-
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú sinh năm 1929 tại Hà Đông, Bắc
Việt. Sau khi tốt nghiệp khóa 8 trường Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt vào
giữa năm 1953, ông đă t́nh nguyện phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù.
Ngày 14 tháng 3/1954, trong t́nh h́nh chiến trường Điện Biên Phủ vô
cùng sôi động, ở cấp bậc Trung Úy ông đă chỉ huy một đại đội của Tiểu
Đoàn 5 Nhảy Dù, nhảy xuống Natasha, một vị trí sát phi đạo chính. Sau
hơn một hơn tháng liên tục giao tranh với Việt Minh, ngày 16 tháng
4/1954, Trung Úy Phạm Văn Phú đă chỉ huy một thành phần của Tiểu Đoàn
5 Nhảy Dù cùng với các đơn vị bạn phản công tái chiếm một cứ điểm
trọng yếu. Sau trận phản công này, ông được thăng cấp Đại Úy tại mặt
trận khi vừa đúng 25 tuổi, và đến ngày 26 tháng 4/1954, được cử giữ
chức Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Ngày 7/5/1954, Điện Biên
Phủ thất thủ, ông bị địch quân bắt giam. Sau 20/7/1954 (Hiệp định
Genève), ông được trao trả và tiếp tục phục vụ trong quân đội Việt Nam
Cộng Ḥa (VNCH).
-
Năm 1960, được tuyển chọn để phục vụ trong binh chủng
Lực Lượng Đặc Biệt. Cuối năm 1962, thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ
Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Quan Sát 77 Lực Lượng Đặc Biệt. Giữa tháng
5/1964, ông đă chỉ huy liên đoàn này đánh tan Trung Đoàn 765 Cộng Sản
Bắc Việt (CSBV) tại Suối Đá, Tây Ninh. Gần cuối năm 1964, ông được
thăng Trung Tá và giữ chức tham mưu trưởng Lực Lượng Đặc biệt. Một năm
sau, ông được thăng Đại Tá nhiệm chức.
- Đầu năm 1966, không hiểu v́ lư do ǵ, ông bị vị Tư
Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt tŕnh Bộ Quốc Pḥng thâu hồi cấp Đại Tá nhiệm
chức và thuyên chuyển ra miền Trung, giữ chức Phụ Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2
Bộ Binh, giữa năm 1966, ông là Đại Tá Tư Lệnh Phó, xử lư thường vụ Tư
Lệnh Sư Đoàn này. (Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh là Thiếu Tướng Hoàng Xuân
Lăm, được cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 1 Vùng 1 Chiến Thuật vào cuối
tháng 5/1966). Cuối năm 1966, ông được điều động ra Sư Đoàn 1 Bộ Binh
làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn. Giữa năm 1968, được cử giữ chức vụ Tư Lệnh
Biệt Khu 44 (bao gồm các tỉnh biên giới ở miền Tây Nam phần). Năm
1969, được thăng cấp Chuẩn Tướng tại mặt trận. Đầu năm 1970, chuẩn
Tướng Phú được cử thay thế Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng trong chức vụ Tư
Lệnh Lực Lượng Đặc biệt.
-
Gần cuối tháng 8/1970, Tướng Phú được Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh thay thế
Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng, được cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4.
Tháng 3/1971, ông được thăng Thiếu Tướng tại mặt trận sau cuộc hành
quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào (ngoài Tướng Phú, có hai Đại Tá được thăng
cấp chuẩn tướng: Đại Tá Vũ Văn Giai -- Tư Lệnh phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh,
Đại Tá Hồ Trung Hậu -- Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhảy Dù). Trong cuộc chiến
mùa Hè 1972, ông đă điều động, phối trí các trung đoàn của Sư Đoàn 1
Bộ Binh giữ vững pḥng tuyến Tây Nam Huế. Do điều kiện sức khỏe, đến
tháng 9/1972, ông bàn giao Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho Đại Tá Điềm, Tư Lệnh
Phó, xử lư thường vụ. Từ 1973 đến tháng 10/1974, ông giữ chức chỉ huy
trưởng Trung Tâm Huấn luyện Quang Trung.
-
Tháng 11/1974, thể theo đề nghị của Thủ Tướng Trần
Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu đă kư sắc lệnh cử ông giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Quân
Khu 2 thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn.(Tướng Toàn trở lại binh
chủng Thiết giáp, giữ chức chỉ huy trưởng).
-
Nhận chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 không phải do chính
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lựa chọn, hoặc do Đại Tướng Cao Văn Viên
-- Tổng tham mưu trưởng -- đề nghị, nên Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đă
gặp nhiều khó khăn trong việc sắp xếp nhân sự cao cấp phụ tá ông để
điều hành bộ Tư Lệnh. Thông thường, các Tư Lệnh Quân Đoàn được quyền
chọn lựa tham mưu trưởng, sau đó, bộ Tổng tham mưu sẽ ban hành quyết
định hợp thức hóa, thế nhưng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đă bị bộ Tổng
tham mưu "hạn chế" các quyền hạn dành cho Tư Lệnh Quân Đoàn. Khi Tướng
Phú nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn 2, vị tham mưu trưởng đương nhiệm là
Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm. (Trong thời gian từ 1967 đến tháng 6/1968,
khi Tướng Phú c̣n mang cấp Đại Tá và giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1
Bộ Binh th́ tướng Cẩm c̣n là Trung Tá, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn này).
-
Trong những tuần lễ đầu tiên, Tướng Phú đă hai lần đề
nghị hai vị Đại Tá giữ chức vụ tham mưu trưởng Quân Đoàn thay chuẩn
tướng Cẩm được bổ nhiệm làm Phụ Tá Hành Quân Tư Lệnh Quân Đoàn 2,
nhưng cả hai lần đều bị Trung Tướng Đồng Văn Khuyên tham mưu trưởng
Liên quân tŕnh với Đại Tướng Cao Văn Viên bác bỏ. Cuối cùng, theo đề
nghị của Trung Tướng Khuyên, Đại Tướng Cao Văn Viên đă bổ nhiệm Đại Tá
Lê Khắc Lư, nguyên tham mưu trưởng bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1
giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2. Dù vị tham mưu trưởng không
do ḿnh chọn lựa, nhưng Tướng Phú đă tin dùng và ủy nhiệm cho Đại Tá
Lê Khắc Lư nhiều quyền hạn trong việc điều hành Bộ Tư Lệnh.
-
Trước khi cuộc chiến Cao Nguyên (năm 1975) bùng nổ,
Tướng Phú được Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Pḥng 2 Quân Đoàn tŕnh bày
về các khả năng Cộng quân sẽ mở cao điểm tại Ban Mê Thuột, thế nhưng
không hiểu v́ sao, Tướng Phú không tin và nhận định rằng Pleiku mới là
chiến trường trọng điểm, c̣n Ban Mê Thuột là mặt trận phụ mà Cộng quân
muốn tạo thế trận nghi binh. Trận chiến Ban Mê Thuột đă bùng nổ vào
rạng sáng ngày 10 tháng 3/1975. Bốn ngày sau, vào trưa ngày 14
tháng 3/1975, trong một cuộc họp đặc biệt tại Cam Ranh, Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đă ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái
toàn bộ Quân Đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
-
Sau khi lực lượng Quân Đoàn 2 triệt thoái khỏi Nha Trang,
1 giờ 45 trưa ngày 2 tháng 4/1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú và vài sĩ
quan thân tín đă bay đến ngọn đồi "Lầu Ông Hoàng" để chờ Thiếu Tướng
Nguyễn Văn Hiếu -- Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3 -- tới nhận bàn giao
phần lănh thổ cuối cùng của Quân Khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân Khu
3. Vào giờ phút đó, quanh Tướng Phú chỉ có: Đại Tá Đức --nguyên Phụ Tá
Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đặc trách lực lượng diện địa; Thiếu Tá Vinh, chánh
văn pḥng; Thiếu Tá Hóa, sĩ quan tùy viên, và Thiếu Tá Phạm Huấn, sĩ
quan Báo chí. Chính tại đây, Tướng Phú đă có quyết định tự sát, nhưng
Đại Tá Đức đă kịp thời cản ông. Theo lời kể của Thiếu Tá Phạm Huấn,
vào lúc 2 giờ 12 phút cùng ngày, Thiếu Tá Hóa tới tŕnh cho Tướng Phú
là trực thăng của Tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi đó, Thiếu Tá Huấn đứng
gần Tướng Phú, thấy đôi mắt Tướng Phú như muốn tóe lửa. Và sau khi
Thiếu Tá Hóa quay gót, Tướng Phú vất điếu thuốc lá đang cầm trên tay
xuống đất. Rất nhanh, ông rút khẩu súng ngắn ṇng ra khỏi vỏ. Nhưng
tiếng hét thất thanh của Đại Tá Đức: "Thiếu Tướng". Khẩu súng trên tay
Tướng Phú bị gạt bắn xuống đất. Sự việc này xảy ra quá bất ngờ...
-
Giữa tháng 4/1975, Tướng Phú lâm bệnh, vào điều trị
tại Tổng Y Viện Cộng Ḥa. Ngày 15 tháng 4/1975, Đại Tá Phạm Văn Chung,
cựu Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, nguyên tỉnh trưởng
kiêm tiểu khu trưởng Quảng Nam, đă vào thăm Tướng Trưởng và Tướng Phú
đang nằm dưỡng bệnh. Chính trong lần thăm này, Đại Tá Chung đă nghe
Tướng Phú trăn trối, và kể lại như sau:
Rời pḥng Trung Tướng Trưởng, tôi (Đại Tá Chung) qua pḥng kế bên cạnh
là pḥng của Thiếu Tướng Phú, cũng đang nằm dưỡng bệnh kế đó. Bước vào
pḥng tôi thấy Thiếu Tướng Phú đứng dậy ngay và bắt tay tôi bằng một
giọng hằn học, tức tối: "Anh Chung, anh từng hành quân với tôi đă lâu..."
Nói đến đây Thiếu Tướng Phú ôm tôi và khóc tiếp với giọng nghẹn ngào,
tức tối:
"...mà đêm qua, Tổng Thống Thiệu lên đài nói chuyện và đổ tội cho các
tướng lănh là hèn nhát bỏ chạy. Anh cứ về hỏi Trung Tướng Trưởng xem,
trong buổi họp hôm trước, có cả Trung Tướng của anh nữa đấy, tôi đă
xin Tổng Thống cho tôi giữ Pleiku bằng mọi giá, Tổng Thống không chịu,
bắt tôi phải rút... có cả Đại Tướng Viên và Đại Tướng Khiêm nghe nữa
mà bây giờ Tổng Thống nói chuyện với toàn dân đổ tội cho chúng tôi,
thật cái nhục này tôi không biết tỏ cùng ai, không biết đồng bào có
hiểu không, chỉ có cách chết mới hết nhục".
Tôi (Đại Tá Chung) không khỏi ngậm ngùi thương xót chia xẻ nỗi oan ức
của một vị đàn anh đáng kính như Thiếu Tướng Phú, nên tôi hết lời an
ủi và khuyên Thiếu Tướng hăy b́nh tỉnh và nên tĩnh dưỡng.
- Đó là lần cuối cùng Đại Tá Chung gặp Tướng Phú.
Sáng ngày 29 tháng 4/1975, tại căn nhà riêng ở đường Gia Long, chờ khi
vợ và các con rời nhà để đi về phía Trường Đua Phú Thọ t́m cách di
tản, Tướng Phú đă uống một liều thuốc cực mạnh tự tử. Người em trai
của bà Phú sau khi biết tin này đă chạy tới vào cho bà biết.
Cả gia đ́nh quay về. Theo lời kể của con trai Tướng Phú, đă vượt biên
sang Mỹ, những giờ cuối của Tướng Phú được ghi nhận như sau: Nhờ có
các bác sĩ Pháp gần nhà giúp đỡ, Tướng Phú được đưa vào bệnh viện
Grall để cấp cứu. Nhưng Tướng Phú mê man liên miên, măi đến trưa ngày
30/4/1975, ông mới tỉnh được giây lát và thều thào hỏi người vợ đang
ngồi cạnh:
- T́nh h́nh đến đâu rồi?
Bà Phú nói:
- Tướng Dương Văn Minh ra lệnh Quân đội bỏ súng đầu hàng, và Cộng sản
đă vào tới Sài G̣n!