*Sinh Tử Ṿng Đời*

 

 

 

+ Danh ngôn Sinh Tử:

 

- Tôi cám ơn Chúa, v́ đă ban cho ḿnh cơ hội để hiểu rằng Cái Chết là ch́a khóa dẫn đến Chân Hạnh Phúc.

(Wolfgang Mozart)

 

- Sự im lặng tột cùng dẫn đến nỗi buồn. Đây là h́nh ảnh của sự chết.

(Jean Rousseau)

 

- Chết chẳng là ǵ, không sống mới đáng sợ.

(Victor Hugo)

 

- Nỗi sợ cái chết đều đến từ nỗi sợ cuộc sống.

Người sống hết ḿnh sẵn sàng chết bất cứ lúc nào.

 (Mark Twain)

 

- Kẻ hèn nhát chết nhiều lần trước khi chết. 

Người gan dạ chỉ chết có một lần.

 (William Shakespear)

 

- Sự sáng tạo có nghĩa là được sinh thành trước khi chết.

(Erich Fromm)

- Cái chết cũng như sinh thành là một điều tự nhiên.

(Marcus Aurelius)

 

- Nếu bạn sợ bệnh sợ chết, th́ hăy quan sát xem chúng từ đâu đến.Chúng đến từ sự sinh. Nên đừng buồn khi có người sinh ra đời.

(Ajahn Chah)

 

+ ‘Tiền công của tội lỗi là sự chết.’

 

Ṿng đời kiếp sống thế trần,

Sinh ra từ biệt một lần mà thôi,

Nếu ta biết sống cho đời,

Mai sau sẽ nở nụ cười ra đi!

 

Đời người sinh kư tử qui,

Sống là chuẩn bị để ly biệt trần.

‘Thoạt sinh ra th́ đà khóc chóe,

Trần có vui sao chẳng cười kh́?’ (*)

 

 Bé thơ ngây hoa đời chớm nở,

Chẳng có ǵ lo sợ vấn vương,

Bao quanh tràn ngập yêu thương,

Như hoa vừa nở dâng hương ngạt ngào.

 

Trai trưởng thành nuôi bao mộng đẹp,

Chung quanh ta chật hẹp không gian,

Sự nghiệp, danh vọng, giàu sang,

Đuổi theo đạt được lại càng hăng say.

 

Gái tự hào soi gương tô điểm,

Vẻ diễm kiều sai khiến ḷng người,

Tâm hồn rộng mở thêm tươi,

Tương lai bừng sáng đón mời vào xuân.

 

- Nhưng cuộc đời có đâu đẹp măi,

Có vui nay, mai lại có sầu,

Hoa kia tươi măi được đâu,

Con người không thể sống lâu ngàn đời.

 

Mới ngày nào tuổi thơ tươi thắm,

Mới ngày nào phấn khởi hiên ngang,

Chàng th́ sự nghiệp vẻ vang,

Nàng th́ rực rỡ cao sang hơn người.

 

Vừa mới đây tháng ngày thấm thoát,

Giờ lúc này sao khác năm xưa,

Hàm răng đă thấy lưa thưa,

Tóc mây bỗng chốc lại vừa điểm sương.

 

Xưa nay nhân trần nuôi hy vọng,

T́m mọi cách xây mộng trường sinh,

Thật không biết lựa sức ḿnh,

Luật trời sinh tử chứng minh tỏ tường.

 

Suốt đời dù mải mê tích lũy,

Xuôi hai tay nắm giữ được ǵ,

Đời người sinh kư tử qui,

Sống là cơi tạm, thác là trường sinh.

 

Luật trời chính là quyền Thượng Đế,

Phúc của ḿnh tích để sau này,

Nếu sống tốt đẹp hôm nay,

Mai sau vĩnh cửu tràn đầy hân hoan.

 

Hoàng hôn xuống chậm nghiêng soi bóng,

Cô khách dừng chân đứng ngẩn ngơ,

Màn đêm buông phủ lờ mờ,

Bóng người ch́m lắng ơ hờ trong đêm.

 

Lạy Chúa! Là Đường! Là Sự Sống!

Lạy Chúa chính là Đấng t́nh thương!

Bụi trần che phủ mù sương,

Xin Ngài d́u dắt soi đường con theo.

 

 

    + Thánh Thi Mùa Chay

 

Muôn lạy Chúa toàn năng khôn ví

Là Ba Ngôi hiển trị thiên ṭa,

Phúc lành tuôn đổ sớm trưa

Cho mùa trai tịnh thành mùa hồng ân.

 

Lạy Đấng Hoá Công xin đoái nhận

Nỗi ḷng con cái khấn nguyện đây:

Lời kinh thấm lệ cùng dâng Chúa

Suốt cả Mùa Chay thánh thiện này  

 

 

+ CỰU ƯỚC:  KITÔ HỮU ĐỐI MẶT VỚI CÁI CHẾT

 

1. Chết với Đức Kitô. Đức Kitô khi mang lấy bản tính con người đă không chỉ gánh chịu cái chết của chúng ta để tự thông phần vào thân phận tội lỗi của chúng ta. Là thủ lĩnh của nhân loại mới, là A- đam mới (1 Cr 14,45; Rm 5,14), Ngài đă ôm lấy tất cả vào ḷng khi Ngài chết trên thánh giá. Thật vậy, nơi cái chết của Ngài, ”mọi người đều chết” theo một cách nào đó (2 Cr 5,14). Tuy nhiên, cái chết này cần phải trở thành một thực tại hữu hiệu cho mỗi người. Đây là ư nghĩa của phép rửa tội mà hiệu quả bí tích của phép rửa tội ấy hiệp nhất chúng ta với Đức Kitô trên thánh giá: ”được chịu phép rửa trong cái chết của Đức Kitô”, chúng ta ”được mai táng với Ngài qua cái chết”, ”được đồng h́nh đồng dạng trong cái chết của Ngài” (Rm 6,3…; Pl 3,10). Từ nay trở đi, chúng ta đều chết và cuộc sống của chúng ta được cất giấu nơi Thiên Chúa cùng với Đức Kitô (Cl 3,3). Sự chết bí nhiệm là khía cạnh phủ định của ân sủng cứu độ. V́ dẫu chúng ta chết đối với điều ǵ th́ điều đó nằm trong trật tự các điều mà triều đại của Tử Thần bằng cách ấy đă tỏ bày ở trần gian: chúng ta chết đối với tội lỗi (Rm 6,11), đối với con người cũ (6,6), đối với xác thịt (1 Pr 3,18), đối với thân xác (Rm 6,6; 8,10), đối với Lề Luật (Gl 2,19), đối với các yếu tố của thế gian (Cl 2,20)…

 

2. Từ sự chết đến sự sống. Chết với Đức Kitô trên thực tế là chết đối với sự chết. Khi chúng ta bị giam trong tội lỗi đó là khi chúng ta đă chết (Cl 2,13; x. Kh 3,1). Bây giờ chúng ta là những người sống ”đă trở về từ cơi chết” (Rm 6,13) và ”được giải thoát khỏi các việc của sự chết” (Dt 6,1; 9,14). Như Đức Kitô đă nói: ai nghe lời Ngài th́ sẽ bước qua sự chết mà vào sự sống (Ga 5,24); ai tin vào Ngài th́ không c̣n phải sợ chết, dù kẻ ấy đă chết th́ cũng sẽ được sống (Ga 11,25). Đó là cái được mất của đức tin. Trái lại, ai không tin th́ sẽ phải chết trong tội lỗi (Ga 8,21.24), hương thơm của Đức Kitô đối với người ấy trở thành mùi tử khí (2 Cr 2,16). Vở kịch của nhân loại đương đầu với cái chết cũng diễn ra trong cuộc sống của mỗi chúng ta; đối với chúng ta, kết cục của vở kịch ấy tùy thuộc vào sự lựa chọn của chúng ta trước mặt Đức Kitô và Tin Mừng: kết cục của người này là sự sống đời đời, v́ Đức Giêsu đă nói: “ai tuân giữ lời Ta th́ sẽ không bao giờ thấy cái chết” (Ga 8,51); c̣n kết của kẻ khác là sự khủng khiếp của ”cái chết lần thứ hai” (Kh 2,11; 20,14; 21,8).

 

3. Chết đi mỗi ngày. Tuy nhiên sự kết hiệp của chúng ta với cái chết của Đức Kitô vốn được thực hiện qua bí tích rửa tội c̣n phải thường xuyên được thực hiện mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta. Đây là ư nghĩa của khổ luyện mà bởi đó chúng ta ”chịu hư nát”, nghĩa là chúng ta ”giết chết” nơi chúng ta những việc làm của xác thịt (Rm 8,13), những đam mê thuộc hạ giới (Cl 3,5). Đó cũng là ư nghĩa của tất cả những ǵ biểu hiện nơi chúng ta sức mạnh của cái chết tự nhiên, v́ cái chết đă thay đổi ư nghĩa kể từ khi Đức Kitô đă biến nó trở thành công cụ cứu độ. Nói rằng các Tông Đồ của Đức Kitô trong sự yếu đuối của ḿnh xuất hiện trước mặt mọi người như kẻ sắp chết (2 Cr 6,9), rằng họ luôn luôn ở trong hiểm nguy phải chết (Pl 1,20; 2 Cr 1,9…; 1,23), rằng họ ”chết mỗi ngày” (1 Cr 15,31), th́ đó không c̣n là dấu chỉ thất bại nữa: họ mang lấy toàn bộ cái chết của Đức Kitô để sự sống của Đức Giêsu cũng được thể hiện nơi thân ḿnh của họ; họ được cứu thoát khỏi sự chết do Đức Giêsu để sự sống của Đức Giêsu được thể hiện nơi xác thịt phải chết của họ; khi sự chết hoạt động nơi họ th́ sự sống hoạt động nơi những người trung thành (2 Cr 4,10…). Cái chết mỗi ngày này hiện thực hóa cái chết của Đức Giêsu.

 

4. Đối diện với cái chết thân xác. Trong cùng viễn cảnh ấy, cái chết thân xác đối với Kitô hữu mang một ư nghĩa mới. Nó không c̣n chỉ là số phận không thể tránh khỏi mà người ta đành cam chịu, một mệnh lệnh từ trời mà người ta phải chấp nhận, một án phạt tự trút lấy do hậu quả của tội lỗi. Người Kitô hữu ”chết cho Chúa” như Ngài đă sống cho ḿnh (Rm 14,7…; x. Pl 1,20). Và nếu họ chết như vị tử đạo của Đức Kitô, đổ máu ḿnh làm chứng tá, th́ cái chết của họ là một đổ máu có giá trị hiến tế trước mặt Thiên Chúa (Pl 2,17; 1 Tm 4,6). Bởi cái chết này họ ”tôn vinh Thiên Chúa” (Ga 21,19) và xứng đáng được hưởng triều thiên sự sống (Kh 2,10; 12,11). Từ nỗi lo lắng tất yếu, cái chết đă trở thành đối tượng của phúc thật: ”Phúc thay những người chết trong Chúa! Từ nay trở đi họ được nghỉ ngơi, không c̣n vất vả” (Kh 14,13). Cái chết của người công chính là một lối vào chốn b́nh an (Kn 3,3), vào nơi an nghỉ đời đời, vào ánh sáng không bao giờ tắt. Requiem aeternam dona eis, Domine, et lux perpetua luceat eis! (Xin Chúa hăy cho họ được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu của Ngài chiếu soi trên họ)

 

Niềm hy vọng bất tử và sống lại biểu lộ trong Cựu Ước bây giờ đă t́m thấy nền tảng vững chắc trong mầu nhiệm của Đức Kitô. Bởi v́ không chỉ sự kết hiệp với cái chết của Đức Kitô làm cho chúng ta sống thật sự một cuộc sống mới, nhưng c̣n đem lại cho chúng ta bảo đảm rằng « Đấng đă làm cho Đức Giêsu Kitô sống lại từ cơi chết cũng sẽ đem lại sự sống cho thân xác phải chết của chúng ta » (Rm 8,11). Như vậy, nhờ sự phục sinh, chúng ta sẽ đi vào một thế giới mới nơi « không c̣n cái chết nữa » (Kh 21,4) ; hay đúng hơn, đối với những kẻ được tuyển chọn đă được sống lại với Đức Kitô th́ sẽ không có « cái chết lần thứ hai » (Kh 20,6 ; x. 2,11): cái chết sẽ dành cho những kẻ bị án phạt, dành cho Ma Quỷ, cho Tử Thần, và cho Âm Phủ (Kh 21,8 ; x. 20,10.14).

 

Đó là lư do tại sao đối với người Kitô hữu, chết cuối cùng là một mối lợi, bởi v́ Đức Kitô là sự sống của họ (Pl 1,21). Thân phận hiện tại của họ nó đóng chặt họ với thân xác phải chết th́ thật nặng trĩu: họ thích thoát khỏi thân phận ấy để đến ở bên Chúa (2 Cr 5,8) ; họ mau mắn mặc bộ áo vinh quang của những kẻ được sống lại, để cho cái phải chết nơi họ được tiêu tan trong sự sống (2 Cr 5,1- 4 ; x. 1 Cr 15,51- 53). Họ ước ao ra đi để ở với Đức Kitô.

 

* Suy niệm:

 

Nếu chết là một chấm hết, th́ cái chấm hết ấy chỉ có giá trị với sự thù hận. Người chết không c̣n thù hận nữa. dù có căm thù đến đâu, nằm kề bên nhau trong một nghĩa trang, những người chết không c̣n thấy cuộc chiến giữa những người chết. Nếu có một thế giới không c̣n chiến tranh, không c̣n hận thù, không c̣n vũ khí, đó là thế giới của nghĩa trang. Đó là nơi an nghỉ, quên hết hận thù. Cái chết dù độc ác đến đâu cũng trở thành dấu chỉ của b́nh an ḥa b́nh. Đó là điều chúng ta có thể xác quyết khi suy ngắm cái chết của Đức Ki- tô trên Thập giá. Ngài chết để lôi kéo chúng ta đến với Ngài và chúng ta đến với nhau. Để thực hiện điều đó trong những giây phút cuối cùng sống nơi trần gian, Ngài đă tha thứ cho chính những kẻ hành hạ ḿnh.

 

Trong cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta hăy tưởng nhớ đến những người quá cố. Những người đó có thể là những người thân yêu, có thể là những người chưa quên biết và cả kẻ thù của chúng ta. Tấm ḷng của người Ki- tô, trước hết phải là tâm t́nh thứ tha như Chúa. V́ cái chết của Chúa đă trở thành nguồn ơn cứu rỗi và đem lại ḥa b́nh. Những người mà chúng ta đang ngậm ngùi tưởng nhớ trong tháng 11 này, cũng là âm vang từ ái nhờ chính cái chết của Chúa trên Thập giá: Xin cha tha tội cho chúng!

 

(*) Ghi chú: Trích thơ Nguyễn công Trứ.

 

 

+ Phụ dẫn:

          

* Ṿng tuần hoàn của Cuộc đời

 

Khi Tiến sĩ và Người Chăn Trâu đều nói về ‘Ṿng tuần hoàn Cuộc đời’

  

 

Có một vị bác sĩ là tiến sĩ chuyên ngành y khoa nổi danh hàng đầu thế giới t́nh cờ đi tới một khu vực hẻo lánh nọ trên núi để khám chữa bệnh miễn phí cho những người dân nghèo trong vùng. Tại đây, anh ta gặp một người chăn trâu trông có vẻ khá vất vả.

 

Vị tiến sĩ nọ đột nhiên cảm thấy thương xót thay cho số phận kẻ sinh ra tại vùng quê nghèo nàn, lớn lên trong sự nghèo nàn và chết đi cũng trong sự nghèo nàn như vậy. Ông nghĩ, người chăn trâu này thật tội nghiệp, anh ta sẽ măi măi không bao giờ được đặt chân tới những chân trời mới, tiếp xúc với nhiều điều mới rồi trở thành một người thành đạt, giỏi giang của xă hội.

 

Một thoáng động ḷng trắc ẩn, vị Tiến sĩ đến gần và cất giọng hỏi thăm:

 

“Sao anh lại đi chăn trâu?”

 

Người chăn trâu lúc đó đang nghỉ ngơi bèn trả lời:

“Tôi chăn trâu đương nhiên là để nuôi trâu lớn, bán lấy tiền.”

 

Tiến sĩ lại hỏi: “Vậy anh bán lấy tiền để làm cái ǵ?”

 

Người chăn trâu đáp: “Tôi lấy tiền xây nhà.”

 

Tiến sĩ hỏi: “Vậy anh xây nhà để làm ǵ?”

 

Người chăn trâu đáp: “Tôi xây nhà để cưới vợ.”

 

Tiến sĩ hỏi: “Vậy anh cưới vợ để làm cái ǵ?”

“Tôi cưới vợ để rồi sinh con đẻ cái.”

 

Tiến sĩ lại hỏi: “Vậy anh sinh con đẻ cái để làm cái ǵ?”

 

“Để con cháu sau này lớn lên đi chăn trâu kiếm tiền.”

 

Tiến sĩ nghẹn họng không biết nói ǵ. Anh ta ngậm ngùi cảm khái, than thở rằng:

“Thật là, tại sao quanh đi quẩn lại anh vẫn chỉ nghĩ đến chuyện chăn trâu thôi vậy? Cuộc đời như vậy th́ c̣n có ư nghĩa ǵ nữa chứ.”

 

Sau một hồi giảng giải, suy ngẫm chuyện nhân sinh cuộc đời, người chăn trâu bỗng hỏi lại vị Tiến sĩ:

“Ông được đi học đúng không, tôi thấy mọi người gọi ông là Tiến sĩ, vậy ông làm Tiến sĩ để làm ǵ?”

 

Vị Tiến sĩ trả lời:

“Học nhiều biết nhiều là để trở nên giỏi giang, thành tài.”

 

Người chăn trâu hỏi:

“Giỏi giang thành tài để ông nổi danh, để ông kiếm được nhiều tiền tiền đúng không? Vậy kiếm nhiều tiền rồi ông làm ǵ?”

 

Vị Tiến sĩ trả lời:

“Nổi tiếng, có tiền rồi th́ sự nghiệp ổn định đi lên, có thể mua nhà, mua xe, lấy vợ, lập nghiệp.”

“Lấy vợ lập nghiệp rồi ngài cũng phải sinh con đẻ cái đúng không? Vậy sau đó ông làm ǵ?”

“Đương nhiên ta sẽ dạy dỗ con cái nên người, khôn lớn thành tài.”

 

Người chăn trâu lại hỏi tiếp:

“Vậy con cái ông khôn lớn thành tài để làm ǵ?”

 

Vị Tiến sĩ điềm nhiên nói:

“Thành tài rồi mới có thể kiếm tiền…” Đến đây th́ anh ta im bặt.

“Thật là, tại sao quanh đi quẩn lại ông chỉ nghĩ đến kiếm tiền thôi nhỉ. Cuộc đời xoay ṿng như vậy th́ c̣n có ư nghĩa ǵ đây?”

 

Nh́n bóng lưng kẻ chăn trâu đi xa, vị Tiến sĩ nọ mới đột nhiên cảm thấy rằng, mộtngười học thức đầy ḿnh như anh ta thật ra cũng chẳng khác là bao so với kẻ chăn trâu nghèo khổ trong một vùng quê hẻo lánh. Cả cuộc đời, mục tiêu và ư nghĩa cuộc sống của họ đều nằm trong một ṿng tuần hoàn mà thôi.

 

“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi để một mai tôi về lại cát bụi…”.

 

Có lẽ, đă là một kiếp người th́ không thể nào tránh khỏi được cái ṿng tuần hoàn ấy mà thôi.

C̣n bạn, đă bao giờ bạn tự hỏi ư nghĩa kiếp nhân sinh là ǵ?

 

(Sưu tầm)

 

 

Đinh văn Tiến Hùng

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính