Người vợ của nhà thơ Thế Lữ

 

Đoàn Dự ghi chép

 

 

Thưa Quư Bạn, cứ kể những chuyện vợ chồng chán ghét nhau, ly dị nhau hoặc ghen tuông, đánh đập nhau riết cũng chán và hiện nay là vấn đề đại dịch Vũ Hán, chắc chắn báo chí các nước bên ấy đăng ầm ầm, quư bạn đă biết cả rồi. Vậy nay tôi xin “đổi món ăn chơi”, kể hầu quư bạn một câu chuyện hơi lạ về người vợ của nhà thơ Thế Lữ. Bà này “lạ” ở chỗ chồng bồ bịch, có vợ nhỏ ngay trước mắt mà bà vẫn cố gắng chịu đựng, không ghen tuông một tí nào cả chỉ với một niềm tin duy nhất rằng chồng là người Công giáo, theo giáo lư Công giáo đàn ông chỉ có một vợ, đàn bà chỉ có một chồng, do đó cuối cùng rồi chồng sẽ trở lại với ḿnh. V́ vậy bà vẫn yên tâm buôn bán kiếm ăn, chăm sóc bà mẹ chồng khó tính coi như mẹ ruột của ḿnh, và nuôi dạy con cái, 2 người con trai ăn học tới Tiến sĩ ở bên Mỹ, c̣n người con gái th́ trở thành một nhà doanh nghiệp. Đặc biệt, từ cuối năm 1977, “chàng lăng tử” Thế Lữ nay đă 70 tuổi, vào trong Nam sống với vợ con suốt 12 năm tại tiệm vải ở đường Nguyễn Đ́nh Chiểu (Phan Đ́nh Phùng cũ, quận 3, gần toà đại sứ Miên hiện nay là văn pḥng UBND Quận 3) cho tới khi ông qua đời cũng tại Sài G̣n mà h́nh như đa số chúng ta không biết. Đây là câu chuyện về người đàn bà đó nhưng xin mời quư bạn xem xét về nhà thơ Thế Lữ, chồng của bà trước đă.

 

I. Tiểu sử Thế Lữ

 

 

Nhà thơ Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội, mất năm 1989 tại Sài G̣n, hưởng thọ 82 tuổi. Sau 1975, ông từ Hà Nội vào Sài G̣n (cuối năm 1977) sống với vợ con gần 12 năm ở đường Phan Đ́nh Phùng (cũ), quận 3, Sài G̣n, cho đến khi mất . Quê quán của cha ông ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là làng Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội), quê mẹ ở Nam Định, nhưng sinh ra ông tại ấp Thái Hà, HàNội. Ấp Thái Hà nằm trên phần đất của 4 làng: Thịnh Quang, Nam Đồng, Khương Thượng và Yên Lăng (làng Láng), nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Gọi là “Ấp” v́ đây là phần thưởng của Pháp dành cho Hoàng Cao Khải (Kinh lược sứ Bắc Kỳ, kẻ đă đàn áp phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi) như một “thực ấp” của các “đại thần” có công lao lớn thời trước. Mặc dầu Hoàng Cao Khải đă có dinh cơ tại phố Tràng Thi, Hà Nội, nhưng vẫn muốn lập cơ ngơi tại đây để sống khi về già. Ấp được Hoàng Cao Khải lập năm 1893, mang tên “Thái Hà” gồm tên làng Đông Thái và tên tỉnh Hà Tĩnh là quê quán của Hoàng Cao Khải.. Những người sống ở ấp Thái Hà hàng năm đóng thuế thổ trạch cho Hoàng Cao Khải chứ không phải cho Sở Điền Địa của Pháp.

 

Thế Lữ hồi c̣n nhỏ có một người anh lớn hơn cậu 1 tuổi (và một em gái), v́ vậy cậu được cha đặt tên là Nguyễn Thứ Lễ với ngụ ư đó là con thứ. Đến năm Thế Lữ 10 tuổi, chẳng may cậu anh trai (11 tuổi) bị bệnh mất, cha bèn làm giấy khai sinh khác, đặt tên mới cho Thế Lữ là Nguyễn Đ́nh Lễ v́ họ Nguyễn Đ́nh là một họ lớn ở làng Phù Đổng, không nên để người con trai duy nhất c̣n lại trong gia đ́nh là “con thứ”. Do đó, Thế Lữ có 2 giấy khai sinh: Nguyễn Thứ Lễ và Nguyễn Đ́nh Lễ. (Thời Pháp thuộc, khai sinh tại làng rất dễ, chỉ cần nói với “ông kư” giữ sổ sách làng vài tiếng là được, hơn nữa cha của Thế Lữ lại là sếp ga xe lửa tuyến đường sắt Lạng Sơn – Hà Nội, gia đ́nh khá giả, thỉnh thoảng ghé về quê chơi, ai cũng vị nể. Như vậy, tài liệu nào nói Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ hay Nguyễn Đ́nh Lễ đều đúng. Sau này, tất cả các con của Thế Lữ đều mang họ Nguyễn Đ́nh, như nhà đạo diễn sân khấu danh tiếng Nguyễn Đ́nh Nghi tại Hà Nội chẳng hạn.

 

Tuy nhiên, xem ra Thế Lữ thích cái tên Nguyễn Thứ Lễ hơn tên Nguyễn Đ́nh Lễ. Bởi vậy khi viết văn, làm thơ, hoạt động kịch nghệ, ông đều lấy bút hiệu là “Thế Lữ”, tức nói lái từ hai tiếng “Thứ Lễ”. Ngoài ra, khi viết văn vui trên báo Phong Hoá và sau đó là báo Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn, do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chủ trương mà ông là một trong 6 thành viên cốt cán, Thế Lữ c̣n kư tên là “Lê Ta” với ư nghĩa: Chữ “ta”trong tiếng Việt, theo Hán tự là “ngă”; mà “ngă” theo tiếng Việt lại c̣n có nghĩa là dấu ngă. Bút danh “Lê Ta” tức chữ “Lê” có dấu ngă”, đó là chữ “Lễ”, tên thật của ông. Trên báo Ngày Nay số Xuân năm 1937, Thế Lữ đùa nghịch đưa ra câu nói vui: “Thế Lữ mừng xuân hai thứ lễ: một quả lê tây, một lê ta”, độc giả ai cũng tức cười và phục tài biến báo của ông.

 

Như trên đă nói, cha của Thế Lữ là sếp ga xe lửa, trong thời Pháp thuộc rất có vai vế và có “ngoại tài” (tiền bạc ngoài lương bổng) nên gia đ́nh rất khá giả. Tuy nhiên, mẹ của Thế Lữ buôn bán nhỏ, không giàu có ǵ nên gia đ́nh bên nội không bằng ḷng, song bà nội phải chiều ư con trai, tổ chức cho hai người một đám cưới nho nhỏ tại Hải Pḥng, nơi cô dâu buôn bán ở đây. Tuy nhiên, ít lâu sau, bà nội lại cưới cho cha của Thế Lữ một cô gái con nhà giàu ở Lạng Sơn và cho cô này làm vợ cả, c̣n mẹ của Thế Lữ th́ làm vợ lẽ. Kệ, muốn sao cũng được, chuyện này rất thường xảy ra đối với các gia đ́nh giàu có ở ngoài Bắc thời xưa khi người được cưới trước không phải làcon nhà khá giả. Hơn nữa mẹ của Thế Lữ buôn bán ở Hải Pḥng nuôi hai con trai (lúc này bà chưa sinh cô con gái út) , ít c̣n th́ giờ về Lạng Sơn thăm gia đ́nh nhà chồng nên không quá để ư đến chuyện ḿnh là người được cưới hỏi trước mà phải làm vợ lẽ.

 

Khi Thế Lữ được 3 tháng tuổi, bà nội lại ra một lệnh khá đặc biệt: “Đứa cháu lớn (anh của thế Lữ) hay ốm đau th́ cho ở Hải Pḥng với mẹ cũng được; c̣n đứa nhỏ (tứcThế Lữ) mạnh khoẻ, bụ bẫm th́ phải đem nó về Lạng Sơn sống với bà nội, cha và “mợ cả” (vợ mới của cha)”.

 

Phải rời xa mẹ ruột từ lúc c̣n bế ẵm, lớn lên, mỗi năm chỉ được gặp mẹ một đôi lần, Thế Lữ cho biết cậu rất nhớ mẹ. Măi đến năm cậu bé 10 tuổi, bà nội mất, rồi cậu anh ruột (11 tuổi) cũng mất, Thế Lữ mới được đưa về Hải Pḥng sông với mẹ ruột tại cửa hàng vải. Tuy nhiên, Thế Lữ cũng nói rằng chính do sống ở xứ Lạng từ nhỏ cho tới năm 10 tuổi, cảnh vật thiên nhiên cũng như các câu chuyện “đường rừng”, ma quái, kinh dị, có thể là những chuyện tưởng tượng của đồng bào thiểu số mà cậu được nghe kể lại đă ăn sâu vào tâm trí cậu, khiến cậu có nguồn tư liệu dồi dào khi viết những cuốn truyện”đường rừng” rất được độc giả ửng hộ. Năm ấy Thế Lữ 23 tuổi và đă là một nhà văn, nhà thơ cốt cán trong Tự Lực Văn Đoàn.

 

Cuộc đời

 

Thế Lữ học chữ Nho do bà nội bắt phải học khi lên 8 tuổi ở Lạng Sơn; học chữ quốc ngữ lúc hơn 10 tuổi sau khi được trở về Hải Pḥng ở với mẹ ruột. Tại Hải Pḥng, cậu học tư với cha của Vũ Đ́nh Quư – đứa bạn thân đầu tiên của cậu tại đất Cảng. Ít lâu sau, mẹ xin cho cậu vào lớp Đồng ấu của trường Pháp Việt (École communale Française et Vietnammiene ) mới mở ở Ngơ Nghè. Năm 1923, 16 tuổi, cậu thi đậu bằng Sơ Học Yếu Lược (Certificat d’études en Langue Française, thường gọi là bằng “Xéc”, tương đương với bằng Tiểu học sau này) dành cho các học sinh từ 12 tới 16 tuổi. Đậu xong bằng “Xéc”, cậu ốm một trận rất nặng tưởng chết, phải nghỉ học mất một năm. Năm sau, khỏi bệnh,17 tuổi, cậu được mẹ hỏi cưới cô Nguyễn Thị Khương, gốc ở Nam Định, cũng buôn bán hàng vải tại Hải Pḥng, lớn hơn cậu 2 tuổi. Mẹ thấy cô Khương xinh xắn, nhanh nhẹn, cũng buôn bán vải, nhất là cũng theo Thiên chúa giáo như gia đ́nh ḿnh nên hỏi cưới cho con trai vậy thôi chứ sự thực giữa Thế Lữ với cô Khương không quen biết ǵ cả. Điều này không quan trọng trong thời đại của Thế Lữ. Nhiều cô dâu chú rể măi đên lúc cưới mới biết mặt nhau, nhưng sau khi thành vợ thành chồng, họ rất yêu thương nhau, chung thuỷ với nhau trọn đời.

 

Năm 1925, Thế Lữ 18 tuổi, học Cao đẳng Tiểu học (tức Trung học ngày nay), gọi là bậc Thành Chung, 4 năm, sau đó sẽ thi lấy bằng Thành Chung thường gọi là bằng Diplôme. Nếu đậu, đă có thể xin đi làm, nhưng chỉ học được 3 năm th́ Thế Lữ bỏ. Năm sau, cậu lên Hà Nội, với chứng chỉ đă học hết năm thứ ba ban Thành chung, cậu thi đậu vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nhưng cũng chỉ học được một năm rồi lại bỏ do bất măn với một giáo sư Pháp và ban giám đốc nhà trường. Trong thời gian ở trường Cao đẳng Mỹ thuật, Thế Lữ chơi thân với các bạn như Nguyễn Đỗ Cung, Trần B́nh Lộc; ngoài ra ông cũng chơi thân với các nhà văn, nhà thơ như Vũ Đ́nh Liên, Ngô Bích San, Hoàng Lập Ngôn…, và cùng nhau lập một Hội quán Văn học (Salon littéraire), chuyên thảo luận về văn chương.

 

Làm nghề viết văn

Thời gian này, Thế Lữ bắt đầu viết văn với những truyện ghi lại từ những ǵ ḿnh đă được nghe kể khi ở Lạng Sơn. Được nhà thơ Vũ Đ́nh Liên (tác giả bài thơ Ông Đồ) khuyến khích, Thế Lữ gửi các tác phẩm đầu tay của ḿnh cho Nhà xuất bản Tân Dân,nhưng ngoài bút hiệu Thế Lữ ông c̣n kư thêm bút hiệu tưởng tượng là “Đào Thị Tố” để thu hút sự chú ư của nhà xuất bản. Hai cuốn “Một truyện báo thù ghê gớm” và “Tiếng hú hồn của mụ Ké” rất được ông Vũ Đ́nh Long chủ nhà xuất bản Tân Dân khen ngợi và cho in ra. Điều này càng khích lệ Thế Lữ từ bỏ con đường hội họa để bước hẳn sang địa hạt văn chương. Bút danh “Thế Lữ” của ông ngoài chuyện nói lái từ hai tiếng “Thứ Lễ” th́ theo ông, c̣n có nghĩa là “người lữ khách lang thang trong trần thế”, rất phù hợp với quan niệm sống của ông.

 

Hoạt động văn học và Tự Lực văn đoàn

 

Sống tại Hà Nội, Thế Lữ làm người sửa bản in (correcteur, thường gọi là “thầy c̣”) cho báo Volonté Indochinoise (tức báo “Ư Nguyện Của Đông Dương”) và thường đi làm qua Vườn bách thú Hà Nội, do đó ông làm bài thơ “Nhớ Rừng” nổi tiếng, nói lên tâm sự của ḿnh:

 

Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,

Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua.

Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,

Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm…

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hăm

Để làm tṛ lạ mắt, thứ đồ chơi.

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự….” ..vv..

 

Sau khi nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam mua lại tờ Phong hóa của Vũ Đ́nh Long chủ nhà xuất bản Tân Dân và ra bộ mới vào tháng 9 năm 1932, Thế Lữ có gửi bài. Bài thơ đầu tiên của Thế Lữ đăng trên bao Phong hóa bộ mới là “Con người vơ vẩn”, số Tết năm 1933. Sau đó, khi đến ṭa soạn báo Phong hóa lần đầu tiên để lănh nhuận bút, ông đọc những bài thơ ḿnh đă sáng tác cho mọi người nghe và được nhà văn Khái Hưng khen ngợi là “Lamartine của Việt Nam”. Bên cạnh đó, nhà văn Nhất Linh cũng đặc biệt chú ư đến những truyện dài “Một đêm trăng”, “Vàng và máu” và cho rằng Thế Lữ là một cây bút mới có nhiều triển vọng, “Phải mời bằng được vào cộng tác với báo Phong Hoá, chắc chắn điều đó cũngkhông khó”. Chẳng bao lâu sau, Thế Lữ được mời làm việc cho báo Phong hóa, đồng thời Nhất Linh cũng có bài viết đề cao Thế Lữ cũng như thơ văn của ông. Đoạn trên đây cho chúng ta thấy Nhất Linh và Khái Hưng là những người tôn trọng tài năng như thế nào.

 

Tháng 3 năm 1934, Tự Lực Văn Đoàn chính thức ra đời với 6 thành viên: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ. Tự Lực Văn Đoàn chủ trương lên án tư tưởng phong kiến, đả kích các thói hư tật xấu và các tệ nạn xă hội bằng cách châm biếm, hài hước, đồng thời đổi mới quan niệm sáng tác, xây dựng một nền văn chương và ngôn ngữ mới hoàn toàn Việt Nam. Thế Lữ rất tán đồng quan điểm này. Trong suốt 10 năm hoạt động văn học, ông gắn bó chặt chẽ với Tự Lực Văn Đoàn và nói: “Anh em đối xử với nhau như bát nước đầy. Nếu không có Tự Lực Văn Đoàn th́ đă không có Thế Lữ”.

 

Tháng 9 năm 1936, báo Phong hóa bị đóng cửa do động chạm tới Kinh lược xứ Bắc kỳ Hoàng Cao Khải và Tổng đốc Hà Nội Lê Hoan. Nhất Linh bèn ra tờ Ngày Nay, tôn chỉ cũng giống như tờ Phong hoá.. Thế Lữ với bút hiệu Lê Ta giữ các tiết mục: “Điểm báo”, “Điểm sách”, “Tin thơ”, “Tin văn vắn”, “Tin tức…ḿnh” … Ngoài ra, ông cũng viết các bài b́nh luận kư tên Thế Lữ, phân tích về các vấn đề văn học nghệ thuật và làm giám khảo cho tất cả 3 cuộc thi của Tự Lực Văn Đoàn trong các năm 1935, 1937, 1939,góp phần khẳng định tài năng của các tác giả trúng giải. Ông là một “kiện tướng” hết sức xông xáo của Tự Lực Văn Đoàn.

 

Tài năng đa dạng: Thơ, Nhạc, và Kịch

 

Ngoài sự nghiệp văn chương, nhà thơ Thế Lữ c̣n là một nhân vật lừng lẫy danh tiếng trong đời sống kịch nghệ. Không chỉ góp phần h́nh thành Thơ mới, ông c̣n đặt nền móng cho nền sân khấu Việt Nam hiện đại. (Thời trước, kịch là kịch thơ, kể từ Thế Lữ trở đi mới có thoại kịch, tức bây giờ gọi là kịch nói, như các ban kịch nói Kim Cương, Thẩm Thuư Hằng, Vũ Đức Duy..vv.. thời VNCH chẳng hạn),và ông cũng là tác giả phần lời tiếng Việt của ca khúc “Xuân và tuổi trẻ” được hát suốt từ đó đến nay.

 

Năm 1935, tập “Mấy vần thơ” của ông xuất bản, góp phần cổ vơ mạnh mẽ cho phong trào Thơ mới. Trong bài thơ “Cây đàn muôn điệu”, ông tâm sự:

 

Tôi chỉ là một khách t́nh si

Ham vẻ đẹp có muôn màu muôn vẻ

Mượn cây bút nàng Ly Tao, tôi vẽ

Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca”…

 

Trong bài thơ “Giây phút chạnh ḷng” cảm đề truyện Đoạn Tuyệt của Nhất Linh,ông viết thay lời nhân vật Loan nói với người ḿnh yêu tên Dũng nhưng hai người không lấy được nhau v́ nhà Loan quá nghèo mà gia d́nh Dũng quá giàu, bà Phán mẹ Dũng lại quá khắc nghiệt, khinh bỉ người nghèo. Khi Dũng bỏ nhà ra đi hiến ḿnh cho lư tưởng, Loan nói cứng nhưng trong ḷng khắc khoải khôn nguôi:

 

Anh đi đường anh, tôi đường tôi

T́nh nghĩa đôi ta có thế thôi

Đă quyết không mong sum họp măi

Bận ḷng chi nữa lúc chia phôi

Non nước đang chờ gót lăng du

Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu

Ḷng tôi phơi phới quên thương tiếc

Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ”…

 

Về nhạc, năm 1944, khi cùng đoàn kịch Tinh Hoa của ḿnh đi lưu diễn tại Hội An tỉnh Quảng Nam mà ông vừa là chủ gánh, vừa là người viết kịch bản, vừa là đạo diễn kiêmdiễn viên ṇng cốt trong đoàn, Thế Lữ t́nh cờ được nghe một bản nhạc có âm điệu rất hay của nhạc sĩ La Hối (1920- 1945, người Việt gốc Hoa) với phần lời bằng tiếng Hoa của tác giả Diệp Truyền Hoa. Lập tức ông t́m gặp nhạc sĩ La Hối (lúc ấy mới 24 tuổi), đề nghị chính ḿnh sẽ viết thêm một bản lời Việt. Nhạc sĩ La Hối đă biết tiếng Thế Lữ nên rất lấy làm hân hạnh, và sau đó, chỉ một đêm, bản “Xuân Và Tuổi Trẻ” tiếng Việt ra đời:

 

Ngày thắm tươi bên đời xuân mới

Ḷng đắm say bao nguồn vui sống

Xuân về với ngàn hoa tươi sáng

Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng.”

 

Năm sau (1945), người nhạc sĩ trẻ tuổi gốc Hoa, do ḷng yêu nước, cùng các bạn thân ở Hội An tổ chức một hội đoàn chống Nhật, dần dần lan rộng khắp Quảng Nam nên bị hiến binh Nhật vây bắt, xử bắn cùng 9 người bạn, nay 10 nấm mộ vẫnc̣n ở Hội An nhưng bản nhạc “Xuân Và Tuổi Trẻ” do Thế Lữ đặt tên và viết lời Việt vẫn được mọi người hát cho đến bây giờ, nhất là trong các dịp xuân về. Thế Lữ chơi đàn guitare, thổi sáo và hát rất hay. Ông đă từng tổ chức một đêm ca nhạc kịch tại Nhà Hát Lớn Hà Hội, gồm toàn các nhà văn, nhà thơ và các cộng tác viên của Tự Lực Văn Đoàn biểu diễn, do chính ông đạo diễn và xếp đặt chương tŕnh. Đêm ca nhạc kịch thành công mỹ măn, đối với độc giả của báo Ngày Naycàng thêm thân thiết.

 

II. Người vợ đáng nể của Thế Lữ

 

Như phần trên đă nói, người vợ đầu tiên của nhà thơ Thế Lữ là cô gái ở Nam Địnhnhưng buôn bán hàng vải ở Hải Pḥng, tên là Nguyễn Thị Khương, lớn hơn Thế Lữ 2 tuổi, do mẹ cưới cho chứ chưa từng quen biết Thế Lữ. Bà Khương sinh cho Thế Lữ cả thảy 4 người con, 3 trai 1 gái. Bà chấp nhận ở Hải Pḥng buôn bán, thay chồng chăm sóc mẹ già và nuôi dạy các con để Thế Lữ được thỏa sức b́nh sinh phô diễn tài nghệ ở Hà Nội. Tuy “chỉ là một khách t́nh si” nhưng Thế Lữ cũng nhận thức được những vất vả mà vợ ḿnh phải chịu đựng khi sống với bà mẹ chồng quá khó tính. Ông giải thích cho vợ hiểu rằng do mẹ đă gặp nhiều khó khăn khi làm dâu bà nội ở Lạng Sơn với những uất ức không nói ra được, nên bây giờ bà cũng khó lại với con dâu như cái “nợ đồng lần” vậy thôi.

 

Để cải thiện mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu, Thế Lữ viết một truyện ngắn, mổ xẻ những vướng mắc trong cái “nợ đồng lần” đó và kư tên khác hoàn toàn xa lạ, coi như của độc giả rồi đọc cho mẹ nghe. Không ngờ chỉ mới nghe qua một đoạn, bà mẹ đă cầm cái ống nhổ đựng quết trầu dằn mạnh xuống mặt bàn: “À, thế ra anh muốn dạy tôi đấy phải không? Ai nuôi anh ăn học từ năm 10 tuổi? Ai chăm sóc anh suốt một năm trời bệnh nặng tưởng chết, để rồi bây giờ anh dạy lại tôi! …”. Thế Lữ sợ mẹ giận, chống chế rằng đấy là truyện do độc giả viết. “Muốn do ai viết cũng là nói tôi. Anh đọc cho tôi nghe tức là muốn khuyên tôi đừng khó khăn với vợ anh nữa chứ ǵ! Tôi thừa hiểu cái thâm ư của anh…”. Thế Lữ bèn xin lỗi mẹ rồi hôm sau trở về Hà Nội, bao nhiêu tai ương vợ lại tiếp tục gánh chịu.

 

Thế Lữ có người yêu

 

Những ngày mê mải với việc dựng kịch, Thế Lữ đă gặp một người con gái Hà Nội đam mê sân khấu tên là Phạm Thị Nghĩa. Cô sinh năm 1913, kém Thế Lữ 6 tuổi, con gái quan tuần phủ Phạm Đ́nh Mẫn ở Hà Đông, cô ruột của các ca sĩ Thái Thanh, Thái Hằng và nhạc sĩ Phạm Đ́nh Chương. Phạm Thị Nghĩa học trường Pháp, năm 20 tuổi là giáo viên trường tư thục Victor Hugo nhưng lại mê hát chèo và diễn kịch. Gia đ́nh không chấp nhận”xướng ca vô loài”, nên “cô giáo” Phạm Thị Nghĩa chỉ tập kịch và tập hát cheo do bạn bè dạy. Cô rất có năng khiếu về hai bộ môn này và rất hâm mộ tài năng của Thế Lữ, nên thường đi xem các vở thoại kịch rất gần với kiểu thoại kịch của Pháp, do Thế Lữ đóng hoặc dàn dựng, rồi tự ư làm quen với Thế Lữ.

 

Nhận ra Phạm Thị Nghĩa tuy là giáo viên trường Pháp, chuyên nói tiếng Pháp nhưng lại có tài diễn xuất và hát chèo tiếng Việt, v́ vậy khi đưa vở kịch “Gái không chồng” của Đoàn Phú Tứ lên sân khấu tại Hải Pḥng, thiếu vai chính phù hợp, Thế Lữ bí mật cho người về Hà Nội mời Phạm Thị Nghĩa vào vai cô Măo. Dù diễn ở Hải Pḥng nhưng cô Nghĩa cũng sợ gia đ́nh phát hiện nên lấy biệt danh là “Song Kim”, coi như cả ḿnh lẫn Thế Lữ đều là… hai cục vàng rất có giá trị. Vở kịch thành công mỹ măn, tŕnh diễn nhiều đêm liền, Song Kim bỏ nhà, bỏ cả nghề dạy học đi theo tiếng gọi của t́nh yêu và dần trở thành một diễn viên gạo cội trong đoàn kịch Tinh Hoa của Thế Lữ. Họ kết duyên với nhau. Đó là cặp nghệ sĩ rất nổi tiếng và đẹp đôi mặc dầu “chàng” hơn nàng 6 tuổi và đă có vợ con.

 

Ở Hải Pḥng, bà Khương biết chuyện, buồn lắm nhưng cố chịu đựng, không tỏ thái độ ghen tuông. Bà không coi Song Kim là “vợ hai” của chồng, v́ theo giáo lư Công giáo, đàn ông chỉ có một vợ, bà tin rằng Thế Lữ là người Công giáo, được bà nội huấn luyện từ nhỏ cho măi tới năm 10 tuổi, rồi mẹ ruột lại dạy tiếp, sẽ có một ngày ông trở lại với ḿnh. Di cư vào Nam, nuôi 2 con trai học tới tiến sĩ và người con gái trở thành một nhà doanh nghiệp.

 

Năm 1954, Thế Lữ đă đưa người con trai cả là Nguyễn Đ́nh Nghi đi theo ḿnhcùng Song Kim lên Việt Bắc từ năm 1945 và sau này Nguyễn Đ́nh Nghi cũng trở thành một đạo diễn sân khấu nổi tiếng. Hiệp định Genève diễn ra. Mặc dầu Thế Lữ và Song Kim ở lại Hà Nội nhưng bà Khương quyết định dẫn mẹ chồng và 3 người con di cư vào Nam. Tại Sài G̣n, bà vẫn sống bằng cách mở một tiệm bán vải để nuôi các con ăn học. Khi mẹ chồng mất, bà làm đám tang “hoành tráng” không khác ǵ có mặt Thế Lữ ở nhà.

 

Thời gian qua đi, biến cố 1975 xảy ra, miền Nam sụp đổ. Ở ngoài Bắc, Nghệ sĩ Nhân dân Song Kim không có con, bà đối xử với đạo diễn Nguyễn Đ́nh Nghi như con ruột và coi các con của vợ chồng Nguyễn Đ́nh Nghi như cháu nội. Trong khi đó, ở trong Nam, hai người con trai của bà Khương là Nguyễn Đ́nh Học và Nguyễn Đ́nh Tùng đă lần lượt thi đậu Tiến Sĩ và trở thành giảng viên đại học, c̣n người con gái tên Nguyễn Quỳnh Tâm đă có gia đ́nh. Năm 1977, mặc dầu là con người phiêu lăng và đă luống tuổi nhưng Thế Lữ vẫn dành sự quan tâm tới vợ con. Ông thương thảo với Song Kim để dọn vào Sài G̣n c̣n bà th́ vẫn ở lại Hà Nội.

 

Hai vợ chồng già gặp nhau, vẫn vui vẻ sau bao nhiêu năm xa cách. Ông sống chung với bà từ cuối năm 1977 tại căn nhà ở đường Nguyễn Đ́nh Chiểu (Phan Đ́nh Phùng cũ) quận 3 SàiG̣n và qua đời vào ngày 3/6/1989, thọ 82 tuổi. Như vậy ông bà “tái hồi Kim Trọng” gần 12 năm đúng như bà suy nghĩ: dù phiêu bạt đến mấy,cuối cùng là ông sẽ trở lại với bà. Sau khi ông mất, hai người con trai của bà là Nguyễn Đ́nh Học và Nguyễn Đ́nh Tùng đem vợ con vượt biên sang Mỹ năm 1990, hiện nay đang ở bên Mỹ. C̣n người con gái là Nguyễn Quỳnh Tâm th́ không vượt biên, sau thời kỳ mở cửa, sẵn có gia tài,tiền bạc của mẹ để cho, vợ chồng tiếp tục làm ăn, buôn bán, trở thành một nhà doanh nghiệp chuyên về xuất nhập khẩu vải vóc có tiếng tại Sài G̣n.

 

Bà Song Kim sinh năm 1913, mất năm 2008 tại Hà Nội, thọ 95 tuổi. Cả bà và Thế Lữ đều được phong tặng danh hiệu Nghệ Sĩ Nhân Dân, được Giải thưởng Hồ Chí Minh nhưng đều không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, bởi v́ bà là con gái quan tuần phủ thời Pháp, c̣n Thế Lữ là người Công giáo, không chịu bỏ đạo mặc dầu ông rất bận, ít khi đi lễ nhà thờ.

 

 

Đoàn Dự

 

*****

 

Tài liệu hiếm quư. Tôi xin phép bổ sung vài chi tiết nhỏ.

 

- Khoảng 1940, ông Thế Lữ và bà Song Kim về ở đường Láng. Lúc đó, đường Láng chỉ có hai gia đ́nh: Cụ Tú Mỡ và Ông Thế Lữ. Cụ Tú Mỡ là người  rủ Ông Thế Lữ về đó ở..

 

- Người con thứ, Nguyễn Đ́nh Học (tôi lại nhớ là Nguyễn Thế Học) là tiến sĩ Toán, anh học tiến sĩ ở Bỉ. Xong tiến sĩ, anh có đi Phi Châu, h́nh như xứ Congo, dạy học vài năm rồi trở về Bỉ, ở thủ đô Bruxelles. Thời đó, khoảng 1975, tôi thỉnh thoảng có sang Bỉ thăm bè bạn, và hay đến nhà anh chị Học chơi, đánh mạt chược. Chị Học, vốn là cô giáo Toán ở trường Gia Long, nhưng theo chồng sang Bỉ, h́nh như thôi dạy. Bạn bè tôi bên Bỉ kháo nhau là chị Học vốn c̣n giỏi Toán hơn chồng, nhưng phận nữ nhi, chịu nâng khăn sửa túi cho chồng, âu cũng là phong tục An Nam ta. 

 

TB. Tôi nghe nói, anh Học đă mất lâu rồi, chị Học dọn nhà sang Mỹ. Mấy năm gần đây, chị cùng một số bạn hữu sưu tập toàn bộ Phong Hoá - Ngày Nay và mang về VN tặng cho một trường ĐH ở SG, để phổ biến trong giới sinh viên làm tài liệu nghiên cứu. Tôi nghe nói, cho đến nay tài liệu đồ sộ đó vẫn chưa được phổ biến rộng răi...

 

 

Lương Lê Huy

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính