Yên Bái Hoàng Liên Sơn
Cựu Tù
Trại Suối Máu, Biên Ḥa, vào tháng 9-1976, đă hơn một năm gọi là “học tập
cải tạo”, mù tịt, không biết tương lai ra sao cả. Hằng ngày chỉ lo miếng
ăn, và càng ngày ăn uống càng thiếu thốn, nhưng tuyệt đối không có chương
tŕnh lao động. Rồi một hôm, các anh đi lănh gạo về nấu cơm có bắt được
một tin. Dường như có người từ miền Bắc vừa vào, v́ các bộ đội trong này
hỏi họ: “Ngoài đó có nóng lắm không?” Vào Thu, ngoài đó mà nóng th́ v́ gió
Lào thổi qua.
Rồi một hôm, vào khoảng 10 giờ tối, lại có lệnh tập trung ra sân. Một danh
sách được đọc lên, và những người đó phải lấy hành trang tập trung lại
sân. Những người khác trở về láng ngủ như thường. Sáng sớm hôm sau, khi
thức dậy th́ số người hôm qua đă đi rồi… đi rồi, không biết đi đâu… Gần
chỗ nằm của tôi có anh biết bói, anh bói cho một quẻ, thấy số người hôm
qua rời trại Suối Máu, di chuyển về sân bay Tân Sơn Nhất, rồi từ đó biến
mất. Vài ngày sau, một đợt nữa được gọi, mà chỉ gọi các quan Đại Thần mà
thôi, rồi cũng đi cùng hướng, rồi biến mất ở Tân Sơn Nhất. Lúc đó, cấp Đại
Tá kể cả những người đă giải ngũ gồm có 375 người.
Ông Hà Trọng Tín được chỉ định làm đội trưởng đầu tiên của chúng tôi, c̣n
ông Phạm Văn Thường làm Đội Phó đầu tiên. Riêng Không Quân chúng ta có tất
cả 15 đại tá ở trại này vào lúc đó (sau này, ra Bắc rồi, gặp thêm anh Báu
bị bắt ở Đà Nẳng là 16 người, đến năm 1982 về trại Xuân Lộc lại gặp thêm
anh Sửu nữa là 17 người, cho đến sau cùng, chết mất anh Lê Minh Luân tại
Yên Bái, c̣n lại 16 người được tha về), đó là một tỷ lệ khá lớn. Số đại tá
giải ngũ cũng nhiều, nhưng con số không nhớ rơ. Các ông giải ngũ rồi và
các ông bác sĩ cấp đại tá đều không được gọi ra sân trong mấy đợt này, và
sau này được biết họ được giữ lại trong Nam, hoặc cho về nhà sớm v́ họ đă
quá già.
Người viết bài này đi vào đợt cuối cùng. Vào TSN bằng xe Molotova, chạy
theo đường Biên Ḥa - Thủ Đức - Cầu B́nh Lợi - Đường Chi Lăng - Đường vào
sân golf hay vào Nhà Thương Cộng Ḥa, rồi rẻ vào TSN qua khu Hàng Không
Dân Sự. Xong chạy theo đường bay Bắc Nam trước kia, rồi ghé vào các ụ chứa
máy bay ở phía Bắc phi trường. Bỏ chúng tôi tập trung vào một ụ lớn. Các
lính canh đứng trên bờ ụ, cầm AK-47 chỉ xuống chúng tôi. Trời gần sáng,
chúng tôi được xếp lên từng chiếc C-130, một tay bị c̣ng vào tay của một
người khác luôn luôn theo ḿnh, đi tiêu tiểu ǵ cũng đi chung.
Lúc đầu, máy bay bay về hướng mặt trời mọc, làm nhiều người phấn khởi ra
mặt, nhưng sau đó, mặt trời đổi hướng về bên phải, và cứ thế mà bay. Mọi
người bí xị, và thấy thời gian dài hơn bao giờ hết. Sau khoảng 4 giờ bay,
đáp xuống phi trường Yên Bái. Khi xuống máy bay, xung quanh rừng núi chập
chùng, những người chăm sóc phi đạo lấy vải ngụy trang che phi đạo sau khi
đáp. Có một số tướng lănh VC sáp lại gần và bảo với chúng tôi: “Đây là Bắc
Bó, quê hương của Cách Mạng”.
Chúng tôi được đưa lên xe Molotova chở về trại. Trên đường đi, quan sát
thấy hangar chứa Mig-19 và Mig-21 đều được cất bằng tre, sát tường núi,
rất khó mà nhận ra từ phi cơ bay nhanh, nhưng rất dễ nếu có ḍ t́m
infra-red, v́ đường di chuyển bằng concrete đi từ chỗ chứa máy bay ra phi
đạo. Hồi ở Biên Ḥa, đă từng thấy F-5 và Mig-21 cùng bay tập với nhau. Ra
Yên Bái, chỉ thấy toàn Mig-21, thỉnh thoảng có Mig-17 hay Mig-19 mà thôi.
Khi xe đến thị xă Yên Bái, chờ qua phà, như phà Chợ Gạo hồi năm 1957 vậy,
nghĩa là dùng sức kéo của người, truyền qua dây cable to dăng ngang qua
sông. Nhưng rồi cũng từ từ qua được. Xe Molotova tiếp tục theo những con
đường đất đỏ, không có lót ǵ cả, chỗ bằng phẳng, chỗ có ổ gà, chỗ rộng,
chỗ hẹp. Chúng tôi được chở đến Liên Trại 1, và tập trung lại ở Trại 2,
nhà có lợp ngói đỏ. C̣n xung quanh đó, không thấy bóng một nhà lợp ngói
nào cả. Sau này, khi đă đi lao động bên ngoài, chúng tôi thấy một nhà nhỏ
khác, đó là trường tiểu học của xă. Các tướng lănh của ta, trong đó có hai
tướng KQ, được ở một nhà tre khu gần chúng tôi.
Trại ngói của chúng tôi quá hẹp so với số lượng tù vừa chở ra. Không lẽ họ
đă nghĩ chắc là số đại tá không nhiều lắm. Do đó, chúng tôi chỉ nằm ở
trong một phần, ngoài hành lang một phần, và một phần khác ở dưới một mái
tre gần trại ngói, mà cũng là nơi làm bếp. Ở đó, cái nền mới đắp, c̣n ướt,
nên nằm phải lót một tấm nylon, nếu không sau này sẽ bị phong thấp. Như
vậy là không cửa nẻo ǵ cả. Tối trời hay sáng trăng, có thấy bộ đội canh
gác hay không, mỗi khi di chuyển th́ hô lên: “Báo cáo bộ đội, tôi đi ra”
hay sau khi tiểu tiện th́: “Báo cáo bộ đội tôi đi vào”. Tất nhiên, đă có
anh hô to: “Báo cáo bộ đội, tôi đi ỉa.”
Tôi tự hỏi, chắc nó bắt ḿnh làm như vậy để ḿnh cứ tưởng có người để mắt
theo dơi, chứ hơi sức nào, v́ một lần đi ra hay đi vào có cả 10 người hay
hơn. Nên tôi muốn thử cho đến độ nào th́ bảo ḥa. Lúc cao điểm, tôi đi ra
mà không báo cáo ǵ cả. Đi ngang qua bộ đội đứng im trong bóng tối, đùng
một cái phóng ra chận đầu tôi, lấy tấn, chỉ mũi súng vào tôi và bảo: “Sao
không báo cáo”. Tôi ấp úng: “Chưa tỉnh ngủ mà báo cáo cái ǵ?” Hắn bảo:
“Rút kinh nghiệm, lần sau nhớ báo cáo rồi mới đi”.
Trại ở Yên Bái do Bộ Đội quản lư. Ít hôm sau, chúng tôi gặp một số mặc đồ
tù loại sọc, vải do Trung Quốc dệt, xem rất ngộ nghỉnh, đó là vải mà tù
binh Mỹ mặc trước kia, bằng loại vải ấm và bền hơn vải ta mà Nam Định dệt
và họ cấp phát cho chúng tôi sau này. Tạm thời th́ chúng tôi dùng quần áo
lính cũ của miền Nam mà chúng tôi lấy từ trại đầu tiên là Trung Tâm Huấn
Luyện Địa Phương Quân của Sư Đoàn 18 cất trên đường Xuyên Mộc - B́nh Giả.
Tại Yên Bái, chúng tôi phải qua ba trại khác nhau. Trước hết là trại nhà
ngói vừa kể, sau đó là trại 2 trong cốc, và sau cùng là trại 3 sâu trong
cốc hơn nữa.
Cái cảm giác đầu tiên ở trong vùng núi Hoàng Liên Sơn là ḿnh cảm thấy cái
ǵ cũng quá to lớn, trùng trùng điệp điệp, từ núi nầy sang núi nọ, không
thấy chân trời là đâu cả. Con người của Hoàng Liên Sơn có cái ǵ khác lạ.
Họ có phải là người Việt không? Dường như không giống! Họ có cái nh́n vừa
ṭ ṃ, nhút nhát, đôi khi lại có vẻ thù hận. Chính tù với nhau cũng không
c̣n ǵ để nói, ai ai cũng sống với suy nghĩ riêng tư của ḿnh, mà cái buồn
thấm thía nhất là có lẽ sẽ không c̣n gặp lại gia đ́nh, cha mẹ, vợ con nữa.
Ra đây rồi, có lẽ sẽ bỏ xác nơi đây. Một vài dấu tích của sinh hoạt tù
binh Mỹ trước kia, như cây gậy đánh base ball, và bộ đội cũng có nói với
chúng tôi rằng: “Mỹ khỏe như trâu, nhưng ăn cũng dữ lắm”. Nhưng Mỹ th́ c̣n
có luật tù binh, có hiệp định là chúng đă được tự do. C̣n chúng tôi th́
chỉ biết “mút mùa …” là “mọt gông...” Sau nầy, về nhà nghe vợ con nói lại
th́ họ cũng dự trù nhốt chúng tôi cho đến ngày tàn.
Mỗi người sống với suy nghĩ riêng của ḿnh, ít nói ít cười. Tôi rất ṭ ṃ
với nhóm nhỏ của anh Báu, những người đă ra đây trước chúng tôi, và là
những người chuẩn bị rất nhiều để tiếp đón chúng tôi. Đó là những anh biệt
kích ra Bắc đă bị bắt, những người đă bị bắt trong trận Lam Sơn 719, những
người đă bị bắt khi mất Đà Nẳng… Có người họ c̣n cho nói chuyện và gặp gỡ,
nhưng cũng có người họ tuyệt đối giữ bí mật, như anh Nguyễn Văn Thọ, cựu
Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Nhảy Dù tham dự Lam Sơn 719.
Mới đầu, họ bảo đă thả anh Thọ rồi, vài tháng sau đi lao động lại gặp anh
Thọ. Họ dấu anh Thọ suốt thời gian chúng tôi ở Yên Bái, măi đến khi chúng
tôi di chuyển xuống đồng bằng giao cho Công An quản lư, chừng đó, anh Thọ
mới cùng chúng tôi xuống Nam Hà.
Phần chúng tôi, người ta “biên chế” thành đội, có người chỉ được làm vệ
sinh láng trại (tuyệt đối không được xuất trại, thường là thành phần họ
đặc biệt chăm sóc, không để bị thất thoát, như cấp Tướng, như trong ngành
t́nh báo, an ninh…) có người chỉ làm công việc nhẹ v́ đă quá già và nhiều
bệnh tật, chắc họ cũng đă có Mẫu số 8 nhưng muốn nán lại trong quân đội để
hưởng lương, những người này cũng làm việc trong láng như đan lát, bệnh
giây thừng.v.v… Những người khỏe hơn một chút, tuy cũng xem như thiếu sức
khỏe để lao động nặng, th́ vào các đội trồng rau, nuôi lợn. C̣n lại là lao
động nặng, đi rừng lấy củi hằng ngày để có củi nấu nướng, lấy gỗ xây cất
nhà cửa, làm cột đèn cho xă hay Liên Trại theo nghĩa vụ với cấp cao hơn
trong vùng, làm ruộng, phát nương, thu hoạch gổ để làm giấy… toàn việc
nặng. Nói chung chung th́ giữa hai việc trồng rau và đi rừng th́ đi rừng
giống như đi bay trực thăng hay khu trục, không biết chết ngày nào, nhưng
cũng có cái sướng của nó. C̣n trồng rau th́ nhàn hạ hơn, nhưng phải chịu
cảnh hôi thối, v́ chỉ có phân tươi 100% mới bảo đảm chỉ tiêu 50kg/mỗi
người/một tháng. Ngày ngày dành dựt nhau lấy nước tiểu, lấy phân, thậm chí
có người ngồi chờ cho phân rớt ngay xuống xẻng của ḿnh chứ không giám bỏ
chỗ. Những người có kinh nghiệm trồng rau, sau này về sinh hoạt với gia
đ́nh, nếu phải sống ở vùng kinh tế mới, th́ họ sẽ mang kinh nghiệm ra giúp
cho cuộc sống dễ dàng hơn, v́ mục tiêu cải tạo là giúp cho đối tượng sống
một cuộc sống tự lực cánh sinh khi được tha. Những người trong đội lao
động nặng là những người phải dự trù sống măi trong tù, là những thành
phần phải được triệt để khai trừ khỏi xă hội v́ họ c̣n sức lực, trong
tương lai có thể làm bậy, lănh đạo chống đối chánh quyền. V́ vậy, họ phải
được giao cho việc thật nặng để có muốn trốn trại cũng không c̣n sức để
trốn, để họ sớm trở thành như các cụ già nằm trong láng kia mà ngâm thơ
trách đời… trách cấp trên.
Chúng tôi được biên chế vào đội lao động nặng, cùng với các anh đă từng
làm Trung Đoàn Trưởng, Chỉ Huy Trưởng hay Phó các Biệt Khu, các Tỉnh
Trưởng, toàn là các anh hùng tứ xứ, nay mới gặp nhau ở nơi này. Khu rừng
mà chúng tôi thường vào khai thác từ trại này chỉ cách trại từ 3 đến 5 km,
nhưng phải qua một ngọn đồi khá giốc. Mỗi ngày mỗi người hai bó “chổm”, là
một loại tre, kính cở 5 cm, dài độ 4,50m. Họ dùng chổm để làm mái thay
ngói, để làm vách tô bùn, để làm rui lợp nhà, để đan rổ rá… Nói cách khác,
rất cần, và ngày nào cũng đi. Lúc đầu, đi vào một khu vực mà có tới 5 đội.
Phải dành nhau mà đốn cho kịp, ai chậm chạp phải đi t́m xa hơn. Đốn đủ chỉ
tiêu hai bó, mỗi bó 10 cây, tập trung về một điểm rồi cùng nhau vác về.
Sau này, chúng tôi được cùng một anh bạn tù khác được chỉ định kết tất cả
các bó chổm thành một cái bè, rồi chống bè về sau. Ra đến đập nước th́ sẽ
có các toán khác từ trại ra để vác về. Chính trong lúc đốn chổm này, anh
Quế nhà ta đă trốn trại và bị dân bắt lại 6 ngày sau.
Mỗi ngày về quá mệt mơi, chỉ muốn đi tắm giặt, ăn xong rồi ngủ. Chủ Nhật
mới có th́ giờ nói chuyện với các bạn ở đội khác, như các đội làm rau, làm
ruộng. Một hôm, có người nói: “Tôi biết ‘ḅ thất’ ở đâu rồi” - Cái ǵ? -
“Ḅ thất là các ông tướng của ḿnh đó”. Té ra là các anh lấy bài domino để
chỉ lon lá. Thiếu Úy là ‘ḅ nhất’, nhưng ‘ḅ thất’ th́ ngoại lệ rồi. Chúng
tôi là ‘ḅ lục’. Dân th́ gọi chúng tôi là ‘ngụy’. C̣n chúng tôi gọi nhau
bằng ‘ḅ’, gọi VC là ‘cối’ hay là ‘chèo’. Có nhiều từ không biết từ đâu mà
có, nói măi cũng quen. Cối th́ không thích chúng tôi nói chuyện với nhau.
Trong khu vực, rất nhiều đội, nhưng họ làm kế hoạch hành quân khá tốt,
không khi nào để cho hai trại có dịp thông tin cho nhau trong những lúc đi
lao động (để tránh kết hợp nhau mà trốn trại hay làm loạn). Một hôm, có
đội làm ruộng về kể một chuyện nực cười. Anh dắt trâu của hợp tác xă xuống
ruộng cày ruộng. Khi đang cày dỡ lỡ một luống, có kẻng nghỉ giải lao, tức
khắc con trâu leo lên bờ đê ăn cỏ, anh kéo xuống, nhất định không xuống.
Con trâu cũng biết tranh thủ, là quyền lợi của nó, trong lúc đó, tác phong
của ta là làm hết việc, không làm hết giờ, cũng là một tác phong cần sửa
đỗi trong xă hội XHCN.
Vài tháng sau, chúng tôi dời vào cốc, một trại cất toàn chổm. Trong khu
vực này, bị tre cắt đứt tay chân là chuyện thường, nhưng tuyệt đối không
thấy một cây đinh. Vào trại này, đội lao động nặng chúng tôi tham gia một
công tŕnh lớn là đắp một đập nước, dài chừng 30m, rộng của đập khoảng
10m. Dự trù khi có nước trong đập th́ sẽ nuôi cá trám cỏ, một giống cá ăn
không ngon lắm v́ thịt nhăo, nhưng chỉ nuôi bằng rau cỏ, nghĩa là lấy công
làm lời. Cá to cũng cả thước tây, nhưng chưa có cá là chúng tôi đă đi nơi
khác. Công tŕnh xây đập là gian khổ, nhọc nhằn, tuy không mấy nguy hiểm.
Trái lại, vét ao nước động lâu ngày là một việc làm quá nguy hiểm, v́ phân
nửa những người tham gia đều đi nằm nhà thương v́ bị sốt xuất huyết, trong
đó có Vơ Quế và Lê Minh Luân. Vơ Quế may mắn khỏi bệnh, c̣n anh Luân bị
chết v́ trúng lạnh, sưng phổi sau khi vừa hồi phục bệnh sốt xuất huyết.
Trước khi chết, anh Luân bảo: “Phải chi được một tách cà-phê th́ sướng
quá”. Tại trại bệnh mà anh Luân chết, Không Quân cũng để ở đó Trưởng Pḥng
Thăng Thưởng và Huy Chương cũ, là Trung Tá (hồi hưu) Nguyễn Phước Kiêm.
Nửa năm sau, trại chúng tôi lại tách làm hai, và chúng tôi theo các bạn
vào trại 3 trong cốc, xích vô trong núi một tí nữa. B́nh thường, công việc
chỉ là đốn cây chổm, trồng khoai lan, khoai sắn (khoai ḿ). Nhưng có hai
công tác làm tôi nhớ măi là “Phát Nương” để trồng bắp, và thu hoạch cây bồ
đề để làm giấy.
Phát nương làm rẫy là việc người miền núi thường làm, nhưng qui mô ở đây
là việc làm của 150 người. Dao phát là một loại dao đặc biệt, giống như
cây Thanh Long Đao của Quan Vân Trường vậy. V́ ḿnh tiến lên giốc, chặt
gốc cây bằng cườm chân trở xuống, c̣n lại phải xử lư bằng riều. Một anh
bạn khác dùng tay trái và tôi thủ riều bàng tay phải. Chúng tôi đốn cây to
có khi lên tới hai ôm. Nguy hiễm nhất là có một lần gặp loại cây xoắn vào
nhau khi mọc lên. Muốn đốn cây to bên trong th́ phải đốn cây quấn bên
ngoài trước. Khi đốn th́ chúng tôi cùng đốn một lượt, một đứng bên này,
một bên kia, nhưng khi gần đứt gốc th́ chúng tôi ngồi nghỉ để nghĩ kế, v́
cây sẽ tuông ra bên người nào th́ người kia phải dứt một ḿnh. Đúng là
phần tôi phải dứt. Anh bạn ra ngồi cách gốc cây độ 5m, lấy thuốc ra hút.
C̣n tôi dọn dẹp kỹ lưỡng xung quanh gốc cây rồi cầm riều vào dứt cho đứt
gốc. Khi vừa đứt, cây bung ra ngoài thật mạnh cách gốc cây mẹ chừng 2m và
bắt đầu tuông như ḷ xo, quay hơn một ṿng , xong c̣n trả ngược lại giống
như nó t́m tôi trả thù. Tôi may mắn thoát được nhờ đă chuẩn bị chỗ trước
để phóng ra ngoài nằm sát mặt đất mới tránh khỏi. Hai đứa chúng tôi hú hồn
hú vía, dù đă đoán trước nó sẽ làm như vậy nhưng không ngờ nó nhanh quá.
Một gốc gây cở 2 tấc bề kính mà tán vào đầu một cái th́ chỉ có nước chầu
Trời. Dọn nương xong, chờ cây khô th́ đốt rồi lại dọn gốc cây nhỏ cho sát
mặt đất. Sau đó sẽ gieo hột bắp, và đến khi thu hoạch th́ dường như không
được bằng phần bắp giống đă mua, v́ khỉ và két ăn hết. Thú rừng ở đây theo
dân mà sống. Dân sống chỗ nào th́ có cây ăn trái, có bắp, có khoai, sắn,
có cao lương. Trái lại, đi sâu vào hướng Tây và hướng Bắc th́ rừng già
không có ǵ ăn được.
Ở trại này, chúng tôi c̣n đi khai thác gổ bồ đề để làm giấy. Công tác này
giao cho hai trại 2 và 3, toàn ‘ḅ lục’. Chúng tôi chia làm ba bộ phận,
một lo đốn cây và đoăn ra từng khúc 4 m, bề kính nhỏ nhất là 2 tấc. Một bộ
phận di chuyển gỗ ra dàn phóng từ trên đồi xuống đường cái. Một bộ phận
chừng 4 người ở dưới đường cái để coi chừng cho người qua lại trên đường,
và dẹp các khúc gỗ xếp theo loại lớn nhỏ. Công tác đốn có nguy hiểm của
nó. Khi có cây chóng chày, th́ ngưng không đốn mà chờ chuyên viên lâm
nghiệp đến giúp đỡ. Chóng chày là khi ḿnh chặt gốc cho một cây ngả, cây
đó lại không ngă hẳn xuống đất mà ngọn của nó lại vướng vào một cây gần đó
rồi chóng đó. Khi ta đốn cây chóng (đứng thẳng) th́ cây chày (nằm nghiêng)
rớt xuống từ trên cao, không biết rớt vào đâu mà chạy. Đốn cây trên đồi
cao, ngại nhất là gió dật. Ta xem chiều gió để định hướng cho cây đỗ. Nếu
gió Bắc thí cho cây đỗ về Nam. Ta sẽ mở miệng phía Nam, và chặt gáy phía
Bắc. Ta định là như vậy, c̣n Trời định là cái khác. Có lần tôi thấy mà
phát sợ. Một nhóm đốn một cây bồ đề bỏ hoang trên đỉnh đồi. Cây to cở hai
ôm. Khi mở miệng được chừng phân nửa thân cây th́ có một luồng gió mạnh
giật ngược ngọn cây lại (ngọn cây bật ngược về hướng đối nghịch với hướng
ḿnh dự trù cho ngă) làm thân cây xé ra từ chỗ mở miệng, phần gốc phóng
nhanh về hướng mở miệng độ 10 m và bắn lên cao, xong đập mạnh xuống đất
làm thân cây vỡ ra thành hai mảnh nữa. Tôi thấy cái nón cối mà anh đội
trưởng dùng đă bị nát nghiến từng mảnh nhỏ. Chặt ra làm tư, đoăn ra từng
2m, mỗi khúc phải 4 người khiêng. Khiêng gổ cũng có cái nguy hiểm của nó.
Tôi nhớ có lần hai anh khiêng, một người một đầu, bổng đàng trước làm rớt
cây khỏi vai mà đàng sau không hay kịp để vất gỗ, nên đầu cây đánh vào sọ
một cái, làm anh ấy bị té bất tỉnh, nằm nhà thương nhiều ngày, và dường
như thị lực cũng giảm nhiều. Gian lao là thế. Tối chỉ chờ giờ ngủ để lấy
sức ngày mai đi làm. Chúng tôi có tiêu chuẩn 6 lạng ngày về chất bột, quy
ra thành sáng được bốn khúc khoai ḿ, trưa sáu khúc, chiều sáu khúc, có
rau muống luột và nước muối. Lúc nào cũng thấy đói. Lúc đó, đă bắt đầu cho
phép gia đ́nh mỗi tháng được gửi ra một gói quà, không quá 5kg. Khi thiếu
chất đạm (protein) th́ ḿnh lại thèm đường, nhưng thà thiếu ăn, tôi không
để thiếu hút. Có khi tôi lấy nửa phần ăn sáng đỗi lấy nửa gói thuốc lá,
hay nửa phần thuốc lào. Có khi tôi được 8 gói thuốc một tháng, và tháng đó
phải nhịn đường luôn. Có người đi mua đường về bị say đường, khi người chủ
bán đường họ cho vét hủ. Đường c̣n có công dụng chữa một thứ bệnh, là bệnh
say sắn (khoai ḿ) v́ trong chất của nó có độc khi ta ăn chưa quen, nhất
là lấy đọt sắn luột mà ăn cho đỡ đói. Chỉ có đường mới trị bệnh say sắn,
đừng khi nào dùng aspirine. Các cán bộ họ nói: “Các anh chưa rèn luyện bao
tử. Khi chúng tôi di chuyển trên đường ṃn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam, đi
liên tục mà mỗi ngày chỉ có một vắt cơm mà thôi”.
Vất vả ban ngày, tối lại nghe lên lớp, nhất là khi bữa nào cán bộ quản
giáo được Đảng “mở mắt” cho. Nghĩa là anh ta vừa được học cái ǵ mới đó,
về khoe lại với chúng tôi là ḿnh biết. Khi có kẻng 9 giờ đêm, chúng tôi
xếp hàng điểm danh trước khi đi ngủ, tập họp ngoài sân nếu trời không mưa.
Có hôm, anh cán bộ lên lớp: “Các anh phải biết quí trọng tài sản của nhân
dân. Như đốn cây làm giấy, không được phí phạm, đừng đốn xa gốc quá. Các
anh có biết không, nước ta có một rừng cây rất quí. Liên Sô chỉ có mấy cây
loại này, nó trong suốt như pha lê, lại có lơi đỏ như một chỉ hồng xuyên
suốt. Liên Sô định đổi với ta rừng cây đó, và nếu được, họ sẽ mang trực
thăng lại bứng cả rễ, họ đổi cây đó và cho Đông Dương một Trạm Thủy Điện ở
thác Khon, có thể cấp điện cho ba nước Việt Miên Lào”. Khi tan hàng, anh
em cười khúc khích rồi đi ngủ. Hôm sau, cán bộ gặp antenne hỏi nhỏ: “Tại
sao các anh cười?” - “Họ cho rằng cán bộ nói láo hay quá!” - “Nói láo sao
được, sách của Đảng ghi rơ như vậy, không lẽ sách Đảng viết sai sao?”
Chúng tôi ở Yên Bái gần hai năm dưới sự quản lư của Bộ Đội và… dân tộc
Dao. Sau đó, chúng tôi về Hà Tây và Nam Hà để bắt đầu chịu sự quản lư tinh
vi hơn của Công An. Vùng Yên Bái có cái độc ḿnh phải đương đầu là chính
ḿnh. Đừng v́ quá đói mà ăn bậy. Có anh lấy lá sâm trong rừng về ṿ ra, để
đông đặc mà ăn. Một tuần sau, anh bị lạnh run cả tháng trời không dứt. Cứ
thế mà đợi cho cơ thể tự giải quyết chứ không có chữa trị ǵ cả. Có lần
tôi nghe có lệnh tập trung thuốc trụ sinh lại, tôi bèn dấu dưới sạp tre.
Khi cần đến chỉ c̣n lại phần màu trắng ở trong, c̣n phần vỏ bộc bên ngoài
đă bị dán ăn hết v́ nó ngọt. Tới khi tôi bị cúm đường ruột , mỗi ngày đi
tiêu 20 lần, thuốc Kiết, thuốc sulfamide, anh Tiên cho tôi uống hết thuốc
của anh mà bệnh vẫn c̣n. Đến khi tôi liều mạng, lấy mấy viên tétracycline
bọc đường bị dán ăn ra uống th́ dứt ngay, và chỉ vài ngày sau là lên đường
đi xuống núi. Kẻ thù độc nhất hằng ngày của chúng tôi khi đi rừng là con
vắt. Nó nhỏ hơn con đĩa, hút máu người và thú đi ngang qua cành cây là bị
nó bắn vào người, rồi chui vào chỗ kín, măi cho đến khi về nhà cởi quần ra
thấy nó đă no máu và rớt xuống đất. Anh em ngạo nhau nói anh bạn ḿnh đang
có kinh kỳ. Những con cái thường để lại một vết thẹo lâu lành, cứ ngứa mà
gải vào là tươm máu ra. Dường như khi con vắt hay đỉa hút máu th́ chúng có
một chất ǵ đó làm cho máu loảng ra. Đă nghèo lại mắc cái eo. Chúng tôi
không biết là chúng tôi đă gầy đến đâu. Nhưng có hôm, tôi đứng trên đồi
nh́n các bạn tôi tắm dưới giếng, thấy thật hỡi ơi, người nào cũng chỉ c̣n
bộ xương khô, th́ ḿnh chắc cũng thế thôi…
Cựu Tù
|