Hoàng Sa -Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Ḥa
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
Ngày 14 tháng 9 năm 1958, “thủ tướng” Phạm Văn Đồng đă bất chấp cả luật pháp quốc tế, khi ngang nhiên nhân danh:
“Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, kính gửi đồng chí Chu Ân Lai Tổng lư nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa” để kư-gửi một bản văn mà xem như là dâng hiến cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của nước Việt Nam Cộng Ḥa cho Trung cộng. Một bản văn hoàn toàn bất hợp pháp; bởi v́ theo nguyên lư thông thường, th́ không một ai có quyền dâng, bán bất kể là một vật ǵ, dù nhỏ nhất của người khác, không thuộc quyền sở hữu của ḿnh, và một người biết tôn trọng luật pháp, tôn trọng lẽ phải, th́ không bao giờ chịu đi mua hay nhận bất cứ một vật ǵ mà do một người không có quyền sở hữu đem dâng, bán cho ḿnh.
Nhưng đây là chuyện đại sự giữa ba nước: Nước Việt Nam Cộng Ḥa, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa. Bản văn của Phạm Văn Đồng, là “Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa” lại dám ngang nhiên kư một cái “công hàm” để đem dâng-bán một phần biển, đảo của nước Việt Nam Cộng Ḥa cho Trung cộng, th́ không phải riêng người bán, mà kể cả kẻ mua cũng đều vi phạm luật pháp quốc tế.
Năm 1958, Hoàng Sa-Trường Sa thuộc chủ quyền của chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa. V́ thế, Phạm Văn Đồng “thủ tướng nước Việt Nam dân Chủ Cộng Ḥa”, không có một chút quyền, không có một tư cách ǵ để kư-gửi một văn bản như thế cho được.
Sắc lệnh số 174-NV ngày 13/7/1961 của
Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Ngô Đ́nh Diệm
Bia chủ quyền Việt Nam dựng trên đảo Trường Sa, quần đảo Trường Sa
(1961)
Rồi đến năm 1974, khi Trung cộng xâm lăng, đánh chiếm Hoàng Sa, th́ Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa cũng đă anh dũng chiến đấu, và đă phải hy sinh cả máu xương để bảo vệ Hoàng Sa. Nhưng nên nhớ, là vào thời điểm ấy, Trung cộng không dám đem cái bản văn của Phạm Văn Đồng ra để “nói chuyện”; v́ Trung cộng đă tự biết, đối với chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa, th́ đó chỉ là mảnh giấy lộn, không hề có một chút giá trị về pháp lư trước quốc tế.
Nhưng sau ngày 30 tháng tư năm 1975, khi đảng cộng sản Hà Nội đă bất chấp những hiệp ước, như Hiệp định Paris, 1973, về Việt Nam, nên đă dùng vũ lực xua quân xâm lăng và cưỡng chiếm nước Việt Nam Cộng Ḥa, một quốc gia có Tổng thống, có Hiến Pháp, có Lưỡng Viện Quốc Hội, có đầy đủ tất cả, và đă được quốc tế công nhận. Để rồi sau đó, đă noi theo cái câu “kinh” của Trang Tử là “Thiết quốc giả Hầu”; nên kể từ ngày ấy, đảng cộng sản - nhà cầm quyền Hà Nội đă xin làm chư hầu cho Trung cộng, bằng chứng đă hiển nhiên, là hiện nay nhà cầm quyền Hà Nội đă đi vào giai đoạn Hán hóa cả dân tộc Việt bằng một cách hữu hiệu nhất, là đưa tiếng Tầu vào chương tŕnh “giáo dục” ngay từ bậc tiểu học!
Một trong vô số những sai lầm của đảng Cộng sản Hà Nội, là tưởng rằng, cứ đưa tên tuổi của Hải quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà và các chiến sĩ đă hy sinh trong trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974, th́ tất cả Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa sẽ chịu cùng làm tay sai cho Hà Nôi. Điều này, không thể hoàn toàn phủ nhận, v́ đă có một thiểu số, đă và đang đi vào quỹ đạo của Hà Nội; nhưng đại đa số Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa, chỉ chấp nhận đem máu xương của ḿnh để bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ, lănh hải của đất nước Việt Nam, và sẵn sàng hy sinh tất cả cho chính Nghĩa Quốc Gia Việt Nam Cộng Ḥa mà thôi.
Mặt khác, bởi v́ chỉ có chính quyền của nước Việt Nam Cộng Ḥa mới có đủ tư cách pháp lư trước quốc tế, (mà ngayTrung cộng cũng không thể phủ nhận được), để giành lại chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa; nhưng chẳng riêng ai, mà chính đảng Cộng sản và nhà cầm quyền Hà Nội cũng biết chắc, biết rất rơ những điều này, biết phải làm ǵ để giành lại biển, đảo, để giành lại quyền tự quyết cho dân tộc, nhưng v́ đặt quyền lợi riêng của cá nhân, của phe đảng, của gia đ́nh lên trên cả quyền lợi của Tổ Quốc và Dân Tộc, và cũng v́ nhớ lại những đ̣n phép của họ đối với người dân cả nước nói chung, và nói riêng đối với Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa sau ngày 30/4/1975; nên họ rất sợ sự trả thù của người dân.
Nhưng đảng Cộng sản-nhà cầm quyền Hà Nội đă không nhớ rằng: trước ngày 30/4/1975, tất cả những tù binh, tù nhân Cộng sản tại miền Nam, đều được chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa đối xử trong t́nh người, rất tử tế. Tất cả đều được ăn no, mặc ấm, khi được trả tự do, họ đều khỏe mạnh hơn trước khi bị bắt rất nhiều, bởi vậy, mới có nhiều tù binh, tù nhân khi được trao trả về miền Bắc, th́ họ đă biểu t́nh xin được ở lại miền Nam theo chính sách Chiêu Hồi.
Nói tóm lại, chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa là một chính quyền đầy t́nh nhân ái, và vị tha theo đạo lư Việt. Đạo lư ấy, không bao giờ cho phép những con người có lương tri có những cách hành xử vô nhân đạo giữa những con người với nhau.
Tuy nhiên, v́ chắc chắn đảng cộng sản Việt Nam sẽ không bao giờ đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Dân Tộc lên hàng tối thượng. Chính v́ thế, nên chúng ta, tất cả người Việt Nam yêu nước chân chính, cần phải đồng tâm, quyết liệt bằng mọi cách, để đ̣i lại nước Việt Nam Cộng Ḥa, hầu giành lại Hoàng Sa-Trường Sa và sự toàn vẹn lănh thổ, lănh hải của đất nước Việt Nam. Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n đấy!
Đồng bào Thủ đô Sài G̣n đang chờ đón các chiến sĩ tham dự trận hải chiến Hoàng Sa trở về.
Đồng bào Thủ đô Sài G̣n đang biểu t́nh “nêu cao tinh thần chống cộng”, đả đảo-lên án bá quyền Trung cộng.
Trở lại với Hoàng sa-Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Ḥa. Quả đúng, sự thật hiển nhiên là như thế. Chỉ có nước Việt Nam Cộng Ḥa mới có đủ tư cách pháp lư quốc tế, để đ̣i, để giành lại Hoàng Sa-Trường Sa cũng như sự toàn vẹn lănh thổ, lănh hải của đất nước Việt Nam, là những núi xương, sông máu, là những ḍng nước mắt do tiền nhân của chúng ta đă dày công dựng xây và giao phó cho chúng ta và hậu thế, đời đời phải noi gương và ǵn giữ.
Và cũng chính v́ những lẽ đó, nên cho dù với những tấm ḷng thiết tha với tiền đồ của dân tộc. Thế nhưng, qua những lần tranh đấu, những cuộc biểu t́nh của đồng bào ở trong cũng như ngoài nước, th́ tất cả thường chỉ nêu những câu khẩu hiệu: “Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt Nam”. Nhưng trớ trêu thay! v́ Việt Nam Cộng Sản, là hậu thân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa” theo như văn bản chính thức và công khai của “thủ tướng” Phạm Văn Đồng đă gửi cho “đồng chí Chu Ân Lai của nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa” vào ngày 14 tháng 9 năm 1958. Chính v́ thế, cho nên Việt Nam Cộng sản, tức “Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” không có đủ tư cách pháp lư trước quốc tế, để đ̣i, để giành lại Hoàng Sa-Trường Sa.
Một lần nữa, người viết bài này, chỉ muốn lập lại rằng, muốn giành lại Hoàng Sa-Trường Sa, th́ xin mọi người, đồng bào tại quốc nội cũng như ở hải ngoại, trong những cuộc biểu t́nh, trong những buổi sinh hoạt đấu tranh, hoặc cộng đồng, th́ xin hăy nêu cao những câu khẩu hiệu:
Hoàng Sa-Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Ḥa - Hoàng Sa-Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Ḥa!
Pháp quốc, 27/3/2012
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
-----------------------------------------------------------------------------
Nguồn BBC Việt ngữ
TQ lại nhắc Công hàm Phạm Văn Đồng
Cập nhật: 12:04 GMT - thứ ba, 20 tháng 5, 2014
Một nhà ngoại giao và một học giả Trung Quốc nói Công hàm 1958 là bằng chứng Việt Nam công nhận Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc.
Công hàm 1958 gây tranh căi của Thủ tướng Phạm Văn Đồng lại được Trung Quốc đề cập trong bối cảnh Việt Nam và Trung Quốc đối đầu v́ vụ giàn khoan HD-981.
Căng thẳng Việt – Trung đă gia tăng, với việc nổ ra các cuộc bạo động ở Việt Nam, sau khi Việt Nam lên án Trung Quốc hạ đặt giàn khoan tại khu vực biển Hoàng Sa.
Hôm 20/5, đại biện lâm thời Sứ quán Trung Quốc ở Indonesia có bài đăng trên báo Indonesia Jakarta Post để biện hộ cho Trung Quốc.
Ông Lưu Hồng Dương nói quần đảo Tây Sa (tên Trung Quốc dùng để chỉ Hoàng Sa) là “lănh thổ vốn vẫn thuộc về Trung Quốc”.
“Vị trí của các đảo đă được cộng đồng quốc tế, kể cả Việt Nam, công khai thừa nhận trong nhiều thập niên từ Thế chiến Hai.
“Trong tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lănh thổ Trung Quốc.”
Ông Lưu Hồng Dương cáo buộc “việc chính phủ Việt Nam gần đây thay đổi và từ chối công nhận Tây Sa là của Trung Quốc thật vô cùng gây sốc”.
“Việt Nam rơ ràng vi phạm nguyên tắc ‘estoppel’ [không được nói ngược],” ông Lưu cáo buộc.
Bày tỏ lập trường chính thức của Trung Quốc, ông Lưu nói tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc chỉ tồn tại ở quanh quần đảo Trường Sa.
Ông Lưu cáo buộc Việt Nam có “tiêu chuẩn kép” khi đă “đánh dấu 57 lô dầu khí ở trong vùng biển tranh chấp”.
Nói về cuộc đối đầu quanh giàn khoan HD-981, ông Lưu nói Việt Nam “phải bỏ mọi ảo tưởng và tiến hành hai biện pháp quyết định”.
“Một, ngay lập tức dừng mọi hoạt động nguy hiểm chống lại giàn khoan Trung Quốc và rút toàn bộ tàu khỏi vùng biển thuộc Trung Quốc.
“Hai, thực thi lời hứa dừng mọi bạo lực trong nước để bảo vệ công dân và tài sản công ty Trung Quốc ở Việt Nam.”
Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa lên tiếng về bài báo của ông Lưu Hồng Dương.
Trong một diễn biến liên quan, Tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, Giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, có bài trả lời phỏng vấn hăng tin Đức Deutsche Welle (DW), được đăng trên mạng hôm 20/5.
Ông này cũng nhắc lại về Công hàm Phạm Văn Đồng.
“Năm 1958, Thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đă công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai.
“Hà Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm 1975,” tiến sĩ Ngô nói.
“Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền.”
Công hàm Phạm Văn Đồng vẫn gây tranh căi sau 50 năm
Công hàm tranh căi
Công hàm ngoại giao do Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, ông Phạm Văn Đồng kư năm 1958 để phúc đáp tuyên bố của CHND Trung Hoa hôm 04/9 năm 1958 về hải phận 12 hải lư của nước này.
Viết trên BBC, Tiến sĩ Trần Công Trục, cựu Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, cho rằng công hàm “không liên quan ǵ đến 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, càng không có nghĩa là Việt Nam thừa nhận 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc”.
“Bởi thời điểm này 2 quần đảo đang do chính thể Việt Nam Cộng ḥa, đại diện cho nhà nước Việt Nam quản lư, thực thi chủ quyền,” ông Trục giải thích.
Tuy vậy, tranh luận trên BBC, ông Lý Thái Hùng, một lãnh đạo của đảng Việt Tân ở Hoa Kỳ, lại nói công hàm “vẫn đă thừa nhận chủ quyền Trung Quốc trên Biển Đông bao gồm luôn quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, và cho Trung Quốc lư cớ để cột công hàm này vào nền tảng biện minh cho chủ trương xâm lược của họ hiện nay”.
Nói như một nhà nghiên cứu khác, Dương Danh Huy, công hàm có gây ra nghĩa vụ ràng buộc cho Việt Nam liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa hay không là một vấn đề “c̣n tranh căi”.