Những Người Lính Cũ - Đọc để Thương để Nhớ ...

 

Bé Dương

 

 

Trong bài thơ “Dưới chân đồi Chu Pao” của nhà thơ Lâm Hảo Dũng, viết về trận đánh trên Quốc Lộ 14 dẫn vào Kontum trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, có hai câu:


“Chu Pao ai oán hờn trong gió

Mỗi chiếc khăn tang một tấc đường”


Chỉ hai câu thơ này thôi cũng đủ nói lên sự tổn thất to lớn của những người lính cũ thi hành sứ mạng bảo quốc an dân.


Những người lính cũ? Họ là ai?

 


Họ là Lưu Trọng Kiệt, Lê Hằng Minh, Nguyễn Đ́nh Bảo, Lương Quế Vượng, Mă Thành Cương, Lê Văn Khoắng, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Viết Cần, Hoàng Ưng, Cao Hoàng Tuấn, Nguyễn Bá Ṭng, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Mạnh Dũng, Dương Hữu Trí, Mai Gia Thược... đă nằm xuống trên những chiến trường miền Nam hay trong các trại tù cải tạo điểm đầy trên quê hương sau ngày tàn cuộc chiến. Họ là những người lính cho nổ lựu đạn tự sát, người sĩ quan Cảnh Sát đă tuẫn tiết dưới chân tượng Thủy Quân Lục Chiến, là Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai... Họ là Nguyễn Hữu Luyện, Lê Tuấn Ngô, Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Tấn Sang, Huỳnh Văn Của, Trần Văn Nam, Nguyễn Văn Cầu... ngày nay đă xa cố quốc nhưng ḷng vẫn luôn nhớ về các đồng đội ngày xưa. Họ chỉ là một con số rất nhỏ, trong số bao nhiêu người lính Việt Nam Cộng Ḥa, đă từng hy sinh trọn thời thanh niên chiến đấu để bảo vệ tự do, để cho người dân miền Nam được hưởng 21 năm tự do ngắn ngủi.

 


Bao nhiêu người lính VNCH đă nằm xuống để đổi lấy từng hơi thở tự do cho người dân. Họ và đồng đội đă hứng chịu bao gian nan khốn khổ cho hậu phương được những ngày b́nh yên. Mưa gió tầm tă miền tuyến lửa Đông Hà, nắng cháy rát mặt nơi Cao Nguyên, đất śnh đen vùng Đồng Tháp dính nặng đôi giày sô không làm cho người lính sờn ḷng. Họ vẫn luôn giữ vững tay súng bảo vệ từng phần đất tự do. Họ là những người lính Không Quân, Hải Quân. Họ là những người lính mũ đỏ, mũ xanh, mũ nâu... Họ là những người lính “bùn lầy c̣n pha sắc áo xanh” của Sư Đoàn 1, Sư Đoàn 5, Sư Đoàn 18, Sư Đoàn 21, Sư Đoàn 22, Sư Đoàn 25... Họ là những người lính Thiết Giáp, Pháo Binh, Truyền Tin, Quân Cảnh, Biệt Kích, Nha Kỹ Thuật, Biệt Đội Người Nhái, Công Binh, Nữ Quân Nhân, Quân Y... Họ là những người lính dân quê của Địa Phương Quân, Nghĩa Quân. C̣n nhiều nữa, họ c̣n là những thương phế binh Nguyễn Văn Nhạn, Bùi Văn Bon... với tấm thân tàn phế, vẫn c̣n lê lết chuỗi ngày tàn trong một tương lai đầy ảm đạm.

 


Tướng Douglas MacArthur đă nói:
“Old soldiers never die, they just fade away”. Nhưng riêng với chúng ta, người lính Việt Nam Cộng Ḥa không bao giờ bị phai nhạt và không thể bị phai nhạt. V́ họ là cha, là mẹ, là anh, là chị, là em, là bạn bè, là người láng giềng cùng xóm. Họ chính là chúng ta.


V́ vậy Nhớ Người Lính Cũ là điều chúng ta đă làm và phải làm hằng ngày, không phải chỉ qua một vài bài viết. Số báo nhỏ nhoi này chỉ là một nhắc nhở đến mọi người về nguồn cội của chúng ta, những người đang chịu ơn các vị anh hùng đó.


* * * * *


Người sĩ quan Quân Lực VNCH đó là một người lính dân quê, từng là Tiểu đoàn trưởng của một tiểu đoàn xuất sắc nhất của Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Trong một trận đánh vào đầu năm 1968 ông bị trúng thương nặng nhưng vẫn cố gắng chỉ huy binh sĩ cho đến khi tàn trận. Vết thương thập tử nhất sanh trên ngực buộc ông phải nằm trong pḥng Hồi Sinh gần một tuần lễ. Sau một thời gian dưỡng thương ông được đưa trở lại nắm đơn vị cũ. Vết thương vẫn không bao giờ hoàn toàn lành lặn, thỉnh thoảng vẫn rỉ máu, và nhiều lần ông phải dùng thuốc cầm máu. Ông đă có thể từ chối thượng lệnh nhưng tinh thần trách nhiệm của người lính VNCH với đồng đội đă buộc ông chấp nhận không một lời kêu ca. Một thời gian sau ông được thăng cấp và chuyển đi nhận nhiệm vụ mới. Ngày ông rời đơn vị, trong buổi lễ bàn giao, nhiều người lính đă rơi nước mắt từ giă vị chỉ huy cũ. Ông là lính tác chiến trọn đời binh nghiệp nhưng ông phải hứng chịu nhiều bất công, và ông đă cắn răng không than van chỉ v́ “c̣n nhiều người lính khổ hơn ḿnh.”


Được giải ngũ vào đầu năm 1975, một người mà trọn đời binh nghiệp là lính tác chiến, tưởng đă có thể sống một đời yên ổn bên gia đ́nh sau bao năm chinh chiến th́ biến cố 30/4/1975 ập đến. Ông được mời di tản nhưng chỉ có chổ cho một ḿnh ông và ông đă từ chối v́ không thể bỏ lại vợ con.


Sau khi tŕnh diện học tập cải tạo ông bị đưa ra miền Bắc như nhiều sĩ quan khác của Quân Lực VNCH. Trước khi đưa mọi người lên xe lửa ra Bắc, bọn người thắng trận đă ra lệnh tịch thu tất cả những ǵ họ xem là có thể giúp tù cải tạo trong việc đào thoát, trốn trại. Thuốc men của ông mang theo để dùng cho vết thương cũ bị tịch thu dù đă có lư do chánh đáng.


Trong trại tại vùng Hoàng Liên Sơn, người tù cải tạo phải chịu những hành hạ lao lực. Mỗi ngày người tù phải kéo gổ từ dưới sông về trại trong những ngày rét buốc. Sức khoẻ của ông ngày càng suy yếu v́ lao lực quá độ. Một ngày kia ông vấp ngă, bị thân cây đè và vết thương cũ vỡ ra. Ông xin ban quản giáo trại cho lại số thuốc men đă bị tịch thu. Họ từ chối. Sau nhiều lần nài nỉ của ông và các bạn cùng trại, ông được phát cho vài viên APC (một loại aspirin của quân đội cũ). Vài ngày sau ông chết đi. Thi hài ông được bó bằng tấm chăn văi dù đă theo ông suốt cuộc đời chinh chiến và đem chôn ở một ngọn đồi gần trại.


Một điều tàn nhẫn cuối cùng, gia đ́nh của ông không được thông báo về cái chết của ông, và giấy báo tử được Trưởng trại kư 18 tháng sau ngày ông mất. Mười sáu năm sau ngày ông mất, di cốt của ông đă được gia đ́nh đem về an táng tại quê nhà.


* * * * *


Người lính già kể câu chuyện này thuộc một gia đ́nh nông dân ở gần Phụng Hiệp. Thời trai trẻ, chỉ được học hành ít ỏi nhưng ông vui sống đời cày cấy bên thửa ruộng, con trâu như bao nhiêu người dân miền Nam chất phác khác. Lệnh Tổng động viên được ban ra, ông và người anh lớn sang Vĩnh Long đăng lính Nghĩa Quân, phục vụ dưới quyền của một người anh họ đang là Thiếu tá Quận trưởng của một quận tại đây.


Hai anh em ông tham gia vào mọi cuộc hành quân tuần tiểu, công tác b́nh định trong quận và được tiếng là gan dạ, dũng cảm. Trong một trận Việt Cộng tấn công vào quận lỵ, hai người đă đẫy lui nhiều cuộc xung phong và bảo vệ cho người anh họ Quận trưởng khi địch chen vào được pḥng tuyến quận đường.


Chiến tranh chấm dứt hai anh em trở về làng cũ. Dù chỉ là những người lính thường, không chức tước nhưng tại quê hương cả hai đều bị trả thù tàn khốc. Con cái bị cấm đến trường học, vợ bị cấm buôn bán tại chợ. Gia đ́nh túng quẩn chỉ c̣n trông cậy vào mấy công ruộng nhà. Nhưng đám người chiến thắng vẫn không để yên cho họ. Hai người bị kêu tŕnh diện mỗi đêm tại trụ sở công an.


“Tụi nó không làm ǵ ḿnh hết, chỉ bắt ḿnh ngồi đó độ mươi, mười lăm phút hay một vài tiếng đồng hồ rồi cho về. Vừa đến nhà nằm xuống, chưa kịp ngủ th́ nó lại xuống gọi lên. Có đêm tụi nó làm như vậy vài lần. Ngày lễ của tụi nó th́ ḿnh phải lên ngồi cả ngày ở đó. Riết rồi không c̣n sức lực làm lụng ǵ được. Bị hành hà quá đến nỗi chú nói: “Mấy ông có muốn bắn muốn giết tụi tui th́ cứ làm chớ đày đọa làm chi như vầy”. Nhưng tụi nó cũng không tha. Ruộng vườn cứ bán dần mà sống. Buồn quá, nh́n vợ con nheo nhóc mà không làm ǵ được chú chỉ c̣n biết mượn rượu giải sầu đến khi vướng phải bệnh ghiền lúc nào cũng không biết. Thấy anh em chú thân tàn ma dại, không làm ǵ được nữa tụi nó mới chịu tha.”


“Cuộc đời của thằng lính thua trận như vậy đó con ơi!” Người lính già nấc lên, nước mắt chảy ra, nói với người cháu trong một cơn tỉnh ngắn. Mắt đứa cháu cũng cay xè, ươn ướt.


* * * * *


Có một gia đ́nh, cả hai vợ chồng đều là sĩ quan Quân Lực VNCH. Sau ngày 30/4/1975 cả hai người đều phải đi học tập cải tạo như bao nhiêu người lính khác của quân đội bại trận. Người chổng tŕnh diện đi trước, người vợ chờ đi sau. Trong khi chờ đợi chị xin những người chiến thắng cho được ở lại để chăm sóc ba đứa con c̣n nhỏ v́ không có người gởi gấm. Thật ra vào thời điểm lúc đó cũng chưa chắc đă người dám nhận. Lời khẩn cầu bị bác bỏ ngay, không được chấp nhận. Cũng v́ “Với chánh sách khoan hồng của cách mạng chị chỉ đi học tập vài ngày rồi về th́ có ǵ mà lo.” Cả bốn mẹ con phải nhập trại vào Thành Ông Năm ở Hóc Môn.


Trại này được chia làm hai phía: bên dành cho những người lính VNCH nam, bên dành cho các nữ quân nhân VNCH, ngăn cách nhau bằng một hàng rào kẽm gai. Khẩu phần ăn dù đă ít ỏi nhưng chỉ được phát cho người mẹ v́ các con không phải là thành viên chánh thức của trại. Biết được hoàn cảnh thương tâm đó, nhiều người bên trại nam đă cố gắng ném các vắt cơm nhỏ qua để nuôi các cháu nhỏ. Về sau được tin là người mẹ qua đời v́ lao lực, và các cháu cũng không biết trôi giạt về đâu. Người cha vẫn biệt vô âm tín.


Người kể chuyện này là một trong những người đă từng ném vắt cơm t́nh nghĩa nuôi các cháu.

 


Bé Dương

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính