo vệ tự do, bảo vệ đồng bào, không
bao giờ được xao lăng.
Thế nhưng, vào Tết Mậu Thân,1968; bởi tin rằng, lệnh ngưng bắn ba ngày để
cho đồng bào được vui Xuân,
trong lúc mọi người
đang hướng ḷng tưởng niệm công đức của tiền nhân và tổ tiên của ḿnh, th́
bất ngờ tại chùa phổ Quang và chùa Nam Thiên Nhất Trụ, là nơi
ẩn náu của hai
tên tướng
Việt cộng Trần Hải Phụng, Nguyễn Văn Bá và cũng là hai nơi trú đóng an
toàn cho những "Lực lượng Biệt động thành
Sài G̣n-Gia Định, thuộc Lữ đoàn
316, của cộng sản Bắc Việt, đă được lệnh của "Ḥa thượng" Thích Trí Dũng
và Trần Hải Phụng là "điểm khai hỏa đánh
sân bay Tân Sơn Nhất".
Mặc dù người đứng đầu của chính phủ và cũng là Tổng Tư lệnh quân đội đă
cùng thê tử d́u dắt nhau đi du Xuân, bỏ mặc cả nước cho cộng sản Bắc Việt
xua quân đánh chiếm. Nhưng giữa lúc sinh tử ấy, v́ để bảo vệ đất nước,
bảo vệ đồng bào, người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa trên khắp Bốn Vùng Chiến
Thuật vẫn quyết liệt chiến đấu để giành lại từng tấc đất đă bị cộng quân
đánh chiếm. Riêng tại cố đô Huế, v́ có "Ḥa thượng" Thích Đôn Hậu đă
sẵn sàng nội công tại các "chùa" Từ Đàm, Từ Hiếu, Tường Vân
... nên cộng quân đă chiếm đóng đến gần cả một tháng trời, và những tên
đao phủ, được mang danh là "nhà sư" như Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu đă
ra lệnh cho các đệ tử xuống tay tàn sát hàng ngàn người dân vô tội, kể cả
những em bé một cách vô cùng man rợ. Những h́nh ảnh của những bộ xương đă
bị gẫy đứt, những chiếc xương ống tay, ống chân vẫn c̣n bị trói, là chứng
tích của những cách giết người c̣n thua cả loài ác thú.
Chúng ta hăy nh́n xem: H́nh ảnh của người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa bên
cạnh một phụ nữ với tấm thân nhuộm đầy máu, hoặc đang bế cụ già, hay ôm
xác một em thơ giữa ṿng lửa khói, và c̣n một h́nh ảnh khác của người
chiến sĩ với khuôn mặt bị thương, đă được băng kín, chỉ c̣n chừa đôi mắt,
nhưng vẫn không rời tay súng, sẵn sàng hy sinh ngay cả mạng
sống của ḿnh
để bảo vệ đồng bào, để giành lại từng tấc đất đă bị cộng quân đánh chiếm.
Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa đă anh dũng chiến đấu dưới lá Cờ Vàng Ba
Sọc Đỏ thân yêu, đă tận hiến đời ḿnh cho Chính Nghĩa-Quốc Gia-Dân Tộc.






Và, chúng
ta cũng hăy nh́n xem: Những h́nh ảnh của người Mẹ đang ôm xác con thơ, của
người vợ đang gào thét bên xác chồng... là những nạn nhân đă bị giết chết
dưới những bàn tay tàn ác của Phật Giáo Khối Ấn Quang và cộng sản Bắc
Việt, trong cuộc thảm sát Tết Mậu Thân, 1968. Tất cả những h́nh ảnh ấy đời
đời sẽ c̣n lưu lại cho hậu thế c̣n biết đến những hành vi giết người một
cách tàn khốc, kinh hoàng nhất.
Ôi! c̣n nỗi đau đớn nào có thể sánh bằng, khi chúng ta nh́n thấy h́nh
ảnh của người Mẹ đang ôm xác đứa con ruột thịt của ḿnh đă chết
bởi những viên đạn thù của giặc cộng, với tiếng
kêu gào xé ruột, đứt gan như Nhạc sĩ Anh Bằng đă chứng kiến, và đă ghi lại
qua bài hát:
Chuyện Một Đêm:
Chuyện một đêm khuya
nghe tiếng nổ nổ vang trời
Chuyện một đêm khuya ôi máu đổ đổ lệ rơi
Chuyện một đêm khuya nghe tiếng than trong xóm nghèo
Mái tranh lửa cháy bốc lên ngun ngút trời cao
Bà mẹ đau thương như muối đổ đổ trong ḷng
Chạy giặc ôm con qua những cảnh cảnh hờn vong
Và người con yêu đă chết trên tay lúc nào
Xót xa vạt áo trắng hôm nay hoen máu đào
Ai, ai cướp con tôi!
Ai giết con tôi giữa cơn mộng đêm thái b́nh
Ôi thương lời nói tội t́nh, hàm bao đớn đau
Giờ mẹ con đành cách nhau!
Bà đặt con lên đám cỏ phủ sương mờ
Tội ǵ con ơi khi lứa tuổi tuổi c̣n thơ
Bà nhẹ đưa môi hôn trán con yêu giá lạnh
Vuốt ve lần cuối trước khi xa con suốt đời!!!



Nhưng chưa
hết, v́ c̣n quá nhiều những h́nh ảnh của đồng bào vô tội đă bị hành quyết
một cách vô cùng tàn ác và dă man. Vậy, xin hăy nh́n xem những xác chết
không toàn thây, đầu ĺa khỏi cổ... Những oan khiên, máu lệ này sẽ không
bao giờ phai mờ trong tâm khảm của mọi người có lương tri ở trên thế gian
này.



tên Việt cộng mặc áo cà sa, Thích
Trí Dũng!
Đức Thích
Ca Mâu Ni đă từng dạy chúng sinh: Không được sát sinh - Không được vọng
ngữ, tức không được nói láo. Nhưng than ôi! Giữa đêm giao thừa Tết Mậu
Thân, 1968, ngay tại Thủ Đô Sài G̣n, lại có một "cao tăng" của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tức Khối Ấn Quang; đó chính là "Ḥa thượng"
Thích Trí Dũng đă hạ lệnh "khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhát"; c̣n tại
Huế, th́ do "Ḥa thượng" Thích Đôn Hậu, Chánh Đại diện Phật giáo miền Vạn
Hạnh, tức miền Trung cũng của Khối Ấn Quang, đă ra lệnh cho các tay chân
bộ hạ xuống tay chặt đầu, cắt cổ những lương dân vô tội. Chẳng những vậy,
mà có những nạn nhân đă bị trói vào gốc Bồ Đề ở các chùa như: Từ
Hiếu, Từ Đàm, Tường Vân, Quang Tự ... rồi bị bắn chết, và
máu của họ đă tưới lên thân cây Bồ Đề và đă nhuộm đỏ cội Bồ Đề tại Huế.
Xin quư vị Phật tử chân chính hăy b́nh tâm suy nghĩ:
Cội Bồ Đề luôn nhắc nhở mọi người nhớ
đến h́nh ảnh của Đức Thích Ca Mâu Ni từng ngồi tĩnh tâm, để t́m chân lư,
để chỉ cho chúng sinh: "Tự đốt đuốc t́m đường mà đi", hầu mong thoát khỏi
lầm mê, quay về bờ giác. Nhưng cội Bồ Đề tại các chùa tại Huế, lại là nơi
nhuộm đầy những ḍng máu thắm của đồng bào vô tội!!!
Riêng tại thành phố Đà Nẵng, như loạt bài gồm 10 kỳ, với tựa đề: "Lịch Sử
Đ́nh Nại Hiên-Chùa An Long", đă chứng minh cho những điều tôi đă viết qua
các bài: Cuộc Thảm Sát Thanh Bồ-Đức Lợi, 24-8-1964 - Cuộc Bạo Loạn Bàn
Phật Xuống Đường, mùa hè 1966 - Tưởng Niệm
Bốn mươi năm Cuộc Thảm Sát Mậu Thân:
1968-2008 và 30-4-1975: Máu và Nước Mắt.
Nên nhớ, chùa An Long tại Đà Nẵng trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất, tức Khối Ấn Quang. Xin nhắc lại: tên gọi Khối Ấn Quang là do
chính "Ḥa thượng" Đệ ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ, đă xác định bằng giấy
trắng mực đen, chứ không phải do người khác tự nghĩ, tự đặt ra như một số
người đă lầm tưởng.
Chính v́ những lẽ đó, nên tất cả những lời ngụy biện, để chạy tội cho
những kẻ đội lốt là "nhà sư" nhưng không bao giờ xóa được những tội ác, v́
chính họ là những tên đồ tể, v́ đôi tay của "Ḥa thượng" Thích Trí Dũng và
của "Ḥa thượng" Thích Đôn Hậu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất,
tức Khối Ấn Quang đă nhuộm đầy máu của những nạn nhân đă chết một cách vô
cùng đau đớn, như mọi người đă nh́n thấy qua những tấm h́nh này.
Trở lại với Tết Mậu Thân, 1968, và người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa:
chính những tấm h́nh biết nói ấy, nó đă tự cho mọi người biết được
rằng người
Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa là tất cả những ǵ hào hùng nhất, cao quư nhất,
v́ đă luôn luôn giữ tṛn lời Tâm Niệm: Bảo Quốc An Dân.
"Những người muôn năm cũ, hồn ở
đâu bây giờ?!". Ngước mặt nh́n Trời cao, để rồi tự hỏi: Những
người Chiến Sĩ năm xưa, bây giờ, ai c̣n, ai mất, ai đau thương với những
tấm thân tàn phế, ai u buồn trong kiếp sống lầm than, ai cô đơn nơi đất
khách quê người, mà ḷng rưng rưng tiếc nhớ về những năm tháng cũ...!!!
Và mỗi mùa Xuân đến, là trong chúng ta, có những tâm hồn lại cứ trào dâng
lên những niềm thống hận, cứ rơi nước mắt, v́ hồi tưởng về một mùa Xuân
Mậu Thân, 1968, với khói lửa, máu và nước mắt đă lan tràn khắp nẻo đường
quê!!!
Nguyện xin Hồn Thiêng Sông Núi Việt cho ánh mặt trời được soi rọi đến tận
cùng của những nỗi thương đau; xin cho Quê Hương Việt Nam sớm thoát khỏi
bàn tay của kẻ thù truyền kiếp của dân tộc; xin cho người dân Việt sớm có
ngày Tự Do-Dân Chủ và Thanh B́nh thực sự, cho những người Việt Nam đang
sống đời tỵ nạn cộng sản khắp nơi tại hải ngoại, sớm được trở về đoàn viên
nơi cố lư.
Pháp quốc, 19/1/2012
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
------------------------------------------------------------------
Chú Thích:
Tác giả trích các báo đăng trong nước.
trên
tờ Thế Giới Mới số 220, xuất bản ngày thứ hai 20-1-1997 tại Sài G̣n, nơi
trang 66-67 và 68. Sau đó in thành sách: “Tài Trí Việt Nam: Người Dựng
Chùa Một Cột ở Miền Nam”.
*
"Tài Trí Việt Nam: Người dựng Chùa Một
Cột tại Miền Nam: Ḥa Thượng
Thích Trí Dũng đă đóng góp cho cách mạng rất nhiều, ông là nhà sư được Hồ
Chủ Tịch viếng thăm và mời cơm… Tên tuổi ông được gắn liền với quá tŕnh
xây dựng Chùa Một Cột (Nam Thiên Nhất Trụ) ở miền Nam …. Chùa Nam Thiên
Nhất Trụ (NTNT) hiện tọa lạc tại số 1/90 đường Nguyễn Du, thị Trấn Thủ
Đức, (TP Hồ Chí Minh), được khởi công xây dựng theo mẫu chùa Một Cột tức
chùa Diên Hựu- một công tŕnh văn hóa nỗi tiếng có từ thời Lư, ở thủ đô Hà
Nội".
"Ḥa Thượng Thích Trí Dũng kể lại:
"Khi xây dựng chùa Nam Thiên nhất Trụ
(Chùa Một Cột tại miền Nam) chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đă nhiều lần ngăn
cản v́ sợ chùa sẽ khơi dậy trong ḷng người dân đang sống ở nửa miền đất
nước bị người Mỹ chiếm đóng, ư thức dân tộc, sự mong muốn đấu tranh cho
nước nhà thống nhất, độc lập và tự do. Lúc đó, đại diện văn pḥng phủ Tổng
Thống Sài G̣n bảo rằng: Ḥa thượng muốn làm ǵ th́ làm nhưng không được
xây Chùa Một Cột. Tôi hỏi tại sao, họ trả lời: "Nếu Chùa Một Cột được xây
dựng th́ sau này cộng sản Bắc Việt sẽ vào cư ngụ ở đây". (Ôi! Tổng Thống
Ngô Đ́nh Diệm là vị đă Tiên Tri được tất cả mọi sự, lời người viết). Nhưng
bất chấp tất cả, chùa Nam Thiên Nhất Trụ vẫn được xây dựng. Chính trong
quá tŕnh đào hồ Long Nhăn để định móng xây chùa, những người thợ đă phát
hiện ra tảng đá lớn dài 1,3m, dày 0,2m. Nhờ mănh vỡ, mọi người mới biết
đây không phải là đá, khi đập ra, họ thấy bên trong có một cổ vật bằng
bạch kim, h́nh tṛn, đường kính 0,38m, dày hơn 1cm, nặng 6,2kg, trên mặt
khắc 4 chữ Hán "Ngũ Tử Đăng Khoa" và 21 hoa văn đặc sắc, cổ vật này được
nhà tư sản người Hoa là Lư Long Thân đ̣i mua với giá 4 triệu đồng (bốn
triệu đồng) và 200 lượng vàng (hai trăm lượng vàng) thời giá lúc đó. Người
Mỹ khi khảo sát cổ vật cũng đă ngỏ ư được đổi bằng một bệnh viện 3 tầng
với 600 giường, có đầy đủ dụng cụ Y khoa. Cả Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm khi
biết cũng đă cử người xuống thương lượng xin được lấy cổ vật ấy, hứa sẽ
đáp ứng mọi yêu cầu, nhưng tôi (HT Thích Trí Dũng) là người chủ tŕ việc
xây cất chùa vẫn một mực chối từ và đem giấu cổ vật đi. Cho đến khi nước
nhà thống nhất tôi đă t́nh nguyện hiến cổ vật cho nhà nước: Ngày
25-8-1988, Phó Thủ tướng Phan Văn Khải, Thượng tướng Trần Văn Trà, Thiếu
tướng Trần Hải Phụng, giáo sư Trần Văn Giàu cùng các nhà nghiên cứu khảo
cổ đă đến tiếp nhận cổ vật đem vế trưng bày ở pḥng "Sài G̣n xưa" của Bảo
tàng cách mạng TP. Hồ Chí Minh.
* Ḥa Thượng Thích Trí Dũng kể về những
thành tích cách mạng:
"Năm 1947, hơn 2000 nhân sĩ, trí thức
yêu nước bị phái Công Giáo phản động bắt giam ở nhà hầm Phát Diệm. Lúc đó,
Đại tướng Vơ Nguyên Giáp và ông Hồ Tử Du với lá thư riêng của Hồ Chủ Tịch
đă đến Đồng Đắc ủy nhiệm cho tôi - trên cương vị Đại diện Phật giáo Cứu
quốc Trung ương - bằng mọi cách phải giải thoát. Nhờ sự hậu thuẫn của cách
mạng, việc giải thoát đă thành công. Với thành tích này, tôi được Hồ Chủ
Tịch khen thưởng và được tướng Nguyễn Sơn mời làm cố vấn. Sau khi giải
thoát cho 2000 nhân sĩ, trí thức, tôi bị bọn Công Giáo phản động tuyên án
tử h́nh. Để tránh sự trả thù và thể theo yêu cầu của một số Phật tử Nam
Kỳ, năm 1953 tôi vào miền Nam.
Từ khi vào Nam tôi đă xây chùa Linh
Giác ở Đà Lạt, chùa Phổ Chiếu, Phổ Minh ở G̣ Vấp, chùa Phổ Quang ở Tân
B́nh, tôi quyết đinh xây dựng Chùa Một Cột tại làng Đại Học Thủ Đức, phỏng
theo mô h́nh Chùa Diên Hựu (Một Cột) ở Hà Nội. Bị chính quyền Ngô Đ́nh
Diệm cản ngăn, tôi về mướn người rào kín khu đất định xây chùa lại, thuê
thợ đến làm từ 4 giờ chiều đến 11 giờ đêm. Biết được sự kiện tôi lén xây
dựng chùa, chính quyền Diệm sai người đến yêu cầu tôi phá ngay v́ lư do
chính trị. Tôi nói với họ: Tôi chỉ biết xây chứ không biết phá. Cản ngăn
không được, họ lại đưa tiền cho tôi để tôi xây dựng chùa khác, nhưng tôi
không chịu. Thế là họ đành để tôi xây dựng chùa mà không lấy tiền lại.
Năm 1964, tại Chùa Một Cột (Nam Thiên
Nhất Trụ) Thủ Đức qua trung gian là anh Bùi Kỳ Vân, anh Nguyễn Đức Lộc là
Chính trị viên đội Biệt động Thủ Đức, tôi gặp anh Nguyễn Văn Bá, ông
Nguyễn Văn Thăng hiện đều là anh hùng Quân đội Nhân dân Việt Nam và đều ở
Đội Biệt động Sài G̣n-Gia Định ngày ấy. Họ đă nhờ tôi tạo điều kiện cho
Lực lượng Biệt động Sài G̣n-Gia Định thuộc Lữ đoàn 316 xây dựng cơ sở bí
mật tại Chùa Một Cột và Chùa Phổ Quang ở gần sân bay Tân Sơn Nhất-là hai
ngôi chùa do tôi kiến tạo và trụ tŕ. Tôi đồng ư, thế là hai ngôi chùa này
trở thành hai cơ sở hoạt động bí mật của Biệt động Sài G̣n-Gia Định cho
đến ngày 30-4-1975.
Trong cuộc Tổng công kích Mậu Thân 1968,
Chùa Phổ Quang là điểm khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhất; ở đây tôi đă
qua mắt địch, để che giấu một số lượng lớn vũ khí và Lực lượng Biệt động
Sài G̣n-Gia Định thuộc Lữ đoàn 316. Chùa Phổ Quang cũng là nơi ở của
Thiếu tướng Trần Hải Phụng và anh hùng Lực lượng vũ trang Nguyễn Văn Bá,
chùa thường xuyên bị địch để ư. Để che mắt địch, chúng tôi đă cạy nắp mồ
Ngô Đ́nh Cẩn em ruột Ngô Đ́nh Diệm, chôn trong chùa Phổ Quang để giấu vũ
khí. Chính v́ vậy, địch không ngờ tới. C̣n sự di chuyển của các chiến sĩ
Lực lượng Biệt động th́ đích thân tôi đă lái xe hơi chở họ nên địch không
thể ngờ được. V́ thế, vũ khí và con người được giữ ǵn cho đến giờ chót".
----------------------------------------------------------
LỊCH SỬ PHẬT TỬ GHPGVNTN CHỐNG VNCH,
CHỐNG MỸ, TREO CỜ MTGPMN) Đ̀NH NẠI HIÊN-CHÙA AN LONG
- Ông Nguyễn Đ́nh Liệu đă cho giương cao cờ của Mặt trận Giải Phóng Dân
tộc Miền Nam Việt Nam tại vườn hoa Diên Hồng và vườn hoa phía trước Cổ
Viện Chàm. Đây là lần đầu tiên cờ của Mặt trận Giải phóng công khai xuất
hiện tại Đà Nẵng.
- Tháng 3.1966, Nguyễn Đ́nh Liệu và
Thượng tọa Thích Minh Tuấn cho thành lập “Lực lượng thanh niên phật tử cứu
quốc”.
Ngày 22.8.1964, từ chùa An Long và chùa Tỉnh hội, ông
Nguyễn Đ́nh Liệu, Phan Chánh Dinh,
Thượng tọa Thích Minh Tuấn, Thích Minh Chiếu … dẫn đầu đoàn biểu
t́nh đi đến sân vận động Chi Lăng dự mít-ting hô vang khẩu hiệu “Đả đảo
Mỹ-Khánh”.
- Trong tháng tư, ông Nguyễn
Đ́nh Liệu chỉ đạo cho các thanh niên phật tử Nại Hiên và học sinh trường
Bồ đề thực hiện chiến dịch “đốt xe Mỹ”, đă có một vụ đốt xe như vậy xảy ra
ở đầu đường Bạch Đằng, trước Cổ viện Chàm: một chiếc xe Jeep nhà binh trên
xe có hai sĩ quan, một Mỹ và một Nam Hàn vừa chạy trờ đến, th́ các thanh
niên phật tử từ chùa An Long xông ra chặn đường và lôi hai sĩ quan này
xuống đất, hai sĩ quan này hốt hoảng kêu cứu th́ bị đánh, cùng lúc các
thanh niên phật tử khác tưới xăng vào xe và châm lửa đốt. Hai sĩ quan này
may mắn chạy vào khách sạn Moderne gần đấy nên thoát chết.
- ngày 1.7.1967, Ông Lê Duẫn viết thư ban khen GHPGVNTN-AQ trong bức
thư gửi Thành ủy Sài g̣n - Gia định đề ngày 1.7.1967, ông Lê Duẩn, bí thư
thứ nhất BCHTW Đảng, đă viết:
“Cuộc nổi dậy của đồng bào Đà Nẵng
chống Thiệu – Kỳ từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1966, tuy không đem lại thắng
lợi, nhưng đă cho ta một bài học bổ ích về lợi dụng mậu thuẫn nội bộ địch.
Lúc đầu cuộc nổi dậy đó là không phải do ta chủ động mà nhân cơ hội nội bộ
địch chống đối lẫn nhau, ta đă biết tập hợp, phát động quần chúng đứng lên
làm chủ thành phố. Mặc dù cơ sở Đảng mỏng và lực lượng cách mạng trong
thành phố không nhiều, các đồng chí ở Đà Nẵng đă làm được việc đó. Nhưng
thiếu sót ở đây là các đồng chí ở Đà Nẵng chưa tranh thủ được thuận lợi để
phát triển thực lực cách mạng … Bài học về cuộc nổi dậy của đồng bào Đà
Nẵng rất phong phú”.
(Kỳ 10: Chùa An Long trong Tết Mậu thân 1968)
Kỳ 9: Chùa An Long trong cao trào đấu tranh Phật giáo (chống VNCH) tại
Đà Nẵng:
Lễ Phật đản năm 1963, chính quyền Diệm ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo tại
Huế. Đông đảo tăng ni, phật tử kéo đến đài phát thanh Huế để phản đối.
Thiếu tá Đặng Sĩ, tỉnh phó nội an Thừa Thiên - Huế, đă huy động cảnh sát,
xe thiết giáp đến đàn áp cuộc đấu tranh, bắn giết đồng bào phật tử. Trước
tội ác của địch, phong trào đấu tranh Phật giáo nổ ra khắp miền Nam. Đồng
bào phật tử ở Đà Nẵng cũng xuống đường phối hợp đấu tranh.
Nhận chỉ thị của Thành ủy chủ trương vận động nhân dân đấu tranh dưới h́nh
thức “ngọn cờ Phật giáo, ng̣i pháo học sinh”, ông Nguyễn Đ́nh Liệu lănh
đạo đông đảo tăng ni, phật tử, thanh niên trong khuôn hội Nại Hiên Tây tổ
chức cầu siêu trong mùa Pháp nạn, thuyết pháp, biểu t́nh, hô vang khẩu
hiệu “đả đảo chế độ độc tài Ngô Đ́nh Diệm!”. (Chống VNCH)
Từ chùa An Long, ông đă dẫn đoàn biểu t́nh tiến về chùa Tỉnh hội Đà Nẵng
(nay là chùa Pháp Lâm, số 500 đường Ông Ích Khiêm) đồng thời làm công tác
binh vận, lôi kéo các binh lính theo đạo Phật đứng về với nhân dân. Cảnh
sát, An ninh quân đội vùng 1 chiến thuật đi đàn áp đoàn biểu t́nh đă bị
thanh niên phật tử chống trả quyết liệt. Ngày 3 tháng 11 năm 1963, dưới sự
hậu thuẫn của ông trùm đảo chính Logde, một nhóm tướng tá Nam Việt Nam tự
xưng là Hội đồng quân nhân Cách mạng do Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn … cầm
đầu đă tiến hành đảo chính, và sau đó giết chết anh em Diệm-Nhu. Nhiều
thanh niên phật tử trong khuôn hội Nại Hiên Tây tham gia phong trào diệt
“dư đảng Cần lao”, truy quét ác ôn ở địa phương.
Nhưng chỉ sau đó 3 tháng, ngày 30 tháng 1 năm 1964, được sự ủng hộ của Mỹ
và "nhóm các tướng trẻ", tướng Nguyễn Khánh đă thực hiện cuộc "chỉnh lư"
cướp quyền, truất phế các tướng lĩnh chủ chốt của cuộc đảo chính là Dương
Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân. Nguyễn Khánh tự xưng là
chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng kiêm Tổng tư lệnh quân đội. Ngày 28
tháng 2 năm 1964, Nguyễn Khánh phế truất chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ và lên
làm thủ tướng. Ngày 16 tháng 8 năm 1964, ông ta ban hành "Hiến chương Vũng
Tàu", theo đó ông ta là Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, kiêm Quốc
trưởng, kiêm Thủ tướng của Việt Nam Cộng ḥa, cũng như là Tổng tư lệnh,
kiêm Tổng tham mưu trưởng của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa. Uy quyền của ông
ta lên đến mức tột đỉnh. Tuy nhiên, tướng Khánh đă vấp sự phản đối quyết
liệt của quần chúng nhân dân. Các cuộc biểu t́nh chống tướng Khánh nổ ra
khắp nơi. Ông Nguyễn Đ́nh Liệu lại tham gia lănh đạo phong trào phật tử
phối hợp với lực lượng học sinh sinh viên đấu tranh chống độc tài, đ̣i xé
bỏ “Hiến chương Vũng Tàu”. Để bảo vệ cho các cuộc biểu t́nh, ông Nguyễn
Đ́nh Liệu và Thượng tọa Thích Minh Tuấn cho thành lập “Lực lượng thanh
niên phật tử cứu quốc”.
Ngày 22.8.1964, từ
chùa An Long và chùa Tỉnh hội, ông
Nguyễn Đ́nh Liệu, Phan Chánh Dinh, Thượng tọa Thích Minh Tuấn, Thích Minh Chiếu
… dẫn đầu đoàn biểu t́nh đi đến sân vận động Chi Lăng dự mít-ting
hô vang khẩu hiệu “Đả đảo Mỹ-Khánh”.
Sau đó đoàn biểu t́nh kéo xuống Ṭa
Thị Chính Đà Nẵng. Khi đến trước Ṭa Thị Chính ở đường Bạch Đằng, Lực
lượng thanh niên phật tử cứu quốc đă dùng loa phóng thanh kêu gọi Hải quân
Đại tá Lê Quang Mỹ, Thị trưởng Đà Nẵng, phải ra tŕnh diện và phải bàn
giao chức Thị trưởng Đà Nẵng cho nhân dân. Đại tá Lê Quang Mỹ hốt hoảng
trốn ra cửa sau, rồi chạy đến Bộ tư lệnh Hải quân vùng 1 Duyên hải ở Tiên
Sa để tị nạn. Nhân dân đă làm chủ Ṭa Thị Chính trong ṿng 9 ngày (22.8 à
2.9.1964). Trong những ngày sôi động đó, ông Nguyễn Đ́nh Liệu đă cho
giương cao cờ của Mặt trận Giải Phóng Dân tộc Miền Nam Việt Nam tại vườn
hoa Diên Hồng và vườn hoa phía trước Cổ Viện Chàm. Đây là lần đầu tiên cờ
của Mặt trận Giải phóng công khai xuất hiện tại Đà Nẵng và đây cũng là một
thắng lợi chính trị to lớn của nhân dân Đà Nẵng nói chung và nhân dân Nại
Hiên nói riêng.
T́nh h́nh miền Nam dưới sự quản lư của tướng Khánh ngày càng loạn lạc,
giai đoạn tướng Khánh nắm quyền là giai đoạn nổ ra nhiều cuộc đảo chính
nhất, uy tín của tướng Khánh càng lúc càng xuống thấp và ngày càng mất
ḷng dân. Nhóm các tướng trẻ, do đó, thống nhất truất phế tướng Khánh. Hai
tướng trẻ Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ lên nắm chính quyền.
Tháng 3.1966, trong cao trào đấu tranh phật
giáo tại Đà Nẵng chống Thiệu – Kỳ, “lực lượng nhân dân tranh thủ cách mạng
vùng 1 chiến thuật” được thành lập, Đặc khu uỷ đă đưa 5 cán bộ, trong đó
có ông Nguyễn Đ́nh Liệu, tham gia vào Ban lănh đạo các tổ chức đấu tranh.
Ông Nguyễn Đ́nh Liệu được cử phụ trách “lực lượng phật tử tranh thủ cách
mạng”. Các tướng tá ở vùng 1 như Trung tướng Nguyễn Chánh Thi - Tư lệnh
vùng 1, Đại tá Nguyễn Văn Mô - Tham mưu trưởng vùng 1, Đại tá Đàm Quang
Yêu - Tư lệnh Biệt khu Quảng Đà ... đều ủng hộ phong trào đấu tranh của
quần chúng nhân dân. Ngày 25.3.1966, nhân dân đă thực sự làm chủ được
thành phố Đà Nẵng.
Trước cao trào đấu tranh cách mạng của nhân dân thành phố Đà Nẵng, Thiệu –
Kỳ quyết định đem quân từ Sài G̣n ra đàn áp. Ban đầu, Thiệu – Kỳ định sử
dụng quân Nhảy dù, nhưng khốn nỗi, tướng Nguyễn Chánh Thi từng là “quan
thầy” của tướng Dư Quốc Đống, tư lệnh Nhảy dù, mà tuớng Đống lại không
muốn mang tiếng “phản thầy” nên không chịu đưa quân đi. Các tướng tá Sài
g̣n phần lớn cũng ngán tướng Nguyễn Chánh Thi nên chẳng ai muốn đi. Cuối
cùng, Nguyễn Cao Kỳ nhờ đến một người bạn thân thiết của ḿnh là Trung tá
Nguyễn Thành Yên, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn A Thủy quân lục chiến, cầm
quân ra Đà Nẵng để đàn áp phong trào phật giáo.
Đổ quân xuống phi trường Đà Nẵng, Trung tá Yên được Thiệu – Kỳ bổ kiêm
nhiệm chức Quân trấn trưởng Đà Nẵng để danh chính ngôn thuận cho việc đàn
áp. Trung tá Yên nhanh chóng cho Thủy quân lục chiến tấn công chùa Tỉnh
hội, dẹp bỏ các bàn thờ Phật ở các đường lân cận đó. Tiếp theo, Trung tá
Yên đưa quân về hướng chùa An Long. Khi Thủy quân lục chiến chuẩn bị dẹp
các bàn thờ Phật ở đây th́ vấp sự chống trả quyết liệt của lực lượng phật
tử tranh thủ cách mạng do ông Nguyễn Đ́nh Liệu lănh đạo. Khốn nỗi, Trung
tá Yên là cháu của ông Nguyễn Đ́nh Liệu (cụ thân sinh của Trung tá Yên,
Nguyễn Thanh Xáng, là anh em chú bác ruột với ông Nguyễn Đ́nh Liệu) nên
Trung tá Yên ra lệnh lui quân (năm 1970, ông Nguyễn Thành Yên là Đại tá
phó Tư lệnh Sư đoàn TQLC).
Trong tháng tư, ông Nguyễn Đ́nh Liệu
chỉ đạo cho các thanh niên phật tử Nại Hiên và học sinh trường Bồ đề thực
hiện chiến dịch “đốt xe Mỹ”, đă có một vụ đốt xe như vậy xảy ra ở đầu
đường Bạch Đằng, trước Cổ viện Chàm: một chiếc xe Jeep nhà binh trên xe có
hai sĩ quan, một Mỹ và một Nam Hàn vừa chạy trờ đến, th́ các thanh niên
phật tử từ chùa An Long xông ra chặn đường và lôi hai sĩ quan này xuống
đất, hai sĩ quan này hốt hoảng kêu cứu th́ bị đánh, cùng lúc các thanh
niên phật tử khác tưới xăng vào xe và châm lửa đốt. Hai sĩ quan này may
mắn chạy vào khách sạn Moderne gần đấy nên thoát chết.
Thấy chưa đàn áp được phong trào cách mạng, ngày 15.5.1966 Thiệu – Kỳ tiếp
tục đưa quân ra Đà Nẵng. Nhân dân Đà Nẵng đă anh dũng đánh trả quân chính
phủ, nhưng do lực lượng ta c̣n yếu nên ngày 23.6, quân Thiệu – Kỳ đă làm
chủ thành phố. Để xoa dịu phong trào cách mạng của nhân dân Đà Nẵng, Trung
tá Nguyễn Thành Yên, Chiến đoàn trưởng Thủy quân lục chiến kiêm Quân trấn
trưởng Đà Nẵng, đă lên Đài phát thanh Đà Nẵng phát lời kêu gọi như sau:
“ … Nghiêm cấm quân sĩ không được xâm
phạm chốn tôn nghiêm, tuyệt đối không được nổ súng bắn trả lại quân phản
loạn cho dù có bị thương vong. Đồng thời kêu gọi đồng bào hăy tiếp tay
quân đội chính phủ, khiêng các bàn thờ Phật tổ để tạm yên trên lề đường
cho xe cộ lưu thông, văn hồi an ninh trên lănh thổ Quảng Nam-Đà Nẵng.
Nhưng nhớ phải cẩn thận không được làm ngă đổ tắt nhang đèn”.
Khi quân Thiệu – Kỳ chiếm thành phố, các cán bộ lănh đạo của ta đă rút lui
an toàn, những cán bộ có vỏ bọc hợp pháp, như ông Nguyễn Đ́nh Liệu, tiếp
tục ở lại lănh đạo phong trào. Đánh giá về sự kiện này, trong bức thư gửi
Thành ủy Sài g̣n - Gia định đề ngày 1.7.1967, ông Lê Duẩn, bí thư thứ nhất
BCHTU Đảng, đă viết: ( Ông Lê Duẫn khen GHPGVNTN-AQ có công tiếp tay cho
cách mạng)
“Cuộc nổi dậy của đồng bào Đà Nẵng
chống Thiệu – Kỳ từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1966, tuy không đem lại thắng
lợi, nhưng đă cho ta một bài học bổ ích về lợi dụng mậu thuẫn nội bộ địch.
Lúc đầu cuộc nổi dậy đó là không phải do ta chủ động mà nhân cơ hội nội bộ
địch chống đối lẫn nhau, ta đă biết tập hợp, phát động quần chúng đứng lên
làm chủ thành phố. Mặc dù cơ sở Đảng mỏng và lực lượng cách mạng trong
thành phố không nhiều, các đồng chí ở Đà Nẵng đă làm được việc đó. Nhưng
thiếu sót ở đây là các đồng chí ở Đà Nẵng chưa tranh thủ được thuận lợi để
phát triển thực lực cách mạng … Bài học về cuộc nổi dậy của đồng bào Đà
Nẵng rất phong phú”.
Kỳ 10: Chùa An Long trong Tết Mậu Thân 1968
Trong cuộc tổng tiến và nổi dậy Tết Mậu
thân 1968, chùa An Long đă đóng một vai tṛ hết sức to lớn. Ông Nguyễn
Đ́nh Liệu, Bùi Sĩ Tấn cùng một số cơ sở tiếp nhận và cất giấu một lượng
lớn vũ khí tại hầm bí mật dưới chân tượng Phật tại chùa An Long. Ngày 29
Tết, ông Nguyễn Đ́nh Liệu chỉ đạo các cơ sở, học sinh sinh viên, tăng ni,
phật tử viết khẩu hiệu, biểu ngữ, bàn phương án phối hợp với các mũi đấu
tranh trong thành phố, biến chùa An Long thành một trong những trung tâm
lănh đạo cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân ở nội thành Đà Nẵng.
Treo cờ MTGPMN tại chùa Tỉnh Hội ngày 29 Tết
Nguyễn Đ́nh Liệu hoạt động tại chùa An long., chứa vũ khí.
Sau khi chuẩn bị xong, tối 29 Tết, một cơ sở ta dùng xe Jeep chở ông
Nguyễn Đ́nh Liệu cùng cờ Mặt trận Giải phóng, khẩu hiệu, biểu ngữ lên chùa
Tỉnh hội để phối hợp với lực lượng ở đây chuẩn bị nổi dậy. Sáng mồng 1
Tết, đông đảo quần chúng nhân dân đă tập họp tại chùa Tỉnh hội. Tuy thiếu
sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhưng các vị lănh đạo Đặc khu ủy vẫn cho
tiến hành nổi dậy theo kế hoạch. Ông Phan Chánh Dinh (c̣n có tên là Phan
Duy Nhân và Nguyễn Chính, sau 1975 là cán bộ lănh đạo ở Mặt trận Tổ quốc
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, và về sau là Quyền Trưởng ban Tôn giáo Chính
phủ) cầm loa dẫn đầu đoàn biểu t́nh, hô hào quần chúng nổi dậy. Đoàn biểu
t́nh kéo từ chùa Tỉnh hội ra đường Ông Ích Khiêm th́ bị địch đàn áp. Ông
Phan Chánh Dinh bị bắn găy chân và bị bắt đem về Ty Cảnh sát Gia Long, sau
đó bị giải qua Trung tâm thẩm vấn Thanh B́nh và nhà lao Kho Đạn, Đà Nẵng.
Địch ra lệnh thiết quân luật và bắn vào đoàn biểu t́nh. Ông Nguyễn Đ́nh
Liệu được cơ sở đưa về ẩn náu tại chùa An Long.
Sáng
mồng 4 Tết, các ông Nguyễn Đ́nh Liệu, Hà Kỳ Ngộ đều bị bắt v́ có một cơ sở
khai báo với địch. Nguyên nhân như sau: ngày 29 Tết, một cơ sở của ta, ông
Nguyễn Hiếu, chủ nhà may Đồng Tân ở đường Độc Lập (nay là đường Trần Phú),
được giao nhiệm vụ chở một số vũ khí từ Nam Ô đến cất giấu tại chùa An
Long, trên đường vào nội thành th́ xe ông Nguyễn Hiếu bị Biệt động quân
chặn lại ở Ngă Ba Huế, khi khám xe thấy có chứa vũ khí nên toán Biệt động
quân này bắt giữ ông Nguyễn Hiếu rồi chuyển cho An ninh quân đội, tại đây
Hiếu đă khai ra địa điểmchùa An Long là nơi cất giấu vũ khí và khai thêm
một số cơ sở bí mật nữa.
Tôi xin trích nguyên một đoạn viết
của tác giả Hàn Giang Trần Lệ Tuyền (trên trang
webwww.mauthan68.blogspot.com) về vụ bố ráp chùa An Long vào sáng mồng
4 Tết Mậu Thân: “Và cũng qua điều tra bởi vụ án này [Nguyễn Hiếu] mà chính
quyền đă huy động một lực lượng gồm An Ninh Quân Đội-Ban II Đặc Khu Quân
Trấn- Biệt Động Quân, đột nhập vào ngôi chùa của Khuôn hội Nại Hiên Tây
(v́ cảnh sát không bao giờ dám khám xét chùa), sau lưng Cổ Viện Chàm,
trước trường Trung học Sao Mai, phía trái có nhiều kho chứa xăng, bên cạnh
có cầu tàu thuộc Quân cảng dùng để tiếp nhận chiến cụ; thường được gọi là
Cầu Đạn, phía trên là cầu Tŕnh Minh Thế, nối liền một quăng đường ngắn
khoảng hơn 100 mét là Trại Nguyễn Tri Phương, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, Quân
Khu 1. Và đă khám phá ra được một căn hầm bí mật ngay dưới Chánh điện thờ
Phật, phía trên được ngụy trang bằng một pho tượng Phật to lớn là nắp hầm
để che giấu hơn hai trăm khẩu súng, đạn đủ loại và chất nỗ TNT. Người quản
nhiệm ngôi chùa này là một Khuôn hội trưởng - Giáo sư Nguyễn Đ́nh Liệu dạy
tại trường Trung học Bồ Đề do Thượng tọa Thích Minh Tuấn làm Hiệu trưởng
;( ngày 29/3/1975, Thích Minh Tuấn đă công khai đưa cả đoàn xe ra tận núi
rừng để rước bộ đội Bắc Việt vào thành phố Đà nẵng). Sau đó ông Nguyễn
Đ́nh Liệu bị đưa ra Ṭa Án Quân Sự Mặt Trận và bị kết án 10 năm tù ở, thụ
án tại Chí Ḥa. Năm 1973, ông Liệu được trao trả nhân viên dân sự tại Lộc
Ninh”.
Hầu hết các chi tiết trong đoạn viết
trên là chính xác, duy có ba chi tiết chưa thật chính xác, xin đính chính
lại: thứ nhất, ông Nguyễn Đ́nh Liệu không phải là Giáo sư dạy tại trường
Trung học Bồ Đề mà chỉ có chân trong ban trị sự trường Bồ Đề; thứ hai là
ông Liệu được trao trả theo diện nhân viên dân sự tại Thạch Hăn chứ không
phải tại Lộc Ninh; và cuối cùng, ông Nguyễn Đ́nh Liệu thụ án ở Côn Đảo chứ
không phải tại Chí Ḥa như tác giả Hàn Giang đă viết.
Cũng trong ngày hôm đó, do Nguyễn
Hiếu khai báo nên An ninh quân đội đă ập vào nhà bà Nguyễn Thị Sự (nay là
số nhà K191/17 Ông Ích Khiêm, phường Thạch Thang, quận Hải Châu) và bắt
ông Hà Kỳ Ngộ (thường vụ Đặc khu ủy).
Địch đem ông Nguyễn Đ́nh Liệu và ông Hà
Kỳ Ngộ về giam tại Kho Đạn. Tại đây, hai ông bị địch tra tấn dă man. Ông
Nguyễn Đ́nh Liệu bị địch dùng dùi cui đánh vào mang tai nên về sau này ông
đă bị điếc nặng, phải dùng máy trợ thính luôn. Không moi được tin tức ǵ
nên địch mang hai ông ra xử tại toà án Quân đội. Ông Nguyễn Đ́nh Liệu bị
tuyên án 10 năm tù, ông Hà Kỳ Ngộ bị án chung thân và cả hai ông bị địch
đưa ra Côn Đảo.
Năm 1973, ông Nguyễn Đ́nh Liệu được chính quyền Việt Nam Cộng ḥa trao trả
cho Mặt trận Giải phóng theo diện chính trị phạm dân sự tại Thạch Hăn.
Thấy ông tuổi cao, sức yếu lại bị thương tật trong chốn lao tù nên Trung
ương đă bố trí ông đi nghỉ tại Trạm tiếp đón cán bộ miền Nam T72 tại Khu
an dưỡng Sầm Sơn (Thanh Hoá).
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 1975, từ ngày 2.5.1975 đến
31.1.1977, Trung ương đưa ông về lại Liên khu 5, Ban Tổ chức Tỉnh ủy tỉnh
Quảng Nam - Đà Nẵng bố trí ông đi nghỉ an dưỡng tại trại Đón tiếp tỉnh
QN-ĐN.
Ngày 1.2.1977, ông Nguyễn Đ́nh Liệu chính thức được nghỉ hưu trí theo
quyết định 54/QĐ/HT kư ngày 20.12.1976 của UBND tỉnh QN-ĐN. Kể từ đó, ông
trở về sum họp với gia đ́nh ở ngôi nhà xưa tại đường Trưng Nữ Vương,
phường B́nh Hiên, quận Nhất (nay là Hải Châu), Tp Đà Nẵng. Mặc dù tuổi
cao, sức yếu nhưng ông vẫn tham gia sinh hoạt đảng tại đảng bộ phường B́nh
Hiên, chủ tŕ việc cúng tế tại địa phương và giành khoảng thời gian cuối
đời để viết lịch sử về làng Nại Hiên, đ́nh Nại Hiên, chùa An Long và lập
gia phả tộc Nguyễn Thanh. Tài liệu này được viết, cũng một phần, là dựa
trên các di cảo của ông Nguyễn Đ́nh Liệu do anh Nguyễn Dục Anh (cháu đích
tôn của ông Nguyễn Đ́nh Liệu) đang giữ ǵn và bảo quản. Ông Nguyễn Đ́nh
Liệu qua đời vào ngày 16 tháng 10 năm 1984 tại tư gia trong niềm thương
tiếc vô bờ của đông đảo đồng bào đồng chí tại Quảng Nam - Đà Nẵng và toàn
thể con cháu trong chư phái tộc làng Nại Hiên.
Sau Mậu Thân 1968, do đă bị lộ nên chùa An Long không c̣n là cơ cở cách
mạng nữa. Thầy Thân bị liên đới không làm trụ tŕ, Đại đức Thích Như Dục
từ chùa Tỉnh hội về trụ tŕ tại chùa An Long.
Như vậy, trong công cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước vẻ vang của nhân dân ta, chùa An Long cũng đă đóng góp
ít nhiều công sức vào đấy. Từ năm 1962 đến năm 1968, chùa An Long đă là:
- một cơ sở che giấu và nuôi
dưỡng cán bộ ta,
- một địa điểm bí mật để tập kết
và cất giấu vũ khí, tài liệu, máy đánh chữ …cho cách mạng,
- một trong những trung tâm lănh
đạo các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân trong ḷng đô thị Đà
Nẵng dưới vỏ bọc phong trào đấu tranh Phật giáo,
- một trong những trung tâm lănh
đạo cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân ở nội thành Đà Nẵng.
(Kỳ 11: Lời kết)
Kỳ cuối: Thay cho lời kết
Kể từ lúc các vị Tiền - Hậu Hiền làng Nại Hiên vào khai khẩn mảnh đất dọc
theo hai bên bờ sông Hàn đến nay là vừa tṛn 535 năm. Tổ tiên làng đă xây
đ́nh Nại Hiên, dựng chùa An Long và từ đó đ́nh, chùa là nơi sinh hoạt tinh
thần, tôn giáo, là nơi dân làng tổ chức những hoạt động lễ hội và là nơi
giữ ǵn những nét đẹp văn hóa xưa.
Ngày nay, mặc dầu đă trở thành thị dân nhưng nhân dân Nại Hiên vẫn không
bao giờ mờ nhạt ư thức cộng đồng làng xă, họ tộc tổ tiên, vẫn duy tŕ
những sinh hoạt văn hóa tinh thần, tôn giáo, bởi v́ những sinh hoạt văn
hóa tại đ́nh Nại Hiên và chùa An Long vào các lễ tế chư vị thần chủ làng
hay lễ Phật Đản, lễ Vu Lan . . . là dịp tốt nhất để mọi người t́m về cội
nguồn, ôn lại truyền thống, ngưỡng vọng tổ tiên và giải tỏa mối lo âu
thường nhật, làm dịu bớt nỗi đau tinh thần hay gửi gắm khát vọng thầm kín
mà thực tại chưa hoặc không giải quyết được. Thực tế cho thấy những sinh
hoạt văn hóa này không chỉ đă góp phần vào việc giáo dục truyền thống
“uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” đối với những người có công với
làng xă, với họ tộc mà c̣n giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước,
gắn bó với quê hương, với mảnh đất Nại Hiên đă thấm đẫm mồ hôi, xương máu
của ông cha, qua đó làm tăng cường ư thức gắn kết cộng đồng của dân làng
trong cuộc sống đầy những thay đổi của thời hội nhập văn hóa. Hội nhập văn
hóa đang là một xu thế mang tính phổ biến trong thời đại hôm nay, nhưng
hội nhập không đồng nghĩa với ḥa tan mà hội nhập văn hóa phải đi cùng với
việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, những nét đẹp
văn hóa xưa và những di tích của tổ tiên.
Nhưng đ́nh Nại Hiên và chùa An Long đâu chỉ là nơi giữ ǵn những nét đẹp
văn hóa xưa mà c̣n là nơi ghi dấu bao chiến công anh dũng, bao thành tích
cách mạng của nhiều thế hệ dân làng Nại Hiên trong sự nghiệp giữ nước của
dân tộc Việt Nam. Đ́nh lớn Nại Hiên là nơi ông Án Nại đặt đại bản doanh
của nghĩa quân Nghĩa hội chống Pháp, đ́nh nhỏ Nại Hiên là nơi chứng kiến
sự ra đời của Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời xă Nại Hiên trong những
ngày Cánh mạng Tháng Tám lịch sử. Trong kháng chiến chống Mỹ, chùa An Long
là nơi che giấu và nuôi dưỡng cán bộ, là nơi tập kết và cất giấu vũ khí,
tài liệu, máy đánh chữ …cho cách mạng, là nơi lănh đạo các phong trào đấu
tranh của quần chúng nhân dân trong ḷng đô thị Đà Nẵng dưới vỏ bọc phong
trào đấu tranh Phật giáo, là nơHanGiangTranLeTuyen_TetMauThan1968VaNguoiChienSiVNCH.htmi lănh đạo cuộc tổng tiến công và nổi dậy
Tết Mậu thân ở nội thành Đà Nẵng.
Trải qua bao lần dâu bể, bao cơn phong ba băo táp và bao phen khói lửa
chiến chinh, đ́nh chùa vẫn c̣n đứng đấy, trầm mặc nh́n dân làng Nại Hiên
theo ḍng đời xuôi ngược, như để làm chứng tích cho một lịch sử vẻ vang mà
nhiều thế hệ dân làng Nại Hiên đă và đang chung tay gây dựng.
Hậu thế xin đời đời tri ân công đức cao dày của Tiền nhân!
Đ́nh Nại Hiên, chùa An Long
Năm trăm năm sử trong ḷng hằng ghi
Nại Hiên - An Long, mùa Vu Lan, Kỷ Sửu (2009) Đinh Bá Truyền
|