Cuộc di cư vĩ đại chạy trốn Cộng-sản 1954-1955

   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong những năm đầu tiên của chế độ, khi toàn dân cùng với chính quyền bắt tay vào việc xây dựng đất nước, th́ đă gặt hái được những thành quả ngoạn mục như sau: 

 

Trước hết là việc chuyên chở và định cư cho hơn 900.000 người di cư, trong đó có gần 700.000 người Công giáo. Việc chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam được kế hoạch và sử dụng phương tiện chuyên chở của Pháp và Mỹ. C̣n việc định cư th́ hoàn toàn chỉ do tiền viện trợ của Mỹ đài thọ. Công cuộc định cư sở dĩ hoàn thành mau chóng và tốt đẹp là một phần nhờ ông Diệm đă chọn được, những vùng đất ph́ nhiêu rộng lớn cho dân di cư. Ví dụ như ông Diệm đă:

 

- Lấy đất Cái Sắn màu mỡ cấp phát cho 45.000 nông dân.

 

- Lấy bờ biển B́nh Tuy và đảo Phú Quốc, nổi tiếng nhiều hải sản cho dân chài lưới.  

 

- Lấy Long Khánh, Định Quán, Gia Kiệm, Hố Nai cho dân khai thác lâm sản và làm đồ mộc. 

 

- Lấy Ban Mê Thuột và Cao Nguyên đất đỏ ph́ nhiêu cho dân trồng trọt hoa mầu xuất cảng.  

 

- Lấy vùng Ngă Ba Ông Tạ, Tân B́nh, G̣ Vấp chung quanh Sài G̣n cho dân thương măi và kỹ nghệ …

 

        Nhờ tiền bạc dồi dào của Mỹ, nhờ chính quyền dành cho mọi sự dễ dàng, nhờ Tổng Thống Diệm chú tâm nâng đỡ, chẳng bao lâu người dân di cư miền Bắc đă hội nhập dễ dàng vào cuộc sống của dân miền Nam, mà trước đó họ coi là vùng đất xa lạ.

 

Và cũng chẳng bao lâu, đời sống dân di cư đă đi từ ổn định, đến trù phú c̣n hơn cả dân địa phương. Công cuộc định cư mau chóng và tốt đẹp cho hơn 900.000 người di cư, đă làm cho các quốc gia trên thế giới, nhất là Hoa Kỳ phải khâm phục. Một bác sĩ trẻ của Hải Quân Mỹ, ông Tom Dooley, một nhân vật rất mộ đạo Thiên Chúa, từng tham gia vào việc chuyên chở người Bắc di cư vào Nam, Ông nhận thấy tinh thần chống Cộng cao độ của người Thiên Chúa giáo Việt Nam, nên ông đă t́nh nguyện ở lại miền Nam để thực hiện nhiều công cuộc nhân đạo, viết sách ca ngợi công tŕnh di cư và định cư, làm cho nhân dân Mỹ càng thêm kính phục Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm.

 

Đây là một thành công lớn về mặt xă hội của chính quyền VNCH.

 

Trong những năm 1955–1956. Ngoài công cuộc định cư cho dân miền Bắc, nhiều cải cách xă hội, cũng như những biến cố chính trị tốt đẹp khác, càng làm tăng thêm uy tín của ông Diệm:

 

- Ngày 4 tháng 4 năm 1956, Chính Phủ bắt ông Ưng Bảo Toàn, Tổng Giám Đốc thương măi ở Bộ Kinh tế v́ tội bán gạo chợ đen cho VC.

 

- Ngày 28 tháng 4 năm 1956, quân đội viễn chinh Pháp xuống tàu về nước.

 

- Ngày 13 tháng 7 năm 1956, xử tử tướng Ba Cụt, một vị lănh tụ nghĩa quân Ḥa Hảo, chấm dứt t́nh trạng mất ổn định tại miền Tây Nam phần.

 

- Ngày 21 tháng 8 năm 1956, Chính Phủ bắt ông Vũ Đ́nh Đa và đồng bọn về tội biển thủ mấy triệu bạc của Ngân Hàng Quốc Gia.

 

- Ngày 26 tháng 10 năm 1956, ông Diệm tuyên bố thành lập nền Cộng Ḥa.

 

Sau trận Điện Biên Phủ, Hiệp Định Genève được kư kết giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và Pháp, tạm thời chia đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Hệ thống bộ máy dân sự và lực lượng quân sự của chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa được tập trung ở miền Bắc, và hệ thống bộ máy dân sự và lực lượng quân sự của chính quyền Liên Hiệp Pháp được tập trung ở miền Nam, chờ ngày tổng tuyển cử tự do, dự kiến sẽ xảy ra vào ngày 20 tháng 7 năm 1956. Điều 14 phần (d) của Hiệp định cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia, và yêu cầu phía quản lư tạo điều kiện cho họ di cư trong ṿng 300 ngày sau thoả hiệp đ́nh chiến (Điều 2), tức chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955.

 

Để giám sát thực thi hiệp định, Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến được thành lập theo điều 34 của Hiệp Định với đại diện của ba nước Ấn Độ, Ba Lan, và Canada.

 

Theo tuần báo Time, những người di cư vào miền Nam, đặc biệt những người Công giáo Việt Nam, cho rằng họ đă bị đàn áp tôn giáo dưới chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (Cộng Sản). Nhiều người lại v́ lư do chính trị : họ là những người làm việc cho Pháp, hay giới tư sản, tiểu tư sản không có cảm t́nh với Chính Phủ Cộng sản. Một số người là nạn nhân của cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam, bị lấy mất tài sản nên phải bỏ ra đi. Vào lúc này, các Linh Mục miền Bắc cũng đă giục giă các con chiên di cư vào Nam.

 

Bên phe Cộng Sản luôn t́m cách phá hoại cuộc di cư của đồng bào. Những tờ bích chương và bươm bướm do Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng, biết về quyền tự do di tản th́ không được chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Cộng Sản) phân phát.  Hơn nữa chính Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến đă mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà về hành động “cưỡng bách di cư”.  Trong số 25.000 người Uỷ Hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị “cưỡng bách di cư” hay muốn trở về Bắc cả, như lời tố cáo láo của phe Cộng Sản.

 

Ngoài những người di cư vào Nam v́ lư do tôn giáo (chiếm 2/3 tổng số), số c̣n lại là những người thuộc khuynh hướng chính trị chống Cộng Sản. Những người có liên hệ với chính quyền Pháp hay Chính Phủ Quốc Gia. Thành phần tư sản thành thị và những gia đ́nh nông thôn lo ngại v́ chính sách cải cách ruộng đất. Thêm vào đó là những người thuộc dân tộc thiểu số, đă từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên.

 

 

Tiến tŕnh

 

Hàng loạt tàu há mồm (landing ship) đă đón người di cư rời miền Bắc. Ngày 9 tháng 8 năm 1954. Chính phủ Quốc gia Việt Nam của tân Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm, lập Phủ Tổng Uỷ Di Cư Tỵ Nạn, ở cấp một Bộ trong Nội Các với ba Nha đại diện: một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư.

 

Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức. V́ không có đủ phương tiện cho những người di cư vào Nam, nên chính quyền Pháp và Bảo Đại phải kêu gọi các nước khác giúp chuyên chở và định cư.  Các Chính Phủ Anh, Ba Lan, Tây Đức, Nam Hàn, Hoa Kỳ, Nhật, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Trung Hoa Dân quốc, Úc và Ư hưởng ứng cùng các tổ chức Unicef, Hồng Thập Tự, Catholic Relief Services (CRS), Church World Services (CWS), Mennonite Central Committee (MCC), International Rescue Committee (IRC), Care và Thanh Thương Hội Quốc tế.

 

Ngày 4 tháng 8 năm 1954, cầu hàng không được nối phi trường Tân Sơn Nhứt, Sài G̣n trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Pḥng ngoài Bắc được thiết lập.  Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung b́nh mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.

 

Ngoài ra, một h́nh ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là “tàu há mồm” (landing ship), đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đă giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan... giúp được 655.037 người “vô Nam”. “Nam” được hiểu là cả dải duyên hải miền Nam Việt Nam, từ Đà Nẵng tới Vũng Tàu. V́ số người di cư quá đông, Cao Uỷ Pháp đă xin gia hạn thêm ba tháng và phía Hà Nội đă thoả thuận, nên ngày cuối cùng thay v́ là ngày 19 tháng 5 được đổi thành ngày 19 tháng 8. Trong thời gian gia hạn, thêm 3.945 người đă vượt tuyến vào Nam.  Chuyến tàu thuỷ cuối cùng của cuộc di cư cập bến Sài G̣n vào ngày 16 tháng 8 năm 1955.

 

Thêm vào đó, c̣n tới 102.861 người tự t́m đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng. Tính đến giữa năm 1954 và 1956, khoảng trên 900.000 – 1.000.000 người đă di cư từ Bắc vào Nam, trong đó có khoảng 700.000 người Công Giáo, tức khoảng 2/3 số người Công Giáo ở miền Bắc đă bỏ vào Nam.

 

Tất cả những thành công trong hai năm đầu của chế độ được xem như là kết quả của những nỗ lực, của một chính quyền tuy c̣n yếu kém về mặt quản trị, nhưng lại được một sự quyết tâm cộng tác của toàn dân. Tuy nhiên những nỗ lực này, tự nó và nếu chỉ riêng nó, cũng chưa đủ để hoàn thành việc củng cố miền Nam, nếu không có sự yểm trợ tối đa và vô điều kiện của Hoa Kỳ.  Mà đặc biệt là của ba người Mỹ đă từng liên hệ chặt chẽ với ông Diệm từ trước. Đó là Hồng Y Spellman, Giáo Sư Buttinger và một nhân vật cao cấp CIA, ba nhân vật (từ đầu) đă hoán cải được quan niệm của Tổng Thống Eisenhower, vốn đă muốn bỏ rơi Việt Nam.

 

Trong ba nhân vật đó th́ Đại tá Lansdale đóng vai tṛ cố vấn trực tiếp bên cạnh Tổng thống Diệm. Ông ta nổi tiếng đến độ không một nhà viết sử nào, khi nói đến sự nghiệp của ông Diệm mà không nhắc đến thân thế và hoạt động của ông ta. Đại tá Lansdale đến Đông Dương từ năm 1954, làm cố vấn phản du kích cho quân đội viễn chinh Pháp.

H́nh Ảnh Di Cư Năm 1954: Từ Bắc vào Nam YouTube:

 

 

VN: Cuộc Di Cư Lịch Sử 1954

 

 

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính