Bài thơ “Quê Nghèo” và những cảm nhận

 

 

 

 

 

Quê tôi nghèo lắm

Vẫn lác đác nhà tranh

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ

Tuổi thơ tôi đói ngủ

Thương cánh c̣ bấu bíu lời ru.

 

Quê tôi nghèo lắm

Phiên chợ c̣n èo ợt nghèo hơn

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

Mẹt sắn, mẹt ngô

Í ới mời chào cao hơn mời cỗ

Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

 

Quê tôi nghèo lắm

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Lũ trai mặt mũi mốc meo

Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó

Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc

Thương con c̣ con vạc

Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của ḿnh.

 

Quê tôi nghèo lắm

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Sừng sững bê tông cốt thép

Ngạo nghễ tượng đài

Ngạo nghễ trần ai

Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hăm đời người

Tù túng giấc mơ.

 

Quê tôi nghèo

Nghèo cả giấc mơ...

 

*

 

Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014

Đặng Xuân Xuyến

 

 

ĐỌC BÀI THƠ QUÊ NGHÈO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

Là người Việt Nam không ai không biết tới cảnh nghèo, cái đói đă đeo bám dân tộc ta từ những ngàn đời. Cảnh đói ăn, thiếu mặc, bán vợ, đợ con đă in đậm vào những trang văn, những bài thơ từ thuở ông cha ta biết dùng chữ viết ghi lại cùng con cháu hôm nay. Nhiều câu thơ, trang văn đă làm rơi lệ người đọc, thương cho số phận người xưa, lại thương cho phận số của chính ḿnh. Cuộc cách mạng năm 1945 giành lấy chính quyền từ chế độ vua quan phong kiến, thực dân cai trị, người nghèo làm chủ lấy vận mệnh của ḿnh với bao hy vọng đẹp tươi, xây dựng một xă hội ấm no, công bằng, người không c̣n bóc lột người… nhưng con đường ấy chưa biết bao giờ tới đích. Sau những bộ mặt đô thị, thành phố tập trung được xây dựng khang trang đẹp đẽ, vẫn c̣n những làng quê chưa thoát khỏi cảnh nghèo:

 

Vẫn lác đác nhà tranh

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặt chát

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ…

 

Bộ mặt đời sống mỗi vùng quê mỗi nơi tuy có khác nhau nhưng nh́n chung vẫn chưa nhấc nổi bàn chân thoát khỏi cái ṿng nghèo khó. Bây giờ không c̣n đói dài đói rạc, không c̣n quần mảnh áo manh, sự nghèo khó lại mang bộ mặt khác.

 

Nh́n từ bên ngoài:

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Sừng sững bê tông cốt thép

Ngạo nghễ tượng đài…

 

Chiếc cổng làng thành:

 

Giam hăm đời người

Tù túng giấc mơ!

 

C̣n đời sống thật bên trong, văn hóa, hiểu biết, kiến thức, khoa học, tục lệ, lễ nghi… vẫn chưa nâng con người thêm lên là bao. Thật buồn cười, hàng ngày qua đài báo ta cứ nghe ra rả những lời nói đẹp: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân!” nhưng nh́n vào anh chị cán bộ nhỏ bé nhất của làng ai cũng quần là áo lượt, c̣n nhân dân th́ áo đẫm mồ hôi, quần quật nắng sương lại được tiếng là ông chủ của đất nước. Trong khi mảnh đất hẹp của chính ḿnh vẫn cày cuốc, người tà có thể lấy đi để mua bán đầu từ cho những tập đoàn tư sản nước ngoài năm, bảy chục năm, lấy tiền bỏ túi nhà nước th́ ít, c̣n túi những ông bà đầy tớ, chỉ một hai khóa nắm quyền, là có thể tậu nhà mặt phố, thị trấn, thành người của lớp giàu sang. C̣n dân đen th́ phải rời nhà, rời cả mồ mả tổ tiên và được cái tiếng là người có quyền làm chủ… Trong một bài thơ Đặng Xuân Xuyến khó nói hết điều này nên sau những câu thơ khắc họa cái nghèo rất thực:

 

Quê tôi nghèo lắm

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Lũ trai mặt mũi mốc meo

Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó

 

Mà cuộc sống khổ nghèo tŕ trệ, tù đọng ấy cũng đâu yên ổn:

 

Nơm nớp âu lo

Đời như chiếu bạc

 

Nay hăy biết nay, c̣n mai chưa biết thế nào.

 

H́nh ảnh trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến viết là những làng quê của vùng khoai lúa cây trồng nơi những vùng đồng bằng ít biến động bởi thiên tai băo tố. Nước ta với hơn ba ngh́n cây số biển dài c̣n bao làng quê sống nghề chài lưới. Mỗi gia đ́nh ở đây c̣n nơm nớp bao nhiêu khi đặt cược đời ḿnh nơi những chiếc phao nổi nênh mặt nước. Dù không giàu có nhưng sống nhờ con tôm, con cá …qua ngày. Bỗng nhiên người ta bán đất đầu tư cho nước ngoài gần cả trăm năm. Công nghiệp đem được lợi ích ǵ cho những người dân chài lưới chưa thấy đâu, đă gây nên vụ ngộ độc suốt dải biển bắc miền Trung cá chết, đă hơn hai tháng nay chưa t́m được nguyên nhân. Tuy được cho cơm gạo cầm hơi để sống, để nh́n ra biển. Nỗi đau dân chài, tự dựng rơi lại vào cái bẫy khó nghèo, so với nỗi sợ, nỗi lo ở những làng quê đời sống dân chài c̣n nơm nớp bấp bênh hơn. Đúng là “Đời như chiếu bạc” ḿnh không đánh bạc mà bị trắng tay… Nỗi buồn lo đến vậy cả một dải đất miền biển, nhưng trên báo chí truyền thông ta chỉ được đọc một hai bài thơ đồng cảm với biển, chứng tỏ c̣n một nỗi đáng sợ hơn là ḷng người bây giờ, tuy vẫn cười vẫn nói cùng nhau nhưng thứ t́nh nghĩa quê kiểng xóm làng sống không c̣n ấm áp “Tắt lửa tối đèn” như xưa.

 

Giữa không khí thơ như thế bài thơ của Đặng Xuân Xuyến như đốm lửa t́nh người vẫn c̣n lửa hồng than đỏ, hàng ngày sống giữa những cạnh tranh giành giật phố phường mà c̣n gửi được hồn ḿnh ở nơi t́nh người và cảnh vật lẻ loi là thật đáng quư:

 

Phiên chợ quê c̣n ẽo ợt nghèo hơn

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

Mẹt sắn mẹt ngô

Í ới mời chào…

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi

 

Bài thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta cái t́nh, t́nh người muôn thuở.

 

Làng thơ Việt Nam bây giờ có nhiều người giàu có, quyền tước ngất trời muốn mượn thêm thơ để làm phật đạo, rằng ḿnh cũng hiền, cũng triết, cũng thanh cao, đă mượn cả danh của hội nhà văn Việt Nam để in sách, mời những nhà thơ có tiếng để hội thảo, in song ngữ, tam ngữ, quảng bá rùm beng như đám rước hội làng, nhưng thơ nhạt thếch, bởi ḷng họ c̣n đâu thứ t́nh người lửa khói. T́nh người đă cạn kiệt c̣n lấy ǵ để rung ngân… Trái tim không c̣n nhói đau khi chạm phải “cái nghèo” cái bất công hàng ngày vây bủa th́ c̣n đâu thơ phú...

 

*

 

CHỬ VĂN LONG

Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Tŕ, Hà Nội.   

Email: haicv08@gmail.com

 

“QUÊ NGHÈO” - NGHÈO ĐẾN XÓT XA CƠI L̉NG

 

Hơn 60 năm trước, khi trọ học ở Hà Nội, tôi thường được ông chủ nhà cho cùng ông nghe buổi phát thanh ca nhạc của Đài phát thanh Pháp Á. V́ vậy, dần dà, tôi đă thuộc được lời và âm điệu của những bài ca mà tôi yêu thích, trong đó có bài “Quê  nghèo” của Phạm Duy mà tôi có cảm giác như cái quê nghèo trong bản nhạc ấy cũng chính là quê ḿnh, cũng “không xa kinh kỳ sáng chói”, cũng “có lũy tre c̣m tả tơi”…

 

Sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, tôi vĩnh viễn không c̣n được nghe đài Pháp Á nữa, không phải v́ không c̣n trọ học mà v́ dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi. Những bản nhạc bấy lâu đă thuộc trôi dần vào lăng quên trước nỗi vất vả kiếm sống của một thời trai trẻ cùng sự cấm đoán hát những bản nhạc ấy. Lại thêm khắp các làng quê được khơi dậy phong trào hợp tác xă, ḷng người phơi phới hát vang lời ca "Dân có ruộng dập d́u hợp tác/ Lúa mượt đồng ấm áp làng quê/ Chiêm mùa cờ đỏ ven đê...". V́ thế hai tiếng “Quê nghèo” cũng  lặn mất tăm trong tâm trí của tôi.

 

Ai hay, hôm nay hai tiếng “Quê nghèo” lại hiện lên rơ nét trước mắt tôi. Không phải là nhạc phẩm “Quê nghèo” một thời vang bóng của nhạc sĩ Phạm Duy mà là bài thơ “Quê nghèo” c̣n như mới tinh nét chữ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến!

 

Bài thơ Quê nghèo gồm 4 khổ chính, khổ nào cũng cất lên câu mở đầu: Quê tôi nghèo lắm nghe như một tiếng thở dài buồn thảm và dai dẳng không ḥng t́m thấy điểm ngừng. 4 khổ thơ chính và 2 câu thơ kết đă phô ra 5 cái nghèo lắm:

 

Trước hết là cái nghèo lắm về cảnh vật đến cuộc sống của người dân quê tôi:

 

Vẫn lác đác nhà tranh    

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ

 

Ba tiếng vẫn ở ba đầu ba câu thơ liên tiếp biểu thị sự tiếp tục, tiếp diễn của trạng thái nghèo nàn mà không ǵ có thể thay đổi được qua năm tháng.

 

Tuy nhiên, vẫn lác đác nhà tranh  th́ phần nào c̣n hy vọng nhà tranh sẽ hết. Nhưng “Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạ t/ Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát” th́ không dễ ǵ thoát được khi mà người dân quê đă lam lũ dốc kiệt sức vào việc kiếm ăn và đă phải một đời chắt chiu từ củ khoai nắm thóc, vậy mà hạt gạo không đủ nấu cơm. Bởi thế, từ Vẫn thứ tư phải tiếp nối:  

 

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ

 

Và biết bao tuổi thơ lâm vào cảnh:

Tuổi thơ tôi đói ngủ

Thương cánh c̣ bấu bíu lời ru.

 

Rất dễ hiểu ra, không phải là cánh c̣ bay lả bay la/ bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng hay những cánh c̣ trắng phau phau/ ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm; mà phải là những cánh c̣ đi ăn đêm, những cánh c̣ lặn lội bờ sông…

 

Bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến hôm nay nhắc tôi nhớ lại bản nhạc Quê nghèo từ năm 1948 của Phạm Duy với những cảnh mà từng ấy năm đă qua không một ai có thể vẽ lên h́nh ảnh môt quê nghèo tuyệt vời đến vậy: lũy tre c̣m tả tơi, những ông già rách vai cuốc đất bên đàn trẻ gầy... Rồi là một tiếng kêu thống thiết:  

 

Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai

Hiu hắt tiếng bà mẹ cười

Vui v́ nồi cơm ngô đầy

 

Nhưng trong tiếng kêu thống thiết ấy vẫn c̣n có  niềm vui là nồi cơm độn đầy ngô. Người mẹ trẻ nghèo khó dẫu cũng thở dài nhưng trẻ thơ vẫn được đi vào giấc ngủ bằng sự vỗ về yêu thương của mẹ:

 

Có tiếng o nghèo thở dài

Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi

 

Sau hơn 60 năm đi theo con đường của chủ nghĩa xă hội rồi lại thực hiện đường lối đổi mới, những tưởng quê tôi sẽ đổi thay và phát triển đầy ấm no, hạnh phúc. Ai ngờ Quê tôi của nhà thơ, một làng quê của một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội chỉ hơn sáu chục cây số, một vùng đất đă nổi danh từ 200 năm trước với Phố Hiến, một thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài trong câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ thứ nh́ Phố Hiến” vẫn không thoát cảnh Quê nghèo, vẫn chỉ là nhà tranh, là tiếng thở dài, là bát cơm mặn chát mồ hôi, là khoai sắn len vào giấc ngủ của người lớn, là cánh c̣ bấu bíu lời ru trong giấc đói ngủ của con trẻ.  

 

Quê tôi nghèo lắm c̣n được phơi bầy không giấu giếm trong cảnh chợ làng:

 

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi  

Mẹt sắn, mẹt ngô

 

Hàng hóa chỉ có thế, không thấy con tôm, con cá, con gà, miếng thịt lợn…

 

Chợ quê không nhiều người và phong phú hàng hóa như chợ huyện, chợ tỉnh nhưng từ ngh́n đời nay chợ quê không chỉ là nơi đổi chác mua bán mà đối với dân làng c̣n là một nơi gần gụi thân thương chung của mọi người đồng thời cũng là một sắc thái riêng của văn hóa làng trong văn hóa chung của dân tộc. Bởi thế từ ngh́n đời nay, bao người ao ước: Muốn cho gần chợ mà chơi / Gần sông tắm mát, gần nơi đi về

 

Nhưng bây giờ cái chợ quê của nhà thơ chỉ c̣n là một cái chợ “èo ọt” với vài dăm món hàng rẻ tiền như nải chuối, mớ rau, mẹt sắn mẹt ngô th́ hiển nhiên cảnh họp chợ phải gần như vắng hoe:

 

Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua

 

Kẻ bán người mua, tất cả đều chung một tâm trạng buồn chán trước một phiên chợ đang tàn tạ không c̣n chút sự sống:

 

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

 

Quê tôi nghèo lắm, nghèo đến xót xa cơi ḷng khi thấy h́nh hài  lũ trẻ:

 

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Lũ trai mặt mũi mốc meo

 

Nh́n lũ trẻ Quê nghèo trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bỗng dưng tôi nghe văng vẳng tiếng hát trẻ trung trong câu ca dao: Gió đưa gió đẩy… về rẫy ăn c̣ng / Về sông ăn cá, về đồng ăn cua…  

 

Rồi lại ùa về thêm trong tôi những lời kể của nhà văn Tô Hoài: “cái thuở bé sao mà lâu thế, dài thế. Bắt châu chấu bán cho người chơi chim họa mi. Bán không hết th́ vặt cánh, bóp bụng cứt, rang khan với muối, ăn vă. Rồi th́ kéo bọn đi hun chuột đồng, chuột luộc, chuột rán đều ngon. Quả sấu, quả nhót dầm nước mắm ớt, bây giờ đến mùa vẫn nhớ thèm và nói đến vẫn c̣n tứa nước răi. Hôm nắng hanh th́ lùng các bụi tre bắt rắn ráo ra phơi ḿnh, chúng nó là rắn, nhưng rắn ráo, rắn nước, rắn mỏng không có nọc độc, thịt mềm như thịt gà con luộc..."  (trích Chiều chiều).

 

Bây giờ đâu c̣n dễ kiếm được con c̣ng, con cá, con cua đồng, đâu c̣n bắt được châu chấu, chuột đồng, rắn ráo, rắn nước rắn ṃng, đâu c̣n hái được quả sấu quả nhót nơi quê nhà…nên lũ trẻ mới ra cái h́nh hài, cá mắm mốc meo đáng thương kia.

 

Những thân h́nh đói khổ ấy làm sao chứa đựng được những tâm hồn lành mạnh mà trong họ chỉ có:

 

Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc

 

 Với sự sống quẩn quanh chật hẹp tù hăm như những:

 

con c̣ con vạc

Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của ḿnh

 

Quê tôi nghèo lắm. Vậy nguồn gốc của nông nỗi nghèo lắm ấy là từ đâu?

 

Hăy nghe nhà thơ cắt nghĩa:

 

Trước hết là nỗi khổ đau truyền đời chưa dứt:

 

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

 

Và giờ đây cộng thêm:

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

 

Ô hay, sao lại là tội của chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp ấy?

 

Cổng làng có từ xa xưa ở làng quê Việt Nam. Ngoài ranh giới phân chia, cổng làng thể hiện rơ hồn cốt của làng. Nó được dựng lên để bảo vệ làng khi có giặc giă, trộm cướp và thường được dựng bằng tre, nối liền với những lũy tre bao bọc quanh làng. Bên cạnh cổng làng có điếm canh, ngày cổng mở để dân làng đi lại, đêm làng cử người canh ở điếm, kiểm tra người lạ vào làng. Những chiếc cổng làng xưa cũ ấy đă đi vào thơ ca với những nét đẹp giản đơn mà thơ mộng:

 

Ngày nay dù ở nơi xa

Nhưng khi về đến cây đa đầu làng

Th́ bao nhiêu cảnh mơ màng

Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre 

                                       (Bàng Bá Lân)

 

Giờ cổng làng xưa không c̣n nữa. Quê th́ nghèo rớt mồng tơi mà người ta lại xây cổng làng hoành tráng quá. Cổng làng không c̣n là nơi thông báo cho người khác biết về địa giới hành chính của làng nữa mà dường như chỉ để khoe mẽ:

 

Sừng sững bê tông cốt thép

Ngạo nghễ tượng đài

Ngạo nghễ trần ai

 

Và chính v́ thế, người ta đâu biết:

 

Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hăm đời người

Tù túng giấc mơ.

 

Bài thơ kết thúc với hai câu nhưng câu thứ nhất cũng đai lại ba tiếng: Quê tôi nghèo. Và trong mọi cái nghèo đă nói, xót xa hơn cả là cái nghèo trong câu kết thứ hai:

 

Nghèo cả giấc          

 

Đến giấc mơ cũng nghèo th́ nói ǵ đến hoài băo ước mơ lớn mà biết bao sự đổi thay tốt đẹp ở đời th́ chỉ thuộc về những người có hoài băo, biết ước mơ! 

 

Trong muôn vạn bài thơ của các kiểu người người làm thơ, nhà nhà làm thơ ngày nay với tràn ngập những bài thơ sáo ṃn, nhạt thếch và cũ rích, thậm chí có nhiều bài như cỏ dại và nấm độc, th́ bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ xứng đáng được những người yêu thơ đích thực đón nhận. Trước sự nghèo khổ của Quê hương, nhà thơ đă không câm lặng mà đă cất lên những tiếng thơ chân thật và đầy xúc động thể hiện những nỗi xót ḷng đối với làng quê, với người dân quê của ḿnh. Những tiếng thơ chân thật đến xót ḷng ấy cũng là tiếng nói chung cho nhiều người đang c̣n có những “Quê tôi” chưa thoát cảnh đói nghèo.

 

*

 

Sài G̣n 17-06-2016

NGUYỄN BÀNG

Email: bnguyen37@gmail.com

 

“QUÊ NGHÈO” -  XÓT XA NHỮNG TIẾNG L̉NG

 

Ngoài kia Ngâu đang rả rích. Trong này, tôi cũng đang lặn lội “về” với Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến! 

 

Mà cũng lạ, cái quê này ở đâu vậy nhỉ? Cố t́m một địa danh mà chẳng thấy. Th́ ra ai đọc Quê Nghèo cũng liên tưởng đến quê ḿnh... củ khoai hạt lúa, chân chất mộc mạc, xa thương gần lại càng thương. 

 

Tác giả đă nói hộ mọi người:

 

Quê tôi nghèo lắm

(…)

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu ...

 

Đọc hai câu thơ này giống như vế đối, lặp từ ĐỜI càng làm nặng thêm cái vất vả của bậc sinh thành. Tác giả có thể thay: cha suốt ngày lam lũ ... để tránh lặp từ nhưng may quá tác giả đă không làm như vậy! Đọc đến đây làm chúng con thấy chua xót mà cũng lăn tăn về trách nhiệm của ḿnh nhưng có ngờ đâu đó là định mệnh mà xă hội làm chưa trọn!

 

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ ...

 

Trời ạ, khi đói chả ai ngủ được, họ nằm trằn trọc, ước ao có được củ khoai, miếng sắn để quên đi bụng réo cồn cào... một lối tư duy rất thơ mà rất thực, cái đói cứ len vào giấc ngủ mà không làm ǵ được v́ biết chắc chắn nhà ḿnh chẳng c̣n ǵ cả, càng cố quên đi nó càng luồn lách, len lỏi vào tận... dạ dày! Chả c̣n ǵ để mà tự an ủi nữa, đến: Cánh c̣ (c̣n phải) bấu bíu lời ru!

 

Câu thơ đến đây làm nghẹn ḷng người đọc, thương cho cánh c̣ rồi lại thương cái quê nghèo, thương cái thân phận của ḿnh.

 

Có người nói: muốn biết vùng ấy thế nào th́ nh́n vào chợ. Th́ đây: phiên chợ èo uột,

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

.

Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua.

.

Ế bán

Chán mua

 

Lại một lần nữa cách diễn tả như vế đối, cô đọng hết cỡ, ngữ điệu dân gian... làm ta nghe phảng phất nhớ cụ Nguyễn Khuyến - Tú Xương. Thành công của bài thơ nằm ở đây. Tài thật, tôi biết đây là ngẫu hứng, tưởng tượng thôi nhưng thật tuyệt v́ tác giả đă ḥa hồn vào Quê Nghèo mới tinh chiết ra được như vậy.

 

Thương con c̣ con vạc

Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của ḿnh.

 

Người nông dân thua trận ngay trên quê ḿnh, mỏi cổ chồn chân ... miết rồi vẫn vậy. 

 

Đặng Xuân Xuyến ơi: 

 

Ngoài thềm rơi cái lá đa

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”

 

- (Trần Đăng Khoa)

 

Đặng Xuân Xuyến đă làm tôi liên tưởng so sánh về sự ḥa hồn với quê hương tới mức đồng thể! 

 

Ngạc nhiên thật. Thơ không giấu được về con người làm ra nó, có thế nào nó rải ra một cách vô tư và công bằng.

 

Bẵng đi... đến thời nay (mặc dù tạm quên đi chị Dậu, Giáo Thứ):

 

Chiếc cổng làng dựng nên thật đẹp

Ngạo nghễ tượng đài

Ngạo nghễ trần ai...

 

Để:    

Giam hăm đời người 

Tù túng giấc mơ!

.

Quê tôi nghèo

Nghèo (đến) cả giấc mơ! 

 

Đúng là h́nh ảnh làng văn hoá, đổi mới hiện nay rồi nhưng sao ta vẫn nếm được vị chua chát, bất măn làm vậy. Rất may đây là cách chỉ ra gián tiếp nguyên do làm cho quê nghèo măi nghèo! Ta đă thấy manh nhà một tư tưởng mới, cách sống không cam chịu và chẳng thèm thích nghi nữa.

 

Con c̣: bấu víu lời ru

Con người: nghèo cả giấc mơ!

 

Mơ chả mất tiền, không ai đánh thuế, bắt vạ... ấy mà cũng chả dám mơ ước đổi đời ......

Ngoài kia giọt mưa thu đă ngừng rơi 

C̣n trong ḷng mưa vẫn rơi sùi sụt!

 

Thương cho những quê nghèo với những xót xa tiếng ḷng như trong Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến!

 

*

 

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đ́nh Phùng, t/p Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

 

ƯU ĐIỂM VỀ MẶT THI PHÁP CỦA “QUÊ NGHÈO”

- Trích từ bài: B̀NH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP -

 

Bài này (Quê Nghèo) nhà phê b́nh Nguyễn Bàng đă viết lời b́nh với tựa Quê Nghèo - Nghèo Đến Xót Xa Cơi Ḷng. C̣n ông Bùi Đồng cũng b́nh bài thơ nhưng chọn cái tựa khác hơn một tư: Quê Nghèo - Xót Xa Những Tiếng Ḷng. Giống như Châu Thạch, hai ông cũng chỉ b́nh tán ư tứ mà không bàn thi pháp.

 

1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không bị bó buộc, viết hết ư th́ thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ ḍng chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.  

 

2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ư gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc t́nh thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đă có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.

 

Quê tôi nghèo lắm

Phiên chợ c̣n èo ợt nghèo hơn

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

Mẹt sắn, mẹt ngô

Í ới mời chào cao hơn mời cỗ

Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

 

Và:

Quê tôi nghèo lắm

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

 

Không biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.

 

3/ Ḍng chảy của tứ thơ: H́nh ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy thành ḍng trên con kênh mà ḷng kênh là câu thơ  chủ  đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành ḍng nên đă có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.

 

4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lư, mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu thơ nhanh nên đă có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ - nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lư do: tác giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.

 

Đôi Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Quê Nghèo

 

Tôi đă để ư đến “cách làm thơ” của Đặng Xuân Xuyến từ khá lâu mặc dù đă có lần “đụng chạm” với anh rất nặng. Về mặt thi pháp, anh (và vài nhà thơ khác) đă đi trước rất nhiều người trong cái cộng đồng yêu thơ quy tụ quanh trang web của anh và một số trang web lân cận. Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca” nhưng h́nh như “không có duyên”; tôi thường đi sau thiên hạ một bước.

 

Hôm nay, nhân dịp viết loạt bài về hồn thơ tôi để ư đến bài Quê Nghèo của anh. Thật t́nh, đây là bài thơ c̣n khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm th́ cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn. Nhưng rơ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đă tạo cho bài thơ của ḿnh cái vóc dáng của một lăng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đă chảy thành ḍng, và cảm xúc có đôi chỗ mức gia tăng đă nhiều hơn cấp số cộng. Mặc dầu bài thơ đă có (ít nhất) hai người b́nh nhưng cả hai (Nguyễn Bàng và Bùi Đồng) đều không bàn thi pháp nên kỹ thuật thơ của anh, cái “tài thơ” của anh bị lăng quên.

 

Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đă có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của ḿnh. So với Ngọc Mai - người tôi nói đến ở bài 2 -  anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nh́n phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ư thêm về đấu pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ thơ đắc ư nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu, không “x́” ra không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” th́ với thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.

 

*

 

PHẠM ĐỨC NH̀

Địa chỉ: League City, Hoa Kỳ.

Email: nhidpham@gmail.com

 

VÀI Ư KIẾN QUANH VIỆC MỔ XẺ BÀI THƠ:

“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

Chưa bàn đến hay, không hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ này:

 

“Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hăm đời người

Tù túng giấc mơ.

.

Quê tôi nghèo

Nghèo cả giấc mơ...”

 

Đây là chủ quan của tác giả. Tôi nghĩ hăy để cho nó tự nhiên như vốn có.

 

Cảnh quê nghèo này nó nhang nhác các bài thơ tả cảnh đồng quê ở đâu đó cánh c̣, cánh vạc, đói, rét. Từ ngày cách mạng tháng 8 thành công, dân cũng c̣n nhiều người đói khổ, tuy nhiên, những tá điền được xóa nợ, nhiều người nông dân đă đổi đời, con em họ được đi học, thậm chí được giữ nhiều trọng trách trong xă hội. Tuy nhiên xă hội nào cũng có mặt này mặt nọ, nên nh́n những mặt tích cực.

 

Với bác PHẠM ĐỨC NH̀

 

Dù cho tôi không biết bác là ai, nhưng qua lời góp ư, phê b́nh của bác tôi thấy bác là người thẳng thắn và khá chân t́nh, tất nhiên kẻ sỹ Bắc Hà không ai tránh khỏi một chút kẻ cả khi bác nói: “Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca”. Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, v́ nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương phải không bác?

 

Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đă có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của ḿnh.”. Bác ấy rất chân t́nh và thẳng thắn hơn nữa đưa ra những nhận xét tích cực chứ hoàn toàn không hạ thấp người nghe.

 

Nếu nghe câu này chắc chắn lúc đâu tác giả không tránh khỏi bị sốc v́ có người chê đứa con của ḿnh ngay cả người đó là mẹ vợ ḿnh đi nữa: “Thật t́nh, đây là bài thơ c̣n khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm th́ cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn.”.

 

Điều này rất thẳng thắn, tuy nhiên cũng là ư nghĩ chủ quan của bác PHẠM ĐỨC NH̀ v́ thơ phú là cảm xúc của từng người, nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc ǵ.

 

Tuy nhiên bác vẫn thừa nhận những điểm mạnh của bài thơ: “Nhưng rơ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đă tạo cho bài thơ của ḿnh cái vóc dáng của một lăng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đă chảy thành ḍng, và cảm xúc có đôi chỗ mức gia tăng đă nhiều hơn cấp số cộng.”

 

Nếu không thực sự yêu mến nhà thơ th́ bác ấy đă không mất công để mà ngồi b́nh làm ǵ, bác ấy góp ư như là góp ư cho một đứa con trai.

 

1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không bị bó buộc, viết hết ư th́ thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ ḍng chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.

 

2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ư gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc t́nh thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đă có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.

 

3/ Ḍng chảy của tứ thơ: H́nh ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy thành ḍng trên con kênh mà ḷng kênh là câu thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành ḍng nên đă có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.

 

4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lư, mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu nhanh nên đă có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ - nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lư do: tác giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.”

 

Dù muốn hay không muốn bác ấy cũng đưa ra lời nhận xét rất chân t́nh: “Không biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.”

 

Tôi không hiểu nhiều về bóng đá, và cũng chưa có nhiều kinh nghiệm sống nhưng tôi nghĩ là bác Phạm Đức Nh́ có một nhận thúc khá dày dặn về cuộc sống, khi ví thơ với bóng đá, cho dù đôi lúc vẫn c̣n giữ thói quen của những nề nếp cũ: “anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nh́n phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ư thêm về đấu pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ thơ đắc ư nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu, không “x́” ra không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” th́ với thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.”

 

Với CảnhThư Sg:

 

Người thực sự chấp nhận được sự suy nghĩ khác với ḿnh là người thực sự tự tin và bao dung, hiểu đời, tôi không biết tác giả đă từng là một người lính, tác giả nghĩ thế nào?

 

Nhưng lời b́nh dù chỉ trích của các nhà thơ đem lại giá trị cho bài thơ rất cao? Chắc chắn nhà thơ hiểu được điều này nên không lên tiếng phản bác?

 

Theo như bạn viết: “có người đọc thơ cho là may rồi. Mà người đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích th́ đọc; đọc xong th́ bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi! Nay bài thơ Quê Nghèo có tới 3 người b́nh, thiết tưởng thế là rất đáng mừng cho nhà thơ và cho bài thơ rồi”.

 

Bạn nói rất đúng, nếu không yêu th́ b́nh làm chi? C̣n việc bạn cho rằng : “Ở một cường quốc thơ như Việt Nam”, không biết bạn có chủ quan hay không?

 

Đành rằng bây giờ không chỉ có kẻ sỹ hay người học chuyên văn, giới văn sỹ đọc thơ: “người đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích th́ đọc; đọc xong th́ bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!” tuy nhiên dù là một người ngoại đạo th́ tôi nghĩ, ai cũng có thể đọc thơ, cảm nhận thơ theo cách riêng của ḿnh. Nhưng tùy theo tŕnh độ và chuyên môn mà người b́nh có thể đánh giá bài thơ đó theo cách riêng của họ. C̣n theo bản thân tôi một bài thơ có ư tứ hay người nghe cảm thụ, ngoài ra c̣n có luật, do đó thơ Lục bát, thơ thất ngôn bát cú, thơ Đường Luật, thơ thất ngôn trường thiên phải theo đúng luật. Cái hay, cái tài t́nh cái thông minh của người làm thơ là ở chỗ đó? Ngoài ra qua thơ người ta có thể hiểu thấu được tâm tính và khí phách của người làm thơ. Đố ai t́m được chỗ sai nào trong bài thơ: Qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan!!!

 

Vài ư kiến của một người ngoại đạo. Ai thích th́ like, ai không thích cứ việc ném đá, tôi ở xa, đá không đến tận nơi.

 

*

 

Ngày 05 tháng 04 năm 2018

NGUYỄN BÍCH THỦY

facebook: Nguyen Bich Thuy

 

VỀ CHIẾC CỔNG LÀNG TRONG BÀI THƠ

“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

Tôi vừa hân hạnh đọc bài viết “Vài ư kiến quanh việc mổ xẻ bài thơ Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến” của tác giả Nguyễn Bích Thủy ở Bỉ.

 

Tôi thích bài viết nầy v́ lời văn điềm đạm, dễ thương. Trong bài chị Nguyễn Bích Thủy trích dẫn lại câu chữ của nhà thơ Phạm Đức Nh́ th́ nhiều mà ư kiến của riêng chị th́ lại ít. Không sao, đó là phong cách riêng của mỗi cây bút. Tôi chỉ không thống nhất với đoạn đầu chị Nguyễn Bích Thủy đă cho Đặng Xuân Xuyến chủ quan khi cho rằng chiếc cổng làng “Giam hăm đời người/ Tù túng giấc mơ”. Chị Nguyễn Bích Thủy cho rằng “sau cách mạng tháng 8 nông dân đổi đời….”. Nguyễn Bích Thủy quên rằng nông dân đổi đời nầy th́ phải nhận lại đời khác mà Đặng Xuân Xuyến là người lớn lên ngay trong làng, chứng kiến được sự đổi đời mới đó lại làm cho “Giam hăm đời người/ Tù túng giấc mơ” có khi c̣n hơn trước. Điều Đặng Xuân Xuyến nói cũng giống như Trần Dần nói: “Tôi bước đi/ Không thấy phố không thấy phường/ Chỉ thấy mưa sa trên lá cờ đỏ” đă làm chế độ tẩy chay ông, phải nhận chịu nhiều đau đớn suốt một đời văn.

 

Tôi nhất trí với cách nh́n của nhà thơ Đỗ Anh Tuyến trong bài viết “Thế thái nhân t́nh qua thơ Đặng Xuân Xuyến” khi cảm nhận về bài thơ Quê Nghèo:

 

Quê nghèo là một trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng ḷng đớn đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của ḿnh. Bài thơ chiếm được nhiều cảm t́nh của người đọc, được nhiều tác giả viết lời b́nh nhưng chiếc cổng làng - h́nh tượng độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được b́nh thoảng qua, trong khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.”

 

Nhà thơ Đỗ Anh Tuyến cho rằng chiếc cổng làng của Quê nghèo không c̣n là cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của t́nh trạng đất nước hiện nay. Đây là tiếng kêu thương thảm thiết về nỗi đau đă đè nặng lên cuộc sống của người dân. H́nh ảnh cái cổng làng “sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Nghạo nghễ trần ai” cũng là một trong nhiều hiện tượng gây hệ lụy cho người nông dân.

 

Với tôi những hiện tượng đó khó mà nói hết được trong một bài thơ hay trong một vài trang giấy.

 

Xin nhờ Đặng Xuân Xuyến gởi đến chị Nguyễn Bích Thủy bài góp ư nầy với một phần trong bài b́nh luận “Đọc Thơ Đặng Xuân Xuyến” của tôi có một đoạn nói về bài thơ Quê Nghèo:

 

 “Bài thơ “Quê Nghèo” không có sự bạo miệng của kẻ ngất ngưởng say, ngược lại là những giọt lệ rơi vào, là tiếng khóc nghẹn ngào trong tâm t́nh thổ lộ. Tôi lại mạn phép tóm gọn bài thơ dài 41 câu bằng 7 câu thơ của chính nó:

 

Quê tôi nghèo lắm

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính