Nhật kư một bạn tù!

 

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

 

 

Tôi quen biết cả hai vợ chồng anh Nam. Gia đ́nh chị Nam là nạn nhân của cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”. Cha chị, anh Khoa, là bạn học của tôi ở trưởng tiểu học xă. Lúc tôi làm việc ở Bệnh viện Đà-Nẵng, th́ anh là xă trưởng xă Giao Ḥa, gần quê tôi. Cha anh bị liệt vào hàng phú nông, đă bị du kích VC ở xă chôn sống, thời chống Pháp, chỉ v́ ông chỉ trích biện pháp “tiêu thổ kháng chiến” trong đám giỗ gia đ́nh ông. Người chỉ huy vụ thủ tiêu ông, là cháu kêu ông bằng bác, tên Cội. Cái “giỏi” của Cộng sản, là có thể khơi dậy ở người cháu ḷng căm thù, để giết bác ruột. Khoa, lúc ấy, cũng là du kích, chứng kiến cái chết thê thảm của cha, mà không làm ǵ được. Sau đó, anh lẻn ra vùng Quốc Gia, và thề trả thù cho cha. Anh đă dẫn lính Bảo An, trong đêm tối phục kích tiểu đội du kích VC ở xă, và giết chết Cội. Thời Đệ nhị Cộng Ḥa, xă Giao Ḥa nằm trong vùng tranh chấp. Ban ngày, Khoa cùng Địa Phương Quân về đóng trong làng, ban đêm rút về quận. Con của Cội, lúc ấy, là “chủ tịch xă” (VC) ban đêm thường hay lẻn về đe dọa dân chúng, và thâu lúa gạo của dân.

 

Tết Mậu Thân, 1968, con của Cội cùng “bộ đội” miền Bắc đột nhập quận, bắt được Khoa. Chúng dẫn Khoa về làng Giao Ḥa, họp dân chúng lại, mở “ṭa án nhân dân” xử Khoa, chúng hành hạ Khoa rất tàn nhẫn trước khi giết chết. Chị Khoa, vận đồ tang, về làng xin xác chồng đem về chôn tại quận. Bọn Cộng sản đă không cho, lại giết chết luôn chị Khoa, chỉ v́ quá uất hận, chị đă thốt lên những lời mỉa mai trong khi khóc lóc trước mộ chồng.

 

Hai vợ chồng Khoa chỉ có một cháu gái tên Thu, lúc ấy mới 10 tuổi. Thu bơ vơ được ông Quận trưởng Đại Lộc, Quảng Nam, nhận về nuôi cho đi học. Nam cùng quê với tôi. Cha chết sớm, v́ ăn phải nấm độc, trong nạn đói thời “kháng chiến chống Pháp”. Mẹ Nam ở vậy nuôi con. Khi đồng quê mất an ninh, bà ra Đà-Nẵng giúp việc trong nhà cho tôi. Nam đậu Tú tài, vào học trường Nông Lâm Súc. Ra trường, th́ bị động viên vào trường  Vơ Bị Thủ Đức. Nam được chọn đi học khóa Tâm Lư Chiến, rồi về phục vị tại sư đoàn 1. Ông quận trưởng, cha nuôi Thu nay là Đại tá Trung đoàn trưởng, cấp trên của Nam. Thấy Nam chăm chỉ, hiền lành, ông đă cố ư tạo cơ hội cho Nam và Thu gần nhau, hiểu nhau. Đám cưới hai người do tôi tổ chức vào cuối năm 1974. Hai vợ chồng ông Đại tá không có con, lại có căn nhà lớn ở Đà-Nẵng, nên đôi tân hôn sống chung với ông bà.

 

Cuối năm 1978, Sĩ quan trại tù Kỳ Sơn chuyển lên trại “cải tạo” Tiên Lănh. Trước đó mấy ngày, tù chính trị và phần lớn các đội lưu động chuyển đi “trại  thôn Năm”, để chỗ cho “trại viên” mới. Một chiều ảm đạm, các trại viên cũ đều bị nhốt lại trong pḥng, cửa sổ đóng kín. Nghe tiếng máy nhiều xe cam nhông đổ lại trước cổng trại. Tôi lúc ấy làm y tế trại, được lệnh ra nhận thuốc Tây mà các vị Sĩ quan mang theo, để nhập vảo tủ thuốc kư gửi. Các “cán bộ” trại đang ráo riết lục soát “trại viên” mới. Từng đống áo quần treillis, giày da đi trận,  xắc đeo lưng bị tịch thu. Đồng hồ, bút máy, nhẫn đeo tay, tiền giấy phải đem kư gửi. Mỗi người nhận lại hai bộ đồ vải màu xám với một ít dồ dùng cá nhân. Công an đă đánh phủ đầu bằng cách lột sạch  di tích tù binh, và nhắc nhở một kỷ nguyên thường phạm khắc nghiệt bắt đầu. Tôi gặp lại Nam, nh́n nhau mà không dám nói một lời. Vài tháng sau, Nam được ra làm chăn nuôi, nhờ có bằng kỷ sư Nông lâm súc. Lúc đầu chỉ ra chăn nuôi ban ngày. Ban đêm phải trở về ngủ chung trong pḥng giam. Nam vốn ít nói và hiền lành, lại cứu được nhiều gia súc trong một nạn dịch, nên được “quản giáo” chăn nuôi dần dần tín nhiệm, đưa ra ở hẳn trong trại chăn nuôi. Thường ngày Nam dẫn một đàn ḅ độ 30 con, đi ăn trên những đồng cỏ quanh trại. Tuy không có thăm nuôi, song Nam không thiếu thốn nhiều về ăn uống. Nhờ lang thang với bày ḅ, Nam có dịp “cải thiện” bằng cách bẫy chim và thú rừng, đào sắn. Anh cũng trồng rau, bầu bí quanh khu chăn nuôi. Mỗi khi ḅ đẻ, Nam lấy nhau nấu ăn. Nam cũng hay cho tôi đồ “cải thiện” mỗi khi có dịp vào trại khám bệnh.

 

Một lần đi đỡ đẻ cho một sản phụ ở bệnh xá dân, tôi có dịp đi ngang qua g̣ đất mà Nam hay đem ḅ ra đó gặm cỏ. Đỉnh g̣ có một miếu hoang, tường gạch, mái ngói, song mang dấu tàn phá của thời gian. Miếu nằm trọn vẹn dưới bóng mát của một cây đa to lớn, có nhiều rễ phụ. Bên cạnh miếu có một nghĩa địa nhỏ. Nam cho biết là có quen một giáo viên chế độ cũ (VNCH), bị đày lên dạy ở trường tiểu học gần đó. Anh nầy thường gửi thư giúp Nam qua bưu điện, khỏi sự “kiểm duyệt” của trại. Nam dẫn tôi vào miếu và chỉ chỗ kín, để khi nào có dịp ghé qua, mà không có Nam, th́ giấu thư vào đấy, và Nam sẽ gửi đi giúp. Tôi đă dùng lối nầy gửi thư về nhà vài lần cho đến khi Nam được phóng thích.

 

Nam ra trại được hai năm, th́ bỗng một hôm, nghe nói có một “trại viên” cũ, treo cổ chết ở một cây đa ngoài trai. Lúc ấy, tôi không c̣n làm y tế nữa, không có dịp để kiểm chứng người chết là ai, song tôi vẫn ngờ ngợ người ấy là Nam. Cho đến khi tôi dược phóng thích. Tôi trở lại chỗ miếu hoang; vào chỗ kín mà trước kia tôi giấu thơ cho Nam gửi về nhà, xem thử. Nếu quả thật Nam đă trở lại đây tự tử, chắc Nam sẽ để lại cho tôi một lá thư tuyệt mệnh. Nam để  lại cho tôi không những một lá thư, mà cả một tập nhật kư, viết trên những tờ giấy rời. Kể từ lúc Nam chết cho đến giờ đă năm năm rồi. Tập nhật kư bị mối mọt đục nhiều chỗ, phải dồn vào một bao nylon. Tôi trở ra, đứng dưới gốc cây đa, xem thử Nam đă treo cổ ở cành nào. Lá đa xanh nghít, xào xạc. Dưới chân đồi con sông lượn khúc, khói lam quyện vào mái tranh một căn nhà ven sông, vươn lên bầu trời xanh thẳm. Nam đă chọn chỗ để an giấc ngh́n thu. Mộ Nam là một nấm đất nhỏ, cỏ mọc lưa thưa, trong nghĩa địa cạnh miếu. Một tấm bảng gỗ mang tên họ Nam cùng với ngày tháng chết cắm ở chân mộ. tôi quỳ xuống cầu nguyện cho Nam, mặc dù lúc sống, Nam là một Phật tử. Đang lúc suy tư, tôi nghe tiếng chân đạp trên lá sau lưng. Tôi quay lại, th́ một trung niên bước tới giới thiệu. Hóa ra là ông giáo viên tiểu học, thường chuyển thư cho Nam ngày xưa. Ông với Nam đă thành bạn thân. Chính ông đă nhận là bà con với nam và xin với xă được chôn cất Nam trong nghĩa địa bên miếu. Ông kể là Nam đă ở lại nhà ông một đêm. Sáng ra Nam lên đồi và không trở lại nữa. Nam c̣n cẩn thận gửi cho ông giữ một số tiền vừa đủ để chôn cất Nam, trước khi ra đi. Ông cũng chôn theo Nam lon gô mà Nam đeo trên vai, bên ngoài có ghi: “tro của em yêu dấu”. Tôi cám ơn tấm thịnh t́nh của ông. Về Saigon, tôi giở nhật kư Nam ra xem:

 

“02-09-79. Hôm nay “quốc khánh XHCN”. Trước kia, miền Nam không có ngày lễ nầy, v́ phe Quốc Gia mặc nhiên xem ngày đó là tṛ hề, khởi đầu cho “cách mạng vô sản quốc tế”, loại bỏ dần dần mọi tham gia của người yêu nước Quốc Gia. Dù chỉ là “trại viên” đều được nghỉ lao động. Riêng chăn nuôi, th́ phải dẫn ḅ đi ăn. Nằm dưới gốc cây đa, thấy những lá non gió đẩy đung đưa trên nền trời xanh, lại nhớ bài thơ:

 

“Nằm im dưới gốc cây to,

Nh́n Xuân trải nhựa muôn tờ lá non:

Giữa trời h́nh lá con con,

Trời xa sắc biển lá thon ḿnh thuyền.

Gió qua là gió triều lên,

Hây hây gió đẩy thuyền lên biển trời.

Chở hồn lên tận chơi vơi,

Muôn chèo của nhạc, muôn lời của thơ.

Bâng khuâng như thể bao giờ,

Lênh đênh nào biết  bến bờ là đâu!”

 

“Cuộc đời có lắm buồn phiền, là bể khổ. Có những phút phiêu diêu như thế này, để quên thân phận tù đày. Vẫn nhớ Thu không nguôi.  Lời bài hát “Nắng chiều” làm anh nhớ đến lúc chúng ḿnh mới quen nhau: “Anh nhớ trước đây, dáng em gầy gầy, dịu dàng nh́n anh đôi mắt long lanh”. Mẹ đă trở về làng cũ Túy La, sống với gia đ́nh chú Chín, giúp chú làm tằm. mỗi năm mẹ thăm nuôi hai lần, cũng đơn sơ, đạm bạc. Mẹ cũng không có tin tức ǵ về Thu.

 

07-10-79. Gửi thư về cho Thu nhiều lần với địa chỉ nhà cũ ở Đà-nẵng, nhưng không có hồi âm. Không biết bây giờ, em trôi giạt về đâu. Chúng ḿnh lạc nhau ngay ở bờ biển Sơn Chà (Sơn Trà) khi nhóm binh sĩ và sĩ quan Biệt động quân đứng thành ṿng tṛn, mỗi người trên tay một quả lựu đạn đă mở chốt. Khi họ la lên là “đồng bào hăy tránh xa”, anh và em mạnh ai nấy chạy. Nghe một loạt nổ chát chúa và hơi gió tạt từ sau đến. Họ tự tử tập thể, chắc là v́ quá tuyệt vọng. Khi anh trở lại hiện trường, thấy cảnh người chết banh thây, mùi máu tanh tưởi, anh vội rời xa, v́ nghĩ chắc là em đă thoát. Rất tiếc, là trong lúc hốt hoảng, anh quên không nắm tay em cùng chạy. Mặc dù lúc đó Việt cộng đang ở đèo Hải Vân bắt đầu pháo kích vào Sơn Chà, anh vẫn vừa chạy vừa ẩn núp, để t́m em. T́m măi em không được, anh trở về nhà cha nuôi em, song nhà vắng tanh. Anh ở lại đó, chờ em về. Song vẫn biệt tăm. Nghe lịnh “ủy ban quân quản” thành phố, anh ra tŕnh diện, và bị tập trung  vào Vĩnh Điện, rồi Kỳ Sơn…” (nhật kư bị rách nát nhiều trang không đọc được).

 

“… Xa em đă gần bốn năm. Chúng ḿnh sống bên nhau chưa đầy sáu tháng. Những kỷ niệm thân thương không hề phai nhạt:

 

Bốn năm trời xa em,

Chúng ta mất biết bao ân ái mặn nồng.

Nhớ đến lúc bên nhau hai đứa…

Khắng khít uyên ương, thiên đường nguyên thủy…

Anh quỳ bên em ngất ngây thờ lạy,

Vẻ mỹ miều của thân thể trinh nguyên,

Anh hôn lên vầng trán b́nh yên,

Lên đôi má hây hây say t́nh e thẹn.

Lên đôi môi nở hoa dâng hiến,

Ôi ngọt ngào là miệng lưỡi của em.

 

Hơi thở thơm tho, anh măi măi thèm…” (bài thơ lại bị mối đục thủng đoạn kế tiếp). Một mảnh giấy rời, có câu thơ c̣n đọc được. Bài thơ chắc dài, chỉ c̣n chục câu, gợi nhớ thương, lo lắng cho vợ lúc đi chăn ḅ:

 

“Gió sớm mai mát rượi, như bàn tay yêu thương,

Biết bao giờ trở lại bên em, ôi cả một thiên đường!

Tiên Lănh vào Thu, núi rừng đẹp lắm:

Trời lộng xanh cao, cỏ đồi dệt thảm,

Lấp lánh, lao xao, chạy theo nắng ấm,

Vẳng bên tai, chim gió, hát lưng trời.

Cảnh vật an b́nh, xao xuyến ḷng người,

Ngồi dưới gốc cây đa, bên ngôi miếu cổ,

Nh́n đàn ḅ thong dong gặm cỏ,

Mà tâm hồn bay bổng, hướng về em.

Em ở nơi mô, cuộc sống có êm đềm!

Mà chẳng đến thăm anh tù đày khốn khó?

Lo cho em, chắc nhiều trắc trở,

Xin cầu Trời phù hộ cho em.

 

20-09-80. Được phóng thích ngày 28-08-80, nhân dịp “quốc khánh”. Trong giấy ra trại cho về nguyên quán làng Túy La. Hai mẹ con dựng một nhà tranh nhỏ, trên miếng đất ngày xưa, sớm chiều có nhau. Kỷ niệm thơ ấu, những ngày hồi cư đói khát, cha chết, không có vải làm khăn tang, trở lại trong giấc ngủ đầy ác mộng. Việc đầu tiên là t́m tông tích của Thu. Lên Giao Ḥa hỏi thăm, chẳng có đầu mối ǵ, chỉ biết thêm là người giết cha mẹ Thu, đă vào tù v́ tham nhũng, khi hắn ta làm “chủ tịch Hợp tác xă nông nghiệp quận”. Nghe nói, là hắn “có thể bị xử tử”.

 

09-10-80. Lo làm ăn, đầu tắt, mặt tối, mà chỉ đủ hai mẹ con, ngày hai bữa, ăn bắp, ghế cơm. Mẹ nhắc hồi nhỏ, ḿnh nói ngọng, kêu bắp là bú, kêu gạo là gụ, và năn nỉ nấu “nửa bú, nửa gụ” cho dễ ăn. Nay hai mẹ con ăn “nửa bú, nửa gụ” thế là tốt rồi. Ra Đà-nẵng nhiều chuyến ḍ la tin tức Thu. Lúc nào cũng khấn thầm Trời Phật phù hộ t́m ra tông tích nàng. Mộng mị thấy nàng trong giấc ngủ thường xuyên. T́nh cờ một hôm vào quán ḿ Quảng gần chợ Cồn, gặp lại Thúy, bạn học Thu, nay là giáo viên tiểu học. Thúy nói là rất mừng, gặp lại tôi, để thông báo là có thể Thu đă chết trong ngày chạy loạn ở Sơn Chà. Tôi bàng hoàng chết điếng. Em Thu! Em ra đi không một lời từ biệt! Thúy cho biết là cùng Thu chạy về mũi Sơn Chà, giữa rừng người hoảng hốt. Một quả đại bác rơi gần đó. Khi Thúy chổi dậy, thấy chung quang người chết nằm la liệt. Thu nằm bất động, rên khe khẻ, máu rỉ ra từ một vết thương trên trán. Thu thều thào nhờ Thúy báo tin cho Nam. Sau đó Thúy may mắn xuống một thuyền nhỏ ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi, vào được Saigon. Lúc trở về Đà nẵng, th́ chẳng biết tôi ở đâu để nhắn tin.

 

12-10-80. Có người mách là có thể đến bệnh viện Đà-nẵng xem danh sách những người bị thương và chết được xe cứu thương mang về đó trong những ngày cuối thắng 03-75. Tôi đến nhà xác bệnh viện. trong quyển sổ cũ, giấy đă vàng, tôi t́m được tên em. Phải lên nghĩa địa Ḥa Khánh để t́m mộ. Song mộ lại dời đi G̣ Cà trong đợt dời mộ  năm 1976 do “lệnh chung của tỉnh”. Nghĩa địa G̣ Cà mênh mông, bao trùm nhiều đồi trọc cát sỏi. Cũng may, là anh ra tù sớm. Mộ bia của em, một tấm gỗ nhỏ, đă ngă nằm ra đất, chữ viết bằng loại sơn xấu đă nḥe nhoẹt dưới nắng mưa. Anh bới mộ em lên. Không nhầm lẫn được: hàm răng dưới em có em có chiếc răng cời bên trái. Trán c̣n mang lỗ thủng mà chị Thúy có nhắc đến. Chiếc áo lụa em bận ngày chạy loạn chưa hư nát hết. Lượm từng cái xương của em, mà nước mắt tuôn ra không ngớt. Em nh́n anh bằng cặp mắt của hư vô. Bỏ xương vào một hủ sành, anh mang về Túy La.

 

11-11-80. Cái thằng thôn trưởng thật hắc ám. Mỗi tuần hắn bắt tŕnh diện một lần và khai báo, mặc dù chẳng có ǵ lạ. Những tạp dịch trong thôn, hắn bắt ḿnh “xung phong” làm. Ngay chuyện gỡ ḿn quanh đồn bót cũ, cũng là ḿnh. Lúc nào cũng coi ḿnh là “thù địch”. Trồng dâu, hái dâu, làm cỏ, nuôi tằm, công việc xoay như chong chóng. Những ngày giữ ḅ c̣n “sướng” hơn bây giờ.

 

Đă đốt xương em, cho vào một lon gô, để ở đầu giường, để được gần gụi em. Tối tối, lại tṛ chuyện cùng em. Trong ḷng anh chẳng ai thay thế được em. Có nhiều cô gái trong thôn tỏ t́nh, nhưng anh dửng dưng, nguội lạnh. Tâm hồn giống như một ông già. Những lúc cô đơn, hay làm việc một ḿnh, tự nhiên lại thốt lên: “đời sao buồn quá” hoặc ngâm se sẽ: “buồn ơi xa vắng, mênh mông là buồn”. Bái hát của Từ Công Phụng nói về nỗi cô đơn, khi người yêu đă mất nghe thấm thía quá: “kể từ khi em đem cô đơn mọc lên phố vắng, khi em đem nụ cười khỏi đời, từng chiều rơi, ta nghe như cơi ḷng tê tái. Nghe giữa đời c̣n gọi tên nhau”. Đoạn giữa của bài hát đúng như lúc chúng ḿnh đứng ở băi biển Sơn Chà, một đêm sao sáng đầy trời, em ngước mắt nh́n anh, chờ đón nụ hôn, trong khi bài t́nh ca du dương, từ một quán xa vọng tới: “ngày ấy cho nhau một lần, một lần tiếng hát đồng lơa, đưa anh vào vùng trời lấp lánh, bằng những ánh sao trời vào đôi mắt ngước tŕu mến”. Anh muốn t́m lại ánh mắt của em ở thế giới bên kia!

 

06-12-80. Những bài học về tư tưởng yếm thế hay quanh quẩn trong đầu. Có một thi sĩ Tầu không nhớ tên, đă viết:

 

“Tích ngă vị sinh th́,

Minh minh vô khả tri.

Thiên công hốt sinh ngă.

Sinh ngă lục hà vi?

Vô y sử ngă hàn,

Vô phạn sử ngă cơ,

Hoàn nhỉ thiên sanh ngă,

Hoàn ngă vị sinh th́”.

 

Tạm dịch:

 

“Khi tôi chưa sinh ra,

Hỗn mang nào có biết.

Trời bỏ tôi ra đời,

Ôi số phận cay nghiệt,

Không áo để che thân

Không cơm đói muốn chết,

Trả lại Trời công sinh

Trả lại tôi thời chẳng biết”.

 

Cuộc đời bi thảm quá. Chỉ muốn trở về với hư vô, (nhật kư rách vụn nhiều trang). Mấy trang chót c̣n đọc được:

15-07-82. Mẹ đă ra đi một cách êm thắm. Thường ngày mẹ dậy rất sớm. Song hôm nay mặt trời đă lên cao mà mẹ vẫn chưa thấy dậy. Lại giường mẹ xem sao, thấy sắc mặt hơi tái, sờ tay thấy lạnh ngắt. Th́ ra, mẹ đă ra đi trong giấc ngủ. Mẹ lúc nào cũng sống âm thầm như chiếc bóng. Lúc giă từ vĩnh viễn, mẹ cũng không muốn quấy rầy con. Thương mẹ, thương em quá chừng. Ma tang đơn giản. Chôn mẹ cạnh mộ cha sau vườn:

 

Bởi con nghèo, nên mẹ chết âm thầm,

Kẻ giàu có, th́ linh đ́nh ngày xuống huyệt.

 

Mẹ chết rồi, con không c̣n ǵ để ràng buộc với thế gian này nữa. Con muốn trở về gốc cây đa, mà con đă trải qua nhiều giờ phút suy tư về kiếp sống con người, và yên nghỉ cùng Thu. Ở một nghĩa địa cổ Hy Lạp, người ta phát giác một bia mộ ghi những lời sau đây: “hỡi những người qua đường, hăy nhẹ chân, v́ đêm nay là đêm cuối cùng ta ngủ được ngon giấc”. Ông ta lúc sống chắc trải qua những khổ đau cùng cực, nên mất ngủ triền miên. Tôi th́ không đến nỗi như ông, song giấc ngủ dài yên lặng của nấm mồ, tôi thầm mong ước được như thế”.

 

Th́ ra, nhật kư không viết cho tôi. Mà chỉ là những gửi gắm riêng tư. Nam cũng không ngờ là tôi trở lại miếu hoang nầy. Chiến tranh, chết chóc, chia ly, thời thơ ấu thiếu thốn, đau buồn đă hằn lên tâm hồn Nam nhiều đau thương!

 

Cha chết sớm, chưa kịp dạy Nam yêu đời. Nếu Thu c̣n sống, chắc Nam cũng yêu đời như ai.

 

 

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

(Trích trong: T́nh Yêu Hiện Sinh Một Kiếp Người)

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính