Sau 30/4/1975: Cộng sản Hà Nội đă truy cùng-diệt tận Dân-Quân Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa!

 

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

 

 

Có lẽ đa số người Việt Nam đều biết: Sau ngày Quốc Hận 30/4/1975, đối với bạo quyền Cộng sản Hà Nội, th́ tất cả Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa đều là “thành phần nguy hiểm”. V́ thế, đảng Cộng sản đă không từ bất cứ một thủ đoạn tàn ác nào, để phải loại trừ, nên Hà Nội cần phải truy cùng, giết tận, để cho tất cả con dân của nước Việt Nam Cộng Ḥa không thể có một cơ hội để khôi phục Quốc Gia.

 

“Chính sách” đầu tiên là bỏ tù tất cả các vị Quân-Cán-Chính, có tinh thần chống Cộng. Có vị đă ở trong các nhà tù “cải tạo” của Việt cộng trên dưới mười năm, hai mươi năm!

 

Trong suốt những năm tháng dài trong các nhà tù của bạo quyền Cộng sản, tù nhân “cải tạo” đă bị hành hạ, đọa đày bằng những cực h́nh vô cùng tàn độc, dă man, từ lao động khổ sai, bắn chết, đánh đập, cùm kẹp tay chân, đói khát, lạnh lẽo, không cho ăn no, mỗi ngày chỉ “được” phát khoai, sắn, bo bo, một chút muối lẫn với đất cát với mùi tanh của cá biển.

 

Cho đến hơn mười năm sau, trong lúc bị Chính phủ Mỹ “cấm vận” th́ người Việt ở Mỹ cũng như nhiều nước khác, không được gửi tiền về nước cho thân nhân, mà phải gửi những thùng quà bằng vải vóc và thuốc Tây, được đóng thùng tại nước Pháp, có đánh số cho từng thùng cho những loại thuốc nào, giá tiền bao nhiêu, để gửi về gia đ́nh ở Việt Nam. Mặc dù khi gửi, thân nhân đă trả cước phí tại Bưu Điện, nhưng khi nhận quà tại Việt Nam, th́ thân nhân phải đóng thuế theo “giá trị” của những thùng “hàng”.

 

Điêu đứng trước chính sách “cấm vận”, chế độ Cộng sản Hà Nội đă cận kề sự sụp đổ, th́ có sự “can thiệp” của Chính phủ Mỹ, muốn nhận các cựu tù Chính trị Việt Nam Cộng Ḥa, th́ bạo quyền Hà Nội đă “chụp lấy” cơ hội này, để đạt được những điều mong muốn:

 

Thứ nhất, Việt cộng thừa biết, dẫu có bỏ tù, hành hạ các cựu tù Chính trị Việt Nam Cộng Ḥa 10 năm, 20 năm, hay hơn nữa, th́ chỉ trừ các vị bị chúng giết chết, nhưng các vị c̣n sống chúng không thể “cải tạo” được tinh thần chống Cộng sản và Lư tưởng Quốc Gia của các vị trong hơn hai mươi năm sống dưới Thể chế Việt Nam Cộng Ḥa, đă cùng đối diện với tử sinh, để chiến đấu chống Quân Thù Xâm Lăng: Cộng sản Bắc Việt.

 

Các vị là những người đă xuất thân từ những ngôi học đường Quân Sự, Hành Chánh Quốc Gia. Họ không dễ ǵ khuất phục trước quân Xâm Lăng, cướp nước!

 

Đây là cơ hội ngàn vàng, để “tống khứ” hết những vị cựu tù “cải tạo” ra khỏi nước, để không c̣n là những “mối lo - mối họa” cho bạo quyền Cộng sản. Thời điểm ấy, các vị cựu tù; đặc biệt là các vị Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam dù mới ra tù, nhưng tuổi c̣n tương đối trẻ, chưa phai nhạt những cuộc hành quân do chính ḿnh là cấp Chỉ huy trong cơn khói lửa mịt mùng, sinh tử trên các trận địa với quân giặc thù Xâm Lăng. Và những người Lính thuộc quyền vẫn c̣n đó. Bạo quyền Hà Nội vẫn lo sợ các vị có thể “tái chiêu mộ binh sĩ” đứng lên đánh đổ bạo quyền!

 

Chính v́ thế, Cộng sản Hà Nội đă chấp nhận để cho các vị cựu tù “cải tạo” cùng gia đ́nh được ra đi sang nước Mỹ, không phải chỉ để hổ phải ĺa rừng, mà c̣n được chính phủ Mỹ “bỏ cấm vận”, và ban cho “Tối Huệ Quốc”. Nhờ đó, mà bạo quyền Cộng sản vượt qua cơn khốn khó, để chúng có được ngày hôm nay, để cùng nhau bán nước, buôn dân, chia chác tài nguyên của đất nước, để sống trên giàu sang nhung gấm tột đỉnh, trên sự đói rách lầm than của đa số người dân Việt.

 

Nhưng không riêng các Cựu Tù Nhân Chính Trị, mà bạo quyền Cộng sản c̣n sợ cả các vị Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Ḥa, mặc dù các vị đă tàn phế. Bởi vậy, Việt cộng đă t́m mọi cách, để giải tán, xua đuổi các Thương Phế Binh, không cho các vị đến với nhà thờ Ḍng Chúa Cứu Thế, Sài G̣n, để được sự giúp đỡ, và hội ngộ cùng nhau. Người viết có suy nghĩ, chắc không sai rằng, ngày nay, nếu chính phủ Mỹ vẫn tiếp nhận cho các vị Thương Phế Binh được sang nước Mỹ, th́ Việt cộng cũng sẽ vui mừng mà cho đi ra khỏi nước, để xóa hết (nhưng không bao giờ xóa được) những h́nh ảnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, để khỏi thấy những h́nh ảnh như trong video này:

 

https://www.youtube.com/watch?v=U7QvfRbX22U

 

Chính v́ thế, mà trước đây, các cựu tù “cải tạo” không c̣n con đường nào khác, là phải ra đi, v́ không sống được với Cộng sản, v́ “chính sách” truy cùng, diệt tận!

 

 Tại Thành phố Đà Nẵng, các vị cựu tù “cải tạo”, Công an Cộng sản đă bắt buộc những người thuộc “Thành phần nguy hiểm” phải “chấp hành lệnh quản chế” không được đi ra khỏi Thành phố, hàng tuần phải “tŕnh diện” ở Phường, con cái dù có học giỏi đến đâu cũng không được vào Đại học, v́ “Lư lịch Ngụy quân, Ngụy quyền”, không có việc làm… Nghĩa là các vị phải ra đi, để tự cứu ḿnh và gia đ́nh, nếu không, sẽ bị Cộng sản truy cùng, diệt tận!

 

Tuy nhiên, không phải các vị ra khỏi nước rồi, mà được yên ổn, v́ nhiều vị vẫn c̣n có con cái lớn tuổi, đă có gia đ́nh, bị kẹt lại ở Việt Nam. Hà Nội vẫn thấy con cái của họ cũng là “mối lợi” cho bạo quyền, v́ ít nhất, các vị này phải gửi tiền về giúp đỡ con cháu, hoặc giúp con cái mở ra những “hăng xưởng” làm ăn. Có vị v́ thương nhớ con cháu đă phải về thăm. Có vị đi và về thường xuyên, mà đă về thăm con cháu rồi, khi trở ra hải ngoại, lại khó có thể mạnh mẽ chống Cộng sản, v́ sợ ảnh hưởng đến công việc làm ăn của con cháu. Lại c̣n có những cháu nội ngoại của họ bị Cộng sản “trồng người”, nên đă lấy vợ, lấy chồng là đảng viên Cộng sản! Những người này, dù ở Mỹ, vẫn thường “ở ẩn” không lên tiếng chống Cộng sản, không tham dự các cuộc biểu t́nh chống Cộng sản!

 

Nhưng không riêng ở Mỹ, mà ở các nước Châu Âu, cũng vẫn có một số người như vậy. Họ là những người đă di tản trên Tầu Trường Xuân vào ngày 30/4/1975, hoặc đă vượt biên, vượt biển sau đó. Có người cũng từng ở tù “cải tạo”. Họ ra đi một ḿnh, hay cả vợ chồng, v́ không đủ vàng để đóng cho chủ tàu, vợ hoặc con th́ kẹt lại. Họ cũng giống nhu những cựu tù “cải tạo” ở Mỹ, nên có một thiểu số, thường hay đi về Việt Nam, nhưng khi trở ra, cũng thường xuyên đi biểu t́nh “chống Cộng”. Không biết họ có “chống Cộng” hay không?

 

Bạo quyền Hà Nội cũng truy cùng, diệt tận đối với người dân lương thiện của nước Việt Nam Cộng Ḥa

 

Đây là những người mà bạo quyền Cộng sản gọi là “Thành phần tư sản, mại bản”, tuy họ chỉ có một căn nhà khang trang do mồ hôi, nước mắt của họ xây dựng; Nhưng Cộng sản đă dùng hai chữ “trưng dụng” nghĩa là chiếm đoạt nhà cửa, và ngang nhiên dọn vào “làm chủ”.

 

Cướp nhà xong, Việt cộng c̣n dùng bạo lực bắt buộc gia đ́nh của họ phải đi “vùng kinh tế mới”. 

 

“Kinh tế mới” là cái mỹ từ do đảng Cộng sản đă đặt để ra, cũng như cái mỹ từ “Học tâp cải tạo” vậy. Thực chất, đây là những vùng đất ở những nơi rừng thiêng, nước độc, không người lui tới, để lưu đày tất cả các gia đ́nh “ngụy dân”. Những vùng “kinh tế mới” toàn là rừng núi hoang vu, đất đá khô cằn, trồng sắn, sắn chết, trồng khoai, khoai khô… không một loại ngũ cốc nào sống được.

 

Chính v́ vậy, sau những tháng năm phải dùng những bàn tay, mà một số người, trước kia vốn chỉ quen với phấn trắng, bảng đen. Họ là các thầy cô giáo đă phải đến nơi rừng thiêng, nước độc này, v́ họ không có “lư lịch cách mạng”. Họ không chấp nhận phải “đi học khóa chính trị, dạy học theo đường lối cách mạng”.

 

Sau khi đến vùng đất này, họ lâm vào những căn bệnh sốt rét rừng... có rất nhiều người đă chết ngay trên vùng “kinh tế mới”, v́ không có thuốc men, không có nơi chữa bệnh. Và những giọt nước mắt của họ đă rơi trên những thi thể của con em của ḿnh đă chết v́ bệnh tật, đói, lạnh và kiệt sức. Họ cũng đă nhỏ máu mười đầu ngón tay, v́ phải vạch gai rừng, đào huyệt mộ trên vùng đất đá, để chôn xác người thân, và cũng không có quan tài, chỉ bó chiếu mà thôi!

 

Với những thảm cảnh như thế, nên sau những ngày tháng đối diện với đói rách, họ phải rời bỏ “vùng kinh tế mới” để quay trở về nơi đă từng có căn nhà cũ của họ; nhưng nhà cũ của họ đă bị đảng viên Cộng sản chiếm đoạt, nên gia đ́nh con cái của họ đành phải sống ở nhà Ga, bến xe. Đêm đêm gối đất nằm sương, hàng ngày người lớn đi gánh nước thuê, xách hàng thuê, c̣n con nhỏ phải đi “bán nước”. “Bán nước” là tay cầm một ấm nước trà, tay cầm chiếc ly, mời gọi người đi đường uống giúp ly nước, để kiếm chút tiền mua gạo.

 

Người viết đă biết nhiều vụ cướp nhà, cướp của, truy bức người dân đến cùng đường của lương dân tại Đà Nẵng; nhưng trong phạm vi bài này, nên không thể kể hết cảnh ngộ của từng gia đ́nh.

 

Riêng một số vị là vị Quân-Cán Chính Việt Nam Cộng Ḥa; sau khi ra tù, vào cuối thập niên 1980. Thời gian này, họ không biết chính phủ Mỹ, có chương tŕnh nhận những người thuộc thành phần cựu tù “cải tạo”, mà họ c̣n bị Việt cộng buộc phải “chấp hành lệnh quản chế”, nếu muốn đi đâu, phải làm “Đơn xin tạm vắng”, phải cho biết đi đến đâu, ở nhà ai. Rồi sau khi đến nơi, phải có “Đơn xin tạm trú”. Và các vị ra tù, trong tay chỉ có hai tờ giấy, là cái “Lệnh phóng thích” là cái “Giấy ra trại”. Họ có “lư lịch ngụy quân-ngụy quyền” th́ đến đâu họ cũng bị xem là “thành phần nguy hiểm”, ngay người thân, là anh em ruột thịt, cũng bị Công an Việt cộng ra lệnh cho gia chủ “không được chứa chấp thành phần nguy hiểm”.

 

Người viết đă biết nhiều hoàn cảnh bi thương, riêng tại thành phố Đà Nẵng, v́ không thể viết hết, nên chỉ xin kể ra một trường hợp, mà đa số các vị Cựu Tù Nhân Chính Trị tại “Trại I, tức Trại chính Trại cải tạo” Tiên Lănh, có mặt ở trong tù trong thời điểm xảy ra sự việc đă biết như sau:

 

Trước 30/04/1975, tại Đà Nẵng, có nhiều rạp Ciné như: Rạp Trưng Vương, Kim Châu, Kinh Đô, Lido, Chợ Cồn… nhưng riêng rạp Ciné Kim, ở đường Phan Đ́nh Phùng, mới được hoàn thành sau này, khoảng năm 1971, là rạp hạng sang, ba tầng, “tối tân” nhất, v́ rạp có ghế bọc nhung đỏ, có máy lạnh, cách trang trí đẹp, lại có mấy hàng ghế sau cùng, là những chiếc ghế chỉ có hai người ngồi, nên được nhiều người thích đến xem hơn.

 

Chủ của Ciné Kim (tên của rạp được đắp nổi là Ciné Kim, không có chữ “rạp”) là ông Nguyễn Đăng Hưng. Sau ngày 30/04/1975, Việt cộng buộc ông Hưng phải “đóng thuế siêu ngạch”. Nghĩa là tính thuế kể từ khi Ciné Kim mới bắt đầu khai trương chiếu phim. Tôi không nhớ chính xác số tiền “phải đóng thuế”, nhưng v́ đây là “vụ án” nổi tiếng, nên tôi và người dân Đà Nẵng có biết là “ba trăm triệu” (tính theo tiền Việt Nam Cộng Ḥa).

 

Ông Hưng là người Thành phố, không biết ǵ về Cộng sản, ông lầm tưởng là cứ nộp đủ số tiền này rồi, th́ sẽ được công khai mở cửa rạp, chiếu phim như trước, nên ông gom đủ số tiền, đem “nộp thuế” cho Việt cộng.

 

Thế nhưng, sau khi nộp đủ tiền, th́ Công an Đà Nẵng đă đến niêm phong rạp Ciné Kim, và nói là “tài sản của tư sản mại bản nên nhà nước phải trưng thu”.

 

Lúc này, ông Nguyễn Đăng Hưng, có “kêu trời” cũng không thấu, nhưng v́ quá uất ức, nên ông “chống” Công an bằng những lời nói, mà bị Việt cộng kết thêm thành “tội” là “thành phần tư bản mại bản phản động”.

 

Sau đó, “Ty Công an Đà Nẵng” đă bắt giam, rồi đưa lên “Trại cải tạo” Tiên Lănh. Khi “nhập trại” ông Hưng càng uất ức, đau đớn hơn, lại buộc phải đi lao động khổ sai, ra đồng làm ruộng, làm tất cả những cộng như tất cả các vị Cựu Tù Nhân Chính Trị.

 

Một hôm, có lẽ quá sức chịu đựng, nên khi đốn củi, ông đă dùng cây rựa để tự cắt cổ ḿnh. Đến nước này, th́ quư vị đồng tù đă ra sức can ngăn, khuyên giải, nói với ông: “Ông đă mất Ciné Kim, mất tiền, bây giờ không được mất mạng, không được chết. Ông phải sống!”

 

Cuối cùng, ông Hưng đă hiểu, đành phải ở tù và lao động khổ sai như các vị đồng cảnh ngộ, cho đến ngày được ra tù. Ông ra tù trước tôi. Sau này, khi tôi về Đà Nẵng, th́ được nhiều người nói với nhau, trong đó có tôi:

 

 “Ông Hưng Ciné Kim đă vượt biển, và tới Mỹ rồi!”

 

Quả đúng như vậy, ông Nguyễn Đăng Hưng đă vượt biển, và tỵ nạn Cộng sản ở miền Nam California.

 

Một lần nữa, người viết xin chúc mừng ông. Cám ơn những tấm “Carte” tức “Giấy mời” xem phim của ông tặng cho ḿnh. Người viết vẫn nhớ, trên “Giấy mời xem phim” của ông chủ Ciné Kim, mỗi lần đi xem phim, được phép cho hai người vào rạp. Ngày ấy, có khi bận không đi, th́ người viết lại trao “Giấy mời” cho cô em kết nghĩa, để cô này muốn đi với ai tùy ư.

 

Trên đây, là trường hợp của ông Nguyễn Đăng Hưng, chủ Ciné Kim, cũng như bao nạn nhân của bạo quyền Cộng sản. Đến lúc, họ tự biết, họ đang bị truy bức đến đường cùng, nếu muốn gia đ́nh được sống, th́ chỉ có một giải pháp duy nhất, là vượt biên, vượt biển, mới thoát khỏi bàn tay tàn ác của Cộng sản, nhưng họ không có tiền, vàng cho đủ để đóng cho chủ tàu, thuyền để được ra đi.

 

Đứng trước hoàn cảnh sống, chết này, họ phải đi vay mượn của người thân-thích đôi bên, với lời hứa ra hải ngoại sẽ gửi tiền về hoàn trả, nên một số người đă được sự tin tưởng và giúp đỡ, nên họ đă phải rời Quê Hương, lên đường vượt thoát Cộng sản bằng đường bộ, hay đường biển. Họ phải ra đi, họ không có con đường nào khác, v́ không sống được dưới chế độ của bạo quyền Cộng sản!

 

Nhưng đau đớn thay, v́ trong số người đă liều ḿnh, đem sinh mạng để đánh đổi hai chữ Tự Do, có rất nhiều gia đ́nh đă rơi vào tay của hải tặc Thái Lan, hoặc lênh đênh nhiều ngày trên đại dương, chịu đói, khát, lạnh lẽo, và bị bỏ ḿnh nơi biển cả. Họ không được đến bến bờ Tự Do. Họ đă đau thương từ các nhà tù “cải tạo” của Việt cộng, rồi chím xuống đáy biển sâu, làm mồi cho cá. Họ đă bị bạo quyền Cộng sản Hà Nội truy cùng, diệt tận!

 

Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không hề “bại trận”

 

Làm sao mà “bại trận” được. Hăy nh́n lại những h́nh ảnh oai hùng, những chiến công lừng lẫy, qua những trận chiến như Mùa Hè Đỏ Lửa, 1972, B́nh Long…

 

Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa đă từng xông pha trên chiến địa, gh́m chặt tay súng, nhắm thẳng về phía quân thù mà bắn. Có đôi lần, dù bị Cộng quân bủa vây giữa đêm tối, khói lửa mịt mùng, nhưng Người Lính vẫn chiến đấu, không để đơn vị rơi vào tay giặc. Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa không hề sợ chết!

 


 

 

 



 Đêm 28/9/1968, Việt cộng pháo kích trại Lực Lượng Đặc Biệt Thường Đức (Quảng Nam)


Thế hệ hậu sinh, cần phải biết, chỉ riêng trong trận chiến Tết Mậu Thân, 1968, v́ “tin vào thỏa ước hưu chiến ba ngày do phía Cộng sản Bắc Việt đề nghị và cam kết để người dân đón Tết trong an b́nh”, nên đa số người lính đă được phép rời các đơn vị, về ăn Tết với gia đ́nh, để rồi giữa lúc dân-quân Việt Nam Cộng Ḥa đang đón Xuân trước bàn thờ Tổ Tiên, khói hương nghi ngút, th́ Quân Thù Xâm Lăng Cộng sản Hà Nội đă bất ngờ tấn công, không riêng ở Huế, mà tấn công vào các Thành phố.

 

Lần này, Cộng sản Bắc Việt đă chuẩn bị trước, nên đă đưa nhiều “Sĩ quan quân báo” vào nằm ngay trong nhà của những tên Cộng sản nằm vùng, (người viết đă viết rơ họ, tên qua bài Trưởng Niệm 40 năm Cuộc Thảm sát Tết Mậu Thân, 1968) để chờ đến lúc khi bên ngoài “ngoại công”, th́ bên trong chúng “nội kích”.

 

Tuy nhiên, mặc dù đă mưu tính “chu đáo”, nhưng Cộng sản Bắc Việt không ngờ được ḷng yêu nước, thương đồng bào, với tâm niệm: Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm của Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa, không tiếc máu xương, nên giữa cơn khói lửa, đă quyết chiến “cảm tử” với quân thù!

 

Chính v́ vậy, trong lúc Cộng quân đang “say men chiến thắng” v́ tin rằng sẽ chiếm được miền Nam, ngay trong Tết Mậu Thân, 1968. Nhưng quân Xâm Lăng Cộng sản Bắc Việt đă lầm, v́ dù một nửa quân số đă “về quê ăn Tết”; và dù chỉ c̣n lại một nửa quân số c̣n lại ở các Đơn vị, nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă khiến Cộng quân đă phải hết sức kinh hoàng trước sự phản công mănh liệt, đă đánh bật quân thù Cộng sản ra khỏi các thành phố, bỏ lại những xác chết ngổn ngang, trả giá cho hành vi “bội ước” mưu toan giết hại đồng bào trong ngày Tết thiêng liêng, v́ “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”.

 

Người viết đă từng lên tiếng, trong những cuộc biểu t́nh ngày Quốc Hận trước đây, nhưng đến hôm nay, người viết vẫn muốn nhắc lại một câu đanh thép:

 

Trong cuộc “Tổng công kích Tết Mậu Thân, 1968”, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, đa số đă “về quê ăn Tết”, nên quân số chỉ có phân nửa, nhưng Cộng quân đă không thắng nổi, đă thua, và phải bỏ chạy!

 

V́ thế, vào thời điểm, trước và sau ngày 30/04/1975, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă bị bức tử, không được Chiến, nên không hề có “bại”. Và nếu được đánh một trận thư hùng cuối cùng, th́ chắc chắn Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa phải Thắng!

 

Tạm kết

 

Giờ đây, nước đă mất, nhà đă tan. Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa, dẫu ở quốc nội, hay hải ngoại, đa số đều biết bạo quyền Cộng sản Hà Nội với bàn tay sắt máu, phi nhân, bạo tàn. Thế nhưng, vẫn có một thiểu số, có lẽ v́ “mắc bệnh” hoang tưởng, nên nghĩ rằng đảng Cộng sản Việt Nam sẽ “thay đổi tốt hơn” rồi cứ về Việt Nam, để tô son, điểm phấn cho chế độ bán nước, buôn dân.

 

Xin hăy ghi nhớ, ngày xưa, v́ ḷng yêu nước, nên một số vị trí thức từng đă đứng chung với Hồ Chí Minh trong “Chính phủ Liên Hiệp…” Để rồi sau đó, Cụ Huỳnh Thúc Kháng đă bị giết chết, và nhiều người nữa phải chạy thoát thân, để khỏi chết dưới bàn tay sắt máu của đảng Cộng sản Việt Nam!

 

Nhưng có lẽ những người đă “quay đầu” về nước, họ đă quên đi bài học xương máu ấy. Người đời thường nói: “Chưa thấy qua tài, chưa đổ lệ”. Song, Cụ Nguyễn Du đă viết: “Lo chi chuyện ấy mà lo; Kiến trong miệng chén có ḅ đi đâu”. “Ḅ” làm sao được, nếu có một ngày, cũng sẽ bị Việt cộng chụp cho cái “tội” nào đó, th́ có “ăn năn” th́ đă quá muộn rồi. Xin hăy nhớ cho rằng:

 

Cộng sản, muôn đời vẫn là Cộng sản. Con rắn độc dù có bao nhiêu lần lột da, bỏ vỏ, nhưng cái nọc độc Cộng sản không bao giờ thay đổi!

 

 

30/04/2021

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính