Patrick Willay chuyển
Việt Dũng, người Nhạc Sĩ, nhà báo, MC, người không ngừng nghỉ đấu tranh
cho một đất nước Việt Nam tự do nhân quyền đă ra đi trong sự ngỡ ngàng,
thương tiếc của hầu hết những ngưởi Việt lưu vong. Để nhớ đến một phần tài
hoa của con người đầy ước mơ cho quê hương Việt Nam tự do, xin mời quí anh
chị đọc lại truyện ngắn: Giấc mơ trăng và đá sau đây, để cảm được một phần
cảm nghĩ và cuộc đời Việt Dũng. Truyện được trích trong tuyển tập truyện
ngắn" Gió Sông Hồng" của Việt Dũng do Thế Giới xuất bản năm 1992.
Xin tạm biệt Việt Dũng, người đă ra đi mang theo quê hương............
Giấc mơ Trăng và Đá
Việt Dũng
Trong tôi, sự quyến rũ về Trăng và Đá đến từ trí tưởng lãng
mạn qua những huyền thoại dã sử. Hình ảnh những tráng sỹ nhung
y gọn ghẽ ngồi mài kiếm dưới trăng, nung nấu ý chí can trường
và sẵn sàng nhảy lên lưng chiến mã, lao vào bóng đêm mịt mùng
để hoàn thành sứ mạng bí mật, là những giấc mơ rực rỡ, chan
hòa suốt tuổi thơ tôi. Ngay cả sau cơn sốt định mệnh làm tê liệt
đôi chân mà giấc mơ tráng sỹ mài kiếm dưới trăng vẫn còn tức
tưởi. Giấc mơ đó đậm nét đến nỗi mọi ước muốn nào đẹp đẽ, tôi
đều gọi chung là “Giấc mơ trăng và đá”. Thậm chí, đôi lúc tôi
cảm thấy sự tan vỡ về giấc mơ huyền thoai kia đã làm tôi đau đớn
hơn cả những thiệt thòi, cô độc mà một cậu bé bẩy tuổi phải
chịu khi ngồi trên xe lăn, nhìn đám bạn cùng tuổi vui chơi nhảy
nhót.
Ngày đó, tôi chưa ý thức đủ những bất hạnh lớn lao khi đôi chân
không còn giúp ích gì cho những phần thân thể khác. Tôi chỉ buồn
vì không theo các bạn chạy nhảy, nô đùa được nữa. Tôi cũng không
thấy được ánh mắt thương hại của những người xung quanh.
Nhưng năm tháng trôi qua, chiếc xe lăn và cặp nạng gỗ gần gũi với
tôi hơn cả cha mẹ, anh chị em, càng gần hơn bạn bè, quyến thuộc
Tôi tự tách rời tới một cõi riêng lúc nào không hay. Nỗi đau
buồn không lối thoát lăn tròn trong cõi lòng trống trải như những
viên đá cuội lạnh lẽo, vô hồn. Những viên đá bất lực chờ cơn
giông bão cuốn lăn theo sườn núi, rơi xuống thác ghềnh, trôi ra
sông rộng... Tôi nghe thấy bao nhiêu là âm thanh sống động trên
đường đi của đá; những âm thanh lúc khẩn thiết, khi reo vui, lúc
trầm mặc đợi chờ, khi chan hòa hoan lạc....
Âm thanh ám ảnh tôi không ngừng.
Tôi tìm mua sách nhạc về, tự học và dành hầu hết thì giờ với
cây đàn guitar. Một ngày của đứa trẻ tật nguyền có quá nhiều
thì giờ rảnh rỗi để học những điều muốn học. Những ngón tay
tôi quá nhỏ so với phím đàn, nhưng có hề gì! Giòng âm thanh cuồn
cuộn trong tâm hồn tôi là sức mạnh vũ bão, bật ra mười đầu ngón
rớm máu. Những buồn tủi, uất nghẹn từ những đường gân rũ liệt
ở đôi chân theo âm thanh man rợ, vỡ ra trên từng sợi giây đàn....
- Vũ Thanh! Vũ Thanh! Con đàn cái gì vậy? Giây đàn đứt rồi kìa!
Trời! Tay con chảy máu nữa!
Mẹ tôi chạy lại, giằng cây đàn, quăng xuống đất. Mẹ cầm hai bàn
tay tôi rớm máu và nhìn tôi bằng đôi mắt đẫm lệ.
Tôi như người vừa tỉnh cơn mơ, nhìn xuống đôi tay mình, nhìn giòng
nước mắt mẹ hiền, tôi cảm thấy, không chỉ đôi chân mình rũ liệt
mà toàn thân tôi như đều đã rũ liệt theo...
Tôi ngã vào lòng mẹ, khóc như con gái.
Từ hôm đó, tôi khám phá ra nguồn an ủi vô biên là chuyện trò với
chính mình bằng thế giới trầm bổng của âm thanh.
Lạ lùng thay, tôi truyền đạt dễ dàng những cảm nghĩ, những rung
động của mình xuống đôi tay rồi bật ra trên sáu sợi giây đàn.
Ngồi trên xe lăn, trong phòng học, ôm cây đàn guitar trong tay, tôi
say sưa hát. Không, phải diễn giải cho đúng là tôi say sưa
NÓI-BẰNG-NHẠC, mà sáu sợi giây đàn đã cùng tôi hòa hợp thành
âm thanh trầm bổng. Tôi NÓI về tuổi thơ mình bất hạnh, NÓI về
niềm khát khao của cánh chim trời được vỗ cánh tung bay, NÓI về
những giòng nước mắt không thể chảy khi niềm đau đã tới tột
cùng nhức buốt.
Tôi nói dễ dàng, nói miên man, và những ngón tay tôi chạy trên
giây đàn, bật lên những cung tơ....
Tôi đang viết nhạc mà tôi không biết! Tôi đang mượn âm thanh ghi lại
cảm nghĩ mình mà tôi không hay! Tôi ngạc nhiên thấy cha mẹ quan tâm
về những trường canh ghi vội trên khuông nhạc. Tôi còn nghe thấy
loáng thoáng, đôi lần, cha mẹ nói với nhau về những thiên khiếu
tiềm tàng nơi đứa con trai tật nguyền.
Một buổi chiều, chống nạng đứng ở cuối vườn, tôi bỗng nghe một
tiếng chim kêu thảng thốt lạ thường; rồi bất ngờ, một con chim cu
đất bay loạng quạng, té nhào xuống bên luống cải. Tôi khập khễnh
đôi nạng tới thì con chim sợ hãi chúi mình vào lá rau. Nó không
còn bay được nữa. Chắc hẳn nó đã gẫy chân? Hay nó quá non nớt,
chưa bay xa được?
Tôi buông nạng, ngồi bệt trên nền đất, vừa quơ tay tìm nó, vừa
vỗ về: “Không sao! không sao! để ta băng bó cho”.
Tôi bắt được nó không khó. Nó run bần bật trong tay tôi. Nhìn mỏ
nó, tôi biết không phải nó quá non mà là đã quá già. Đôi mắt
bé tí của nó như có một lớp màng đục che phủ. Nó đã mù rồi
chăng? Tội nghiệp! con chim quá già không còn bay nổi, đành ngã
nhào xuống đất chờ chết!
Tôi còn lúng túng ôm nó trong tay thì đã nghe thấy tiếng con chim
cu đất khác trên cành cây bã đậu trước nhà như đang thảm thiết
khóc bạn. Một lát, nó bay đảo vòng khu vườn sau, nơi nó biết
chim bạn vừa ngã xuống. Nhiều lần như thế, rồi nó vỗ cánh bay
đi. Tôi nghĩ, nó đã bỏ cuộc.
Ủ con chim thương tích trong vạt áo, tôi mong hơi ấm giúp nó hồi
tỉnh nhưng thân thể nhỏ bé của nó bỗng giật từng hồi. Tôi biết
nó sắp chết. Tiếng kêu thảm thiết của loài cu đất chợt vang
động trên cao, Thì ra, con chim mất bạn bay đi gọi đồng loại tới
cứu. Chúng bay rợp cả khu vườn, vừa bay, vừa kêu thương. Trong tay
tôi, con chim già đã hóa kiếp! Nước mắt tôi chợt ứa ra. Tôi cũng
khóc theo bầy chim trên cây, cùng với chúng, tiễn đưa một linh
hồn.
Sau đó, tôi bỏ xác chim vào một hộp giấy nhỏ rồi hì hục đào
đất bên gốc hồng, định sẽ chôn nó, Nhưng phút giây, mắt tôi đang
nhìn chiếc hộp giấy nhỏ, bỗng không còn hộp giấy mà chợt biến
thành chiếc quan tài! Bên trong đó không phải xác chim mà là xác
đứa trẻ bị tê liệt đôi chân!!!
Không! tôi không muốn khi chết, tấm thân tàn tật này sẽ phải vùi
sâu dưới lòng đất. Tôi cũng thù hận đôi chân vô dụng này, ngay cả
khi chết đi tôi vẫn chưa rời bỏ nó được sao?!?! Không! khi chết,
tôi muốn được đốt tan thành tro bụi, thoát kiếp tật nguyền, cho
tôi hóa thân thành trăng và đá. Ôi! Trăng và Đá, giấc mơ thiên
thần tuổi nhỏ giờ trở thành định mệnh khốc liệt trong tôi.
Lửa cháy từ hộp giấy, bén vào lá khô, lan tới đống củi mục.
Lửa reo vui như thiên thần, lửa sôi sục vạc dầu hỏa ngục...
- Cháy! Cháy! Trời ơi, Vũ Thanh!
Tiếng mẹ tôi gọi giật, tiếng các em tôi lao xao rồi vòng tay cứng
rắn của cha nâng bổng tôi lên. Nước từ bốn phía tạt vào góc
vườn hồng ướt đẫm.
- Con làm gì ngoài đó, hả? hả? Tại sao lửa cháy rực trước mặt
mà con vẫn ngồi yên?
- Con đốt xác chim. Con giúp nó được thành tro bụi.
Cha tôi giận dữ, quát to:
- Trời! Chính con làm lửa cháy hả? Nếu em con không thấy khói
bốc để cả nhà chạy kịp ra thì con biết điều gì sẽ xảy ra
không? Đốt xác chim? Thật quái đản! Sao con không sống bình thường
được hả?
Tôi ngước nhìn cha. Hình như có những giòng phún thạch đang chảy
rần rần trong máu tôi, chảy ào ạt, sôi sục về tim, dồn lên não
bộ, chực chờ phun lửa!
Có lẽ cha tôi biết đã nói lỡ lời. Đôi mắt người dịu xuống,
nhưng đã trễ. Âm thanh câu nói “Sao con không sống bình thường được
hả?” như những nhát búa tàn nhẫn đập liên hồi trên vết thương
mưng mủ. Tôi gào lên:
- Sống bình thường, tốt quá! nhưng làm sao? làm sao tôi sống được
bình thường? Giúp tôi đi! các người giúp tôi đi! Bảo đôi chân rũ
liệt này đứng dậy, bước đi đi! rồi tôi sẽ sống bình thường.
Nào! Đôi chân đứng dậy coi!
Tôi chống tay, vùng lên! Đôi chân khốn khổ gập xuống như tầu lá.
Tôi lăn tròn trên nền gạch, Mẹ tôi bật khóc, nhào tới, nhưng tôi
trừng mắt, lạnh lùng:
- Đừng, đừng thương hại. Cả nhà hãy để tôi yên.
Phút giây đó, dường như toàn thân tôi biểu lộ sự quyết liệt tột
cùng. Mọi người lặng lẽ quay vào nhà.
Tôi chống nạng, về phòng, và ngồi lặng suốt buổi chiều cho tới
khi căn phòng tràn ngập bóng tối thì bất chợt tôi cảm thấy như
hồn mình bỗng lung linh ánh sáng huyền ảo của trăng sao. Tôi với
tay, lấy cây đàn, bấm bâng quơ vài âm thanh rời rạc. Âm thể ngũ
cung buông rơi lãng đãng quanh phòng mà bóng tối đang vỗ về một
hồn-thơ-kẻ-lạ. Không phải là tôi nữa vì tôi chưa bao giờ làm thơ.
Vậy mà, tôi đang nghe thấy giòng thơ tuôn chảy trong hồn. Làm sao
tôi bắt kịp cảm xúc này? Làm sao tôi ghi kịp? Làm sao tôi giữ
lại được đây? Mười ngón tay tôi run rẩy, quấn quýt trên sáu sợi
giây đàn. Và âm thể ngũ cung đưa tôi tìm gặp hồn thơ. Tôi nghe
thấy mình hát lao xao theo nỗi bi thương của cánh chim lẻ bạn, hay
chính là sự chia biệt theo lẽ hợp tan của nhân thế:
“Lửa cuồng tim tháng Hạ
Gọi tên người năm xưa
Chỉ ta, cùng cõi lạ
Chờ hoài nắng trong mưa
Chỉ ta, cùng cõi nhớ
Một góc trời rưng rưng
Áo xiêm ai thuở nọ
Còn ngát dậy trầm hương
Chỉ ta, cùng cõi vắng
Vết đau hằn trăm năm
Tóc xanh từng sợi bạc
Suối cạn giòng ăn năn
Chỉ ta, cùng cõi khuất
Sương khói mờ chân mây
Quẩn quanh đời vô ngã
Tri kỷ bình rượu cay
Chỉ ta, cùng cõi chết
Đốm lửa hồng que diêm
Cành khô dăm nhánh gẫy
Chút tro than vô tình...” (*)
Một trăm hai chục trường canh ghi vội từ hồn thơ chợt tới, không
sửa chữa, không dũa gọt; khi đàn và hát lên, tôi biết được một
điều. Đó là niềm tự tin mãnh liệt, RẰNG TÔI SẼ ĐỨNG DẬY ĐƯỢC
Tôi đứng dậy, không bằng đôi chân mà bằng ý chí quyết đi tìm lại
giấc mơ Trăng và Đá, giấc mơ thiên thần tuổi thơ đã vỡ vụn theo
số phận tật nguyền!
Có phải định mệnh đã dành cho tôi một con đường, như đã dành cho
quê hương tôi khúc quanh nghiệt ngã nơi cuối Tháng Tư Đen, để tôi
góp phần mọn mình, ghi lại những trang thống hận.
Rời quê trên chiếc ghe nhỏ, tôi đã biết đêm và bão tố, biển cả
và đói lạnh, nỗi chết và oan khiên. Là nhân chứng, tôi ôm đàn,
chống nạng tới những nơi có đồng bào tôi trôi giạt về. Bằng âm
nhạc, tôi nói với thế giới về người Việt Nam vượt biển tìm tự
do:
“Đêm nằm nghe bão tố
Tan tác mảnh lòng đau
Sóng cuồng điên phẫn nộ
Xác con giạt về đâu?
Đêm nằm nghe dao nhọn
Rạch nát cùng châu thân
Vết nhơ hằn tủi nhục
Hoen ố đời đoan trinh!
Đêm nằm nghe bóng tối
Dầy đặc nẻo tương lai
Đêm nằm chờ thế giới
Gửi tặng cỗ quan tài!” (*)
Bằng âm nhạc, tôi hát cho những người tù trên Quê Hương:
“Từ Trảng Bom, Trảng Lớn
Qua An Dưỡng, Hàm Tân
Thanh Phong, Ca Yên Hạ
Sống, chết đã bao lần
Đòn thù, hằn tơi tả
Huyết thổ từng bụm tươi
Xương gẫy dăm ba đốt
Da thịt ghẻ tanh hôi...” (*)
Bằng âm nhạc, tôi nói với người bản xứ về một địa ngục bên kia
bán cầu. Đó là quê hương tôi sau cơn hồng thủy:
“Từng ngày, dân chết đói
Từng ngày, tù chết oan
Từng ngày, người ra biển
Từng ngày, tình ly tan...” (*)
Tôi có mặt với cụ già, với sinh viên, với những người còn nuôi
dưỡng tình yêu Quê Hương, Dân Tộc để kêu gọi:
“Người đi thôi,
Người đi thôi,
Kìa những lực tàn vẫy gọi
Máu đã loang hồng biển khơi
Mạn thuyền vỡ nát,
Bập bềnh muôn xác nổi trôi
Người đi thôi,
Người đi thôi
Quê nhà xa thẳm
Mẹ chờ trong bóng chiều rơi
Một nắng hai sương
Ruộng cằn sỏi đá
Lúa ngô không mọc, hoa cỏ nào tươi
Đất mẹ đầm đìa nước mắt mồ hôi...” (*)
Bằng âm nhạc, tôi cũng hát lên nỗi thất vọng trước sự hắt hủi,
lạnh lùng của thế giới tự do đối với những đồng bào trôi giạt
tới sau lệnh đóng cửa trại tỵ nạn. Nào là em bé:
“Cha vùi thây chốn rừng thiêng
Bọn cuồng dâm hại mẹ hiền ngoài khơi
Em bơ vơ giạt xứ người
Chúa ơi! Phật hỡi! Lượng trời ở đâu?” (*)
Nào là cụ già:
“Lìa quê vì khát tự do
Quyết không mang nhục ấm-no-ăn-mày
Chỉ mong khi hiến thân này
Thắp lên được ánh lửa gầy trong đêm” (*)
Nào là trại giam, trại cấm:
“Cùng trên trái đất loài người
Nơi sang tột đỉnh, nơi rơi vực lầy
Rúc chui hang hốc đọa đầy
Ai rao giảng thế kỷ này văn minh???” (*)
Mười sáu năm, tôi tự nguyện làm nhân chứng về những bất hạnh
triền miên của dân tộc mình. Dù muốn nhận hay không, tôi đã được
đồng bào thương mến gọi là “Nghệ sỹ”. Nghệ sỹ có nhiều địa
hạt, tùy ở cơ duyên. Tôi là người nghệ sỹ được sinh ra để gắn
liền với định mệnh của lịch sử, của dân tộc. Nếu hiểu cho như
thế, hẳn khán thính giả của tôi đã nhiều phần không còn thắc
mắc là “Sao nhạc Vũ Thanh thiếu chất thơ mộng, ngọt ngào mà chỉ
chất chứa đau thương, uất nghẹn”. Lại càng không ai biết, từ lâu,
tôi giữ cho mình một niềm riêng, rất riêng. Đó là đôi mắt của cô
bé có gương mặt búp bê Nhật Bản. Tôi thấy cô bé thấp thoáng ở
hầu hết các buổi tổ chức có tính cách xã hội, đặc biệt là
vấn đề tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam. Cô bé làm phóng viên
bán thời gian cho một vài tờ báo. Cô chụp hình phóng sự, viết
bài tường thuật những buổi tham dự. Có lần, tình cờ gặp cô sau
hậu trường, cô nói:
- Lần nào nhìn anh Vũ Thanh đứng hát trên sân khấu em cũng muốn
khóc.
Giọng cô chân thực, vậy mà tôi suýt nói “Sao vậy? Tại thấy tôi
tật nguyền, tội nghiệp quá hả?” Nhưng tôi đã kịp giữ lại. Tôi
giận mình vô cùng. Từ lâu, tôi đã vượt qua được mặc cảm tàn tật
với mọi người, sao với cô bé, tôi lại để cho mình tủi thân như
thế? Tôi ngượng ngùng khi biết mình hay ra vẻ tình cờ ghé tới
các tòa báo, nơi cô làm việc, nhưng tới nơi thì lại mong đừng
gặp. Điều gì đó, đang xôn xao trong trái tim hai mươi chín tuổi;
nhưng lý trí cứng cỏi dập tắt ngay chút mơ mộng chưa nhen nhúm.
Lý trí bảo tôi rằng, đừng nhầm lẫn giữa tình yêu và ngưỡng mộ,
nhất là với phái nữ, Tôi biết thế, nhưng đôi mắt trong sáng và
gương mặt búp bê của cô bé vẫn không buông tha,
Một lần, không hiểu các hội đoàn mời tôi tới buổi họp báo này
để làm gì vì chương trình không thấy ghi có phần văn nghệ. Nhưng
quý ban tổ chức, tôi cũng chống nạng tới và ngồi dưới hàng ghế
khán giả. Mắt tôi không rời bóng dáng cô bé đeo máy hình, nhấp
nhô giữa đám đông. Hình như có lúc cô thấy tôi. Cô giơ máy về
phía tôi, bấm, rồi mỉm cười. Trên bục gỗ, chủ tọa đoàn tường
trình sự việc về những tổ chức ma, đang lũng đoạn sinh hoạt
chung với mục đích làm mất chính nghĩa đi tìm tự do của người
Việt hải ngoại. Sau đó, ban tổ chức mời đồng bào hiện diện
phát biểu ý kiến.
Thật không ngờ cô bé là người đầu tiên bước lên. Cầm máy vi âm,
cô nói ngắn và gẫy gọn:
- Tôi thấy thực xấu hổ cho những kẻ lành lặn mà chỉ bước quanh
quẩn trong vòng danh lợi phù du, trong khi có những người tàn tật
không ngớt xả thân phục vụ lý tưởng tự do và đã bước những
bước sâu đậm vào hồn dân tộc.
Cô bé bước xuống trong tiếng vỗ tay.
Mắt tôi cay quá! Và lòng tôi thổn thức quá!
Tôi có được quyền chủ quan để nghĩ rằng, lời phát biểu vừa rồi
cô đã dành phần cuối cho tôi không? Nếu có, thì cô bé đã không
chỉ nhìn tôi qua lớp hào quang khán thính giả đã cho tôi, mà
chính cô đang thắp ngọn nến nhỏ, khởi từ chính nỗi bất hạnh
tối tăm của một kẻ tàn tật.
Người đốt đuốc đi trong đêm không phải là người chỉ đi tìm bạn,
mà là đi tìm tri kỷ.
Thơ Nhạc ơi, trái tim đau đớn triền miên của tôi có còn đủ thanh
xuân để lại dệt cho mình một giấc mơ Trăng và Đá?
(*) thơ DT
Việt Dũng
|