Chữ quốc ngữ phổ biến là từ ai?

 

 

Chữ quốc ngữ của người Việt ngày nay được công nhận là một trong 23 ngôn ngữ chính trên thế giới. Đó là điều mà hàng trăm dân tộc khác có nằm mơ cũng chưa thấy (kể cả người Thái Lan).

 

 

Nên nhớ trước đây người Nhật đă có ư định latinh hóa tiếng Nhật nhưng đă sớm từ bỏ ư định này và nhất là ông Mao Trạch Đông đă thất bại thảm hại với tư tưởng bành trướng chữ Hán và tiếng Hán của ḿnh bằng các kư âm latinh.

 

***

 

Hiện nay trên thế giới người ta thống kê có ít nhất 7.102 ngôn ngữ được biết đến, trong đó có 23 ngôn ngữ là tiếng mẹ đẻ của cộng đồng có hơn 50 triệu người dùng. Có 4,1 tỉ người dùng 23 ngôn ngữ này. Tiếng Việt Nam may mắn là một trong số đó. (không thấy tiếng Thái Lan). Trên bản đồ, mỗi ngôn ngữ được đặt trong các đường viền đen và được ghi chú số lượng người bản ngữ (tính bằng triệu) theo quốc gia. Màu sắc của các quốc gia này cho thấy ngôn ngữ đă bén rễ như thế nào ở nhiều khu vực khác nhau.

 

Là người Việt chúng ta nên biết ơn những người đă sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ để ngày nay tiếng Việt c̣n hiện diện trên bản đồ thế giới, không như người Quảng Đông (người Mân Việt) với hơn 62,2 triệu người mà phải sử dụng chữ Hán và bị đồng hóa.

 

Fb Le Van Quy

 

***

 

VUA THÀNH THÁI ĐI ĐẦU TRONG CẢI CÁCH GIÁO DỤC BẰNG VIỆC BAN HÀNH SẮC LỆNH KHUYẾN KHÍCH HỌC CHỮ QUỐC NGỮ

 

 

1/ Vua Thành Thái, 1879-1954, tên khai sanh là Nguyễn Phước Bửu Lân 阮福寶. Nhân đây, lại phải nhắc: có hai cách đọc Phước / Phúc, có hai cách đọc Bửu / Bảo. Hăy tôn trọng, đừng giở tṛ kệch cỡm, bất lịch sự là sửa tên cha sanh mẹ đẻ của người ta thành “Phúc”..., rồi tuyên truyền cho các thế hệ sau nhiễm cái thói tùy tiện sửa tên!

 

Chính vua Thành Thái của Nhà Nguyễn là người ĐI ĐẦU trong công cuộc cải cách giáo dục, khuyến khích học CHỮ QUỐC NGỮ!

 

Đó là nhận định được rút ra từ khảo luận ““Emperor Thành Thái's Educational Revolution” của sử gia Liam Kelley (công bố năm 2006). Theo đó, trong tàng thư lưu trữ của Đại Nam Hội Điển Sử Lệ Tục Biên cho thấy: VÀO NĂM 1906, HOÀNG ĐẾ THÀNH THÁI ĐĂ SỚM BAN HÀNH MỘT SẮC LỆNH LÀ KHUYẾN KHÍCH GIẢNG DẠY “NAM ÂM” (CHỮ QUỐC NGỮ)!

 

Sắc lệnh này vô cùng quan trọng, v́ khi nhà vua ra lệnh sử dụng chữ Quốc ngữ là nhà vua đă công khai ư định muốn thấy tầng lớp quan lại và sĩ phu PHẢI THOÁI KHỎI HÁN HÓA trong giáo dục, văn hóa, và nhứt là tư tưởng!

 

Sắc lệnh của vua Thành Thái cho dạy Quốc ngữ chính là văn bản ủng hộ Phong Trào Duy Tân (1906) và Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) thúc đẩy việc theo tân học và dùng chữ Quốc ngữ.

 

3/ Vua Thành Thái là người đạo Công giáo? Không phải. Nhà vua theo đạo Phật.

Vua Thành Thái theo Pháp? Không phải, mà ngược lại là đàng khác. Vua Thành Thái là nhà vua yêu nước, chống Pháp, năm 1907 bị Pháp ép thoái vị, bị quản thúc đến năm 1916 th́ bị đày sang đảo Réunion.

 

4/ Cần phải nhắc lại rằng: Chữ Quốc ngữ được thành h́nh từ những thập niên đầu thế kỷ 17, là do nhu cầu trong “nhà Đạo” (rao giảng việc thờ phượng Chúa Jesus), với mục đích khiêm tốn là phổ biến trong các giáo xứ mà thôi. Bên ngoài xă hội VN th́ vẫn là chữ Hán, chữ Nôm.

 

Chính giới trí thức, đặc biệt là hoàng đế Thành Thái nhận ra GIÁ TRỊ của CHỮ QUỐC NGỮ (chứa được “Nam âm”), nên đă mượn lấy bộ chữ này - lưu hành trong “nhà Đạo” - để phổ biến rộng răi cho các tầng lớp trong xă hội VN.

 

Chữ Hán không chứa được “Nam âm” (tiếng nói của người nước Nam, âm thuần Việt), thành thử vua Thành Thái đẩy mạnh việc thoát khỏi ảnh hưởng của chữ Hán là v́ vậy.

 

Chữ Nôm chứa được “Nam âm”, nhưng quá khó để học (tỉ lệ mù chữ Nôm, thời xưa, chiếm gần đến 95%).

 

5/ Trên nước Nam yêu dấu của tất cả chúng ta, giờ đây, bỗng dưng nảy ṇi lũ bội t́nh với chữ Quốc ngữ.

 

Lũ bội t́nh hè nhau mắc bịnh mất trí nhớ nên quên béng rằng chính HOÀNG ĐẾ THÀNH THÁI, một nhà vua yêu nước và là người theo đạo Phật, đă thúc đẩy việc giảng dạy CHỮ QUỐC NGỮ (là bộ chữ do các vị giáo sĩ đạo Công giáo sáng tạo nên).

 

Bùi Quang Trị

 

 

 

* Ai mới thực sự là cha đẻ của chữ quốc ngữ? Đúng theo đạo lư ăn quả nhớ kẻ trồng cây, chúng ta cũng nên t́m hiểu đôi chút.

 

SỰ RA ĐỜI CỦA CHỮ QUỐC NGỮ

 

Bồ Đào Nha là dân tộc của những người đi biển. Hơn thế nữa, từ xưa, họ là những người chịu bỏ xứ đi tha hương. Lisboa là cảng biển thiên nhiên duy nhất của bán đảo Iberia, từ trước công nguyên đă là một trung tâm chính trị và kinh tế. Lisboa nằm ngay trên cửa biển, ḥa nước ngọt của sông Tejo vào nước mặn của Đại Tây Dương, mênh mông một màu nước, khơi gợi ḷng viễn du của một dân tộc sẵn sàng lên đường. Thực vậy, kể từ thế kỷ thứ 15, khi tài đi biển của người Bồ Đào Nha lên đến đỉnh cao, quốc gia này bành trướng thành cường quốc số một ở Châu Âu, chiếm lĩnh nhiều thuộc địa ở Brazil, Châu Phi, Ả-rập, Ấn Độ và Trung Quốc. . .

 

Năm 1511 thuyền nhân Bồ Đào Nha bắt đầu nhắm đến Trung Quốc và Nhật Bản. Họ ṿng từ miền nam Ấn Độ, đi đường biển dọc theo miền Trung Việt Nam để lên đảo Macau.

 

Hẳn họ đă dừng chân tại Hội An để buôn bán và tiếp tế lương thực, nên năm 1524 họ dựng một tấm bia đá ở cù lao Chàm. Song song, các nhà truyền giáo lần lượt đến Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Trong những năm cuối của thế kỷ thứ 16 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha của hai ḍng thánh Francisco và Agustino đến Việt Nam, nhưng cuối cùng bỏ cuộc.

 

Đầu thế kỷ thứ 17 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lại đến Việt Nam một lần nữa và lần này họ thành công. Ḍng Tên* chính thức được thành lập ở Đàng Trong năm 1615. Đàng Ngoài năm 1627. Trong giới giáo sĩ ḍng Tên người Bồ có một nhân vật xuất sắc, đóng một vai tṛ lịch sử trong nền văn hóa Việt Nam, đó là Francisco de Pina. Pina sinh năm 1585, đến Macau năm 1613, đặc biệt rất giỏi tiếng Nhật. Năm 1617 ông đến Đàng Trong truyền giáo và bắt đầu dịch một số văn bản của Ki Tô giáo ra tiếng Nôm, một thứ chữ Hán được bản địa hóa.. Thế nhưng Pina nhận thấy các nhà truyền giáo đồng nghiệp có một khó khăn trầm trọng , đó là họ không sao học được chữ Nôm. Chàng linh mục trẻ tuổi Pina thấy chữ Nôm không thể là phương tiện giao lưu với người bản xứ, ông nghĩ ra một cách đơn giản. Ông thử lắng nghe người Việt phát âm ra sao rồi dùng mẫu tự la tinh để diễn tả âm tiết theo cách mà tiếng Bồ Đào Nha thường làm. Đó là thời điểm khai sinh của chữ quốc ngữ chúng ta ngày nay. Theo lời xác nhận của chính Pina, kể từ năm 1622, ông đă xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự la tinh cho hợp với thanh điệu và lối phát âm của tiếng nói Viet Nam. Pina cũng soạn cả một tập văn phạm thô sơ cho loại chữ viết mới mẻ này. Có lẽ trên thế giới không có nơi nào có một thứ chữ viết được h́nh thành trong điều kiện như thế.

 

Năm 1624 Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo khác. Trong số người đến học với ông có hai vị quan trọng, một người đă lớn tuổi là António de Fontes (1569 -?), sinh tại Lisboa. Vị kia chính là Alexandre de Rhodes (1591-1660), sinh tại Avignon, Pháp.Hai vị này lănh hai trọng trách, de Fontes là trụ cột cho giáo xứ truyền giáo ở Đàng Trong, c̣n de Rhodes sẽ ra Đàng Ngoài vào năm 1626, lúc đó trong thời kỳ của Chúa Trịnh Tráng. Một ngày nọ trong tháng 12 năm 1625, một chiếc tàu của Bồ Đào Nha bỏ neo ở vịnh Đà Nẵng, Pina lên tàu để mang hàng hóa vào bờ. Khi đến gần bờ chẳng may thuyền ch́m, Pina chết tại đó, ông chỉ sống được 40 tuổi.

 

Sau cái chết bi thảm của Pina, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha vẫn tiếp tục xây dựng chữ quốc ngữ mà hai nhân vật có công nhất chính là hai người Bồ, Gaspar de Amaral (1549-1646) và Antonio Barbosa (1594-1647). C̣n Alexandre de Rhodes th́ bị chúa Trịnh Tráng trục xuất năm 1630, phải đi Macau. Mười năm sau, năm 1640 de Rhodes trở lại Đàng Trong và đến năm 1645 bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. De Rhodes trở về La Mă và năm 1651 ông cho xuất bản tập tự điển Việt-Bồ Đào Nha-La Tinh (Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum).

 

Trong các đời sau, nhiều người tôn Alexandre de Rhodes là người sáng tạo chữ quốc ngữ nhưng thực ra đó là công của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, mà người đầu tiên phải là Francisco de Pina.

 

Một t́nh cờ của lịch sử đă đưa các vị giáo sĩ Bồ Đào Nha phát minh ra một loại chữ viết cho cả một dân tộc xa lạ, trong đó họ buộc phải dùng mẫu tự và âm tiết của ngôn ngữ ḿnh để diễn tả một tiếng nói khác, vốn mang đầy thanh âm trầm bổng như tiếng chim. Mục đích ban đầu của chữ quốc ngữ là để cho các nhà truyền giáo nói được tiếng Việt và giao tiếp với cộng đồng tôn giáo của ḿnh bằng chữ viết. Về sau, khi các nhà cai trị người Pháp đến Việt Nam, họ cũng không kham nổi chữ Hán lẫn chữ Nôm. Giải pháp thuận tiện của người Pháp là buộc mọi người Việt Nam phải sử dụng chữ quốc ngữ và có lẽ đó cũng là lư do tại sao vai tṛ của Alexandre de Rhodes được nêu bật.

 

Từ 1930 chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của người Việt.

 

Chú thích: * Bài viết trích từ chương Những Người Đi Biển, trong tập bút kư “Đường Xa Nắng Mới” của TS Nguyễn Tường Bách, tên bài viết do blog tự đặt.

 

(Trích trong email 22/06/2017 của Gs Huỳnh Chiếu Đẳng)

 

FB Thieu Khanh

https://www.facebook.com/thieukhanh/posts/10207178240374441

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính