Bảo Quốc-Trấn Không

 

 

 

Trần Ngọc Nguyên Vũ

 

 

Nơi đất trích trăm ḍng sông Dịch

Kinh Kha nh́n quanh cả vạn muôn

Há chỉ ḿnh ta xuôi biên tái

“Nhất khứ bất phục phản” là thường.(2)

 

***

 

PleiKu! Vùng đất nghiệt ngă của thiên nhiên dành cho con người với những cơn gió núi mưa rừng rả rích trói buộc bước chân người khách lữ. Những người lính đồn trú ở đây gọi nó là “vùng đất đầy ải”, hay một cái tên nghe có vẻ giang hồ và lăng mạn hơn là “Đất Trích”. Cái thành phố mà “Lính” nhiều hơn “Dân” này, nằm nhô ḿnh lên giữa một vùng núi đồi trùng điệp của vùng Tây Nguyên quanh năm ngút ngàn khói lửa. Ở đây vào mỗi buổi chiều, khi chiếc phi cơ của hăng hàng không VN vừa cất cánh để bay về SàiG̣n, cùng tiếng gầm rú của chiếc C130 cuối cùng theo sau rời phi đạo, th́ người ta có cảm tưởng như ḿnh bị cô lập trong một thung lũng huyền bí mà ngoài kia là những ŕnh rập bí ẩn của núi rừng…PleiKu là nơi dừng chân của nhiều sắc lính từ khắp 4 vùng chiến thuật. Những người lính mà tên tuổi đă danh trấn giang hồ như: Đào Trọng Vượng, Hoàng Phổ, Đào Văn Năng, Nguyễn văn Song, Trần Cao Chánh, Vương Mộng Long, Phùng Nhi Cầu, Hậu, Phong, B́nh, Thủy, Quán, Thại, Ư , Đỗ Mạnh Trường, Trần Tiễn San của Biệt Động Quân, và Nguyễn Đ́nh Bảo, Nguyễn (Sông) Lô, Bùi Đức Lạc, Mễ, Đoàn Phương Hải, Tô Phạm Liệu, Hiệp, Thanh của Nhẩy Dù…và c̣n rất nhiều những người khác nữa. Họ là những người đă được tôi luyện trong những “ḷ cừ” của quân đội, và được bọc kín trong cái vỏ “quân phong quân kỷ” bằng thép. Nhưng đôi khi họ cũng tự thoát ra khỏi cái vỏ cứng ngắc đó để sống tuyềnh toàng theo “giang hồ”. Cũng bởi giang hồ không có vua, nên những ông “vua không ngai” này chỉ khuất phục trước cái “phong độ” và “luồng hào khí ngút trời” của tráng sĩ. Riêng Trần Cao Chánh cũng đă có lần muốn làm nên đại cuộc, nhưng ư trời chưa thuận theo ḷng người nên nửa đường đành đứt đoạn…Sau này trên bước đường giang hồ phiêu bạt, vào những đêm trăng mờ huyền hoặc, người ta lại nghe được tiếng gầm bi thiết của những con mănh sư lạc bầy, cô đơn bốc lên như muốn chọc thủng cả một khung trời tưởng vọng…

 

Đối với lính, th́ dù là đất trích hay đất lành, họ cũng là những người đến rồi đi như bóng mây. Nhưng với người dân sống ở đây th́ PleiKu như có một ma lực vô h́nh nào đó giữ họ lại; chẳng khác nào như những ḍng sông huyền hoặc quấn chặt lấy núi rừng, cuộn ḿnh nằm yên lặng làm chứng nhân cho những buổi lễ phong thần…Ai đă một lần đến đây và thấy yêu PleiKu, th́ phải ở cho đủ hai mùa mưa nắng, mới “thấm” và “cảm thông” được tâm t́nh u uẩn của “người phố núi”.

 

PleiKu gió núi mưa rừng đổ

Người đến rồi đi như bóng mây

Bỏ lại những chiều nơi phố thị

Thung lũng buồn thung lũng ngóng mây bay

 

Tây Nguyên! …Theo lời kể của một “hậu duệ” ḍng họ Vơ là Trung Tá Vơ Quế, KĐT/KĐ/YC PleiKu th́ ngày xưa nơi đây là vùng “đất phong” của nhà Nguyễn cho những người có công với triều đ́nh. Những tỉnh như Vơ Đắt, Vơ Định gần PleiKu là đất phong của nhà vua cho họ Vơ, và hiện nay vẫn c̣n ghi trên bản đồ nước Việt. Đối với dân Không Quân th́ PleiKu chẳng phải là vùng đất xa lạ ǵ, họ có mặt ở đây từ cái thủa mà phi đạo của phi-trường Cù-Hanh c̣n được lót bằng những tấm vỷ sắt (PSP), nằm cạnh “cô hàng xóm” Holloway của đoàn Trực Thăng Không Kỵ Hoa Kỳ. Cái khắc nghiệt nhất của PleiKu đối với dân phi-hành là phi-trường này chỉ có độc nhất một phi đạo nằm theo hướng “Đông – Tây”. Buổi sáng th́ gió thổi từ hướng Đông, c̣n buổi chiều th́ gió lại kéo về từ hướng Tây. Cho nên khi cất cánh hay về đáp, người lính KQ luôn luôn phải trực diện với tia mặt trời quái ác chiếu thẳng vào mắt họ. Một tay nghề c̣n non rất có thể sẽ lănh một hậu qủa nguy hiểm. Về mùa Hè, sau những phi-vụ vật lộn với tử thần nơi chiến địa. Người phi-công mang con tầu về đáp, trong lúc đầu óc c̣n đang miên man suy nghĩ t́m một vần thơ t́nh tự gởi về cho “người phố núi”…đến khi nghe thấy tiếng âm thoại trầm ấm văng vẳng vỗ về bên tai: ” – VNAF! Đây đài kiểm soát Holloway…” th́ người phi công hào hoa mới hoảng hồn tỉnh mộng, và thấy ḿnh đă lạc cánh sang nhà “cô hàng xóm” mất rồi. Nhưng đă qúa muộn. Trong cuộc đời của người lính chiến KQ, nếu có những lỗi lầm chết người, th́ đôi khi cũng có những lầm lỗi thật dễ thương, và thật…đáng nhớ. Sau khi theo chiếc xe Pickup mầu xanh có đeo tấm bảng kẻ hàng chữ mầu trắng “Follow Me” to tổ chảng ( để dù mắt có lèm nhèm cũng vẫn đọc được) về bến đậu. Người khách lạ lạc đường, một đêm gơ nhầm cửa, được “cô hàng xóm” dễ thương khoản đăi một bữa ăn tối “để đời” tại câu lạc bộ sĩ quan (BOQ). Sáng hôm sau trước khi lên đường lại c̣n tiễn thêm một bữa ăn sáng đầy đủ chất dinh dưỡng, kèm thêm một “ly cối” coffee hảo hạng loại “Good to the last drop” cho tỉnh ngủ…

 

PleiKu! Vùng đất đầy ải đă từng đón tiếp những tên tuổi lẫy lừng của KQ như Trần Văn Minh, Đỗ Trang Phúc, Nguyễn Văn Trang, Nguyễn Hồng Tuyền, Lưu Đức Thanh, Vơ Quế, Nguyễn Ngọc Khoa, Lê Bá Định, Nguyễn Văn Bá, Lê Văn Thảo, Nguyễn Quốc Thành, Lê Mộng Hoan, Lê Như Hoàn, Phạm Bính, Phạm Đ́nh Anh, Dan Hoài Bửu, Lê Thanh Hồng Vân, Trần Mạnh Khôi, Tạ Thượng Tứ, Nguyễn Văn Mười, Lê Quốc Đức, Trần Văn Nghiêm, Phan Hiền Tính, Nghiêm Ngọc Ẩn, Nguyễn Quan Vĩnh, Đào Bá Hùng, Nguyễn Ngọc Lành, Lê Thuận Lợi, Ngô Nhơn, Phan Đ́nh Hùng, Đào Quang Vinh, Vĩnh Quốc, Phạm Công Khanh, Vũ Đức Thắng, Trương V. Vinh, Nguyễn Phú Chính, Đặng Văn Âu, Nguyễn Qúy Chấn, Nguyễn Quư An, Trương Nguyên Thuận, Thái Ngùng, Ngô Đức Cửu, Vũ Ngọc Liễn, Phạm Ngọc Hà, Hoàng Mạnh Dzũng, Vơ Ư, Mai râu, Trần Văn Lân, Lê Văn Bút, Đạt…cùng những khuôn mặt trẻ như Hoàng Trọng Hùng, Hai c̣i, Lê B́nh Liêu, Hùng Chùa, Đinh Đức Bản, Nhân (hạt ni), Vĩnh Hiếu, Nguyễn Đ́nh Xanh, Chỉnh, Phạm Hữu Lộc, Đệ, Thống, Lạc, Xuân, Long, Thụy, Sơn, Tuấn, Trung, Vĩnh Thuận, Hải, Dự, Phúc, Nguyễn Tài Cơ…và bao nhiêu những người khác nữa. Họ là những người đă tạo nên những “Huyền Thoại” cho vùng đất này. Những huyền thoại không cần kiểm chứng. Bởi v́ có bao giờ ta đứng ngắm một bông lan rừng mọc cheo leo trên gềnh đá, mà c̣n hỏi cơn gió nào, hay loài chim nào đă mang hạt giống hiếm qúy gieo xuống đây, để nó mọc lên chồi lan đang tỏa hương thơm ngát này hay không? Trải qua suốt một khoảng chiều dài trong lịch sử của cuộc chiến, đă có biết bao nhiêu người KQ đă làm nên “huyền thoại” như Nguyễn Văn Hạnh, Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử, Nguyễn Quang Tri, Phạm Long Sửu, Nguyễn Ngọc Biện, Lưu Kim Cương, Nguyễn Văn Tường, Dương Thiệu Hùng, Huỳnh Văn Vui, Phạm Đăng Cường, Phạm Văn Thặng, Nguyễn Du, Trần Thế Vinh, Nguyễn Gia Tập, Đào Giang Hải, Bùi Đại Giang, Bùi Ngọc B́nh, Khưu Văn Phát, Trương Phùng, Trang Văn Thành, Tào Thuận, Dương Huỳnh Kỳ…và nhiều người khác nữa. Họ, những người trai thế hệ, không những đă ghi những ḍng chữ bi hùng trên trang quân sử máu của dân tộc mà c̣n đi sâu vào ḷng người qua bao thế hệ…

 

 

Mùa Hè năm 72, trời Tây Nguyên nổi cơn gió bụi. Thành phố PleiKu sôi sục như nồi nước trên ngọn lửa. Những tin tức tối mật và thượng khẩn từ biên thùy tới tấp gởi về pḥng hành quân Quân Đoàn và Trung Tâm Hành Quân Không Trợ. Máy truyền tin bốc khói. Phi trường PleiKu nhộn nhịp suốt ngày với những chuyến bay hành quân, chuuyển quân và di tản. Những chiếc vận tải cơ kổng lồ C130 khi đáp nhả ra những toán quân tăng viện, và khi cất cánh mang theo những người dân di tản về vùng an toàn…

 

Ngồi trong pḥng lái của chiếc phi-cơ chất đầy bom đạn đậu nơi đầu phi-đạo chờ cất cánh, người lính chiến Không-Quân đă nh́n thấy cảnh đoàn người cúi rạp ḿnh dưới sức gió vũ băo của chiếc C130, tất bật chạy lên phi cơ. Lẫn lộn trong cái hỗn độn, vội vàng kia, là h́nh ảnh một người con gái với mái tóc rối bời tung bay theo gió, vạt áo dài quằn-quại quấn lấy bước chân nghiêng ngả trên sân bay… H́nh ảnh bi hùng này đă làm cho tấm ḷng chai đá của người lính KQ nổi lên nỗi xót xa… Anh giơ tay vẫy chào tạm biệt đoàn người trên sân bay, và bấm nút vô tuyến liên lạc với người phi-công vận-tải: “Chúc bạn một chuyến bay an toàn, chúng tôi đang vào trận để cản bước quân thù đây.” Rồi anh mím môi tống tay ga, đưa con tầu lao ḿnh vào vùng trời mịt mù khói lửa…

 

Trời đất mịt mù cơn băo lửa

Phượng hồng rũ cánh tả tơi bay

Em đi bụi đỏ vương tà áo

Quấn cả theo chân bước đọa đầy.

Gặp em buổi nắng tàn phi đạo

Rối bời vạt tóc xơa tung bay

Ơi người con gái chiều di tản

Trôi dạt về đâu thế cuộc này.

 

Giữa tháng Tư năm 1972, phố núi bừng lên, đêm cao nguyên mở hội đón những người lính “Nhẩy Dù” đến tăng viện cho chiến trường. Phạm Văn Thặng cùng các bạn đến “Quán Biên Thùy” uống ly rượu ân t́nh để đưa tráng sĩ lên đường…Sóng gió gầm thét vang trời. Những người lính Bộ Binh, Nhẩy Dù, Biệt Động Quân và Không Quân vào trận, quay cuồng trong lửa đạn, phóng tay điểm lên bức tranh sơn hà những đường nét bi tráng…Dương Huỳnh Kỳ, con thần điểu của phi-đoàn Thái Dương 530, lao xuống mục tiêu, trầm ḿnh trong ngọn lửa mịt mùng đốt cháy địch quân. Cuốn theo ngọn âm phong xoáy thủng ḷng người:

 

“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi”

“Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi”

“Chinh phu tử sĩ mấy người”

“Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn.” (1)

 

Khói lửa ngút ngàn…Hồn tử sĩ chập chờn muôn ngả…”Đá vọng phu mọc khắp biên cương.” (2) Cả đất trời cũng nhạt nḥa ngấn lệ, tiếc thương cho người anh hùng nửa đường đứt gánh. Kỳ ra đi mang theo cuộc t́nh lỡ của “người em gái nhỏ PleiKu”, và cả mộng ước b́nh thường của người cha ǵa, chỉ mong có một đứa cháu nội để bồng ẵm trước khi cụ về với cụ bà nơi cơi vĩnh hằng cao diệu vợi…Khi Kỳ leo lên chiếc khu-trục cơ chất đầy bom đạn để ra chiến trường, th́ cha của Kỳ cũng đáp chuyến bay của hăng Hàng Không Việt Nam từ PleiKu về SáG̣n, để từ Sài G̣n lấy xe đ̣ về Cần Thơ. Ngồi trên phi cơ cụ miên man xây mộng… “Tháng tới lên đây làm lễ cưới cho tụi nó, rồi năm sau lại lên đón vợ chồng chúng nó bồng con về thăm quê nội…” Nhưng những điều mơ ước của cụ đă bốc thành mây khói theo với bom đạn ngang trời…

 

Cuối tháng 5 năm 1972, Phạm Văn Thặng một ḿnh lội qua bờ sông định mệnh…Ḍng Dakbla sủi bọt gầm lên mộ khúc bi ai…Trời KonTum lại thêm một lần vần vũ đám mây tang khóc cho một loài chim gẫy cánh. Toán Lôi Hổ của “Chiến Đoàn 2 Xung kích” nhẩy xuống bốc xác người lính KQ tuẫn quốc. Xác Thặng được mang về SàiG̣n để làm lễ an táng…Thiếu Tá Ngô Văn Mai TĐT/TĐ11/BĐQ và Trung Úy Trần Cao Chánh quyên góp anh em một số tiền lớn giao cho con “tiểu mănh sư” Phùng Nhi Cầu mang về SG đưa cho gia đ́nh Thặng. Ngày an táng Thặng, Th/Tá Đoàn Phương Hải, người lính vừa trở về từ cơi chết, chống nạng đến đưa tiễn một người bạn đang quay lưng đi vào cơi chết…Có nh́n thấy những người lính Dù và Biệt Động Quân đứng sau quan tài của Thặng, người ta mới cảm nhận được tất cả những ân t́nh sâu đậm, và nghĩa cử cao đẹp của người lính đối với chiến hữu của họ.

 

Rồi th́ “cơn gió bụi” cũng qua đi…Sau cơn mưa dông trời lại sáng. Nhưng cuộc chiến nào cũng có cái giá của nó mà người tham dự phải trả. Hàng chục ngàn địch quân đă ngă xuống. Về phiá ta, tất cả những đơn vị tham chiến đều bị thiệt hại nặng nề. Tiểu đoàn BĐQ biên pḥng phải hy sinh vị tiểu đoàn trưởng anh dũng là Đ/U Bửu Chuyển và hơn một nửa quân số. Thiếu úy Nguyễn Đ́nh Xanh thoát ra khỏi chiếc khu trục cơ lâm nạn, nhẩy dù xuống giữa trận tiền cản đường quân giặc, để TĐ phó Phan Thái B́nh dẫn nửa c̣n lại từ Polei-Kleng rút về hậu cứ. Tiểu đoàn 11 Dù đă phải bỏ lại người anh cả thân yêu của tiểu đoàn, Trung Tá Nguyên Đ́nh Bảo, cùng những “kinh kha của thời đại” nơi chiến địa. Tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Mễ bị trọng thương, Đ/U Đoàn Phương Hải thay quyền của Đích Thân, dẫn anh em rời “vùng đất chết Charlie” dưới cơn mưa pháo của địch. Tiểu đoàn 11BĐQ của Th/Tá Ngô Văn Mai cùng những con mănh hổ của vùng “rừng núi śnh lầy” cũng cùng chung một định mệnh như những người lính Lôi Hổ của “Chiến Đoàn 2 Xung Kích”…Sư Đoàn 22BB mất đi vị chỉ huy khả kính cùng hằng ngàn tráng sĩ thà chết không bỏ thành. Để lại tấm gương trung liệt cho ngàn sau chiêm ngưỡng. Không Đoàn 72CT và các đơn vị tăng phái của Không Đoàn 62CT chưa bao giờ mất nhiều phi-cơ và nhân sự như thế.Thiếu Uư Nguyễn Tài Cơ một trong “53 Thái Dương Chi Bảo” của PĐ/530, đă bỏ chiếc phi-cơ bốc cháy trên ṿm trời lửa đạn, bung dù thoát hiểm. Sau 2 ngày lặn lội trong rừng sâu núi thẳm, áp dụng tất cả những ǵ đă học được từ bài học “thoát hiểm mưu sinh” để lẩn tránh những đơn vị của địch quân đang điên cuồng t́m bắt người phi công lâm nạn. Cuối cùng người phi công trẻ của phi đoàn 530 đă được John Paul Vann, cố vấn của Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đang bay thị sát chiến trường, nhận được tín hiệu, nhào xuống bốc về PleiKu…

 

 

Sau khi đưa anh về đơn vị, viên cố vấn cao ngạo nhất trong những cố vấn của đồng minh Hoa Kỳ, theo đúng luật giang hồ, đă đứng thẳng người giơ tay chào người phi công can trường của KLVNCH. Mấy ngày sau, phi cơ của John Paul Vann bị bắn nổ tung trong lúc bay qua vùng đóng quân của địch. John P. Vann một người trai xứ lạ, anh đến đây và chết ở đây như một lời nguyền của những ḍng sông oan trái. Ngày anh đi, hành trang chẳng có ǵ để mang theo, ngoài một khối t́nh không trọn của người ở lại…Trong cuộc chiến khốc liệt này, có biết bao nhiêu tráng sĩ, cùng những người lính Không Quân đă nhập cuộc trọn vẹn, để góp phần cho cuộc chiến thắng của toàn quân.

 

Thái Dương vừa rơi hôm trước

Bàng hoàng c̣n tưởng cơn mê

Thần Tượng Lạc Long chưa t́m được xác

Bắc Đẩu Sơn Dương chẳng thấy về

Mưa rừng rơi phủ lê thê

Bản đồi cúi mặt chiều tê tái buồn.

 

Máu của địch, máu của quân ta đă đổ ra chan ḥa khắp nẻo, để tưới bón cho ngàn cây xanh lá, cho khóm Dă Quỳ hoang dại trổ sắc vàng tươi. Áp lực cuả địch quân ban đầu trùm lên cả một vùng núi đồi rực lửa từ PoleiKleng, Tân Cảnh đến KonTum, Pleiku đă được những người lính oai hùng của QLVNCH giải tỏa. Người dân sau một lần tất bật di tản, nay lại lần lượt trở về theo tiếng gọi của rừng sâu núi thẳm. Họ trở về để gây lại cuộc sống đă hơn một lần bị đứt đoạn. Những con đường sau một thời gian vắng bóng, nay lại thấp thoáng những vạt tóc mềm ấp ủ bờ vai, những tà áo dài quấn quưt bước thân thương, cùng những tiếng giầy, tiếng guốc ngập ngừng gơ nhịp trên mặt đường…Đoạn đường tuy có ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để hồn thơ của khách đa t́nh dấy lên, ḥa nhịp theo với cung đàn diễm tuyệt. Hàng quán lại mở ra ân cần mời mọc người khách lạ phương xa…Nhưng ánh mắt long lanh, đằm thắm của “cô hàng” hôm nao; nay trong tia nh́n, trông sao đượm mầu đăm chiêu xa vắng. Ngọn đèn khuya vẫn le lói mà như heo hút chập chờn…Chao đảo theo cơn gió lạnh của núi rừng, như đợi như chờ người đi không trở lại. Người đi không trở lại, nhưng người ở lại vẫn đợi vẫn chờ. Niềm thương nỗi nhớ theo ngày tháng chồng chất lên vai, càng lúc càng nặng như những đám mây đen gầm gừ, chậm chạp kéo về tự cuối chân trời.

 

Anh đi rồi PleiKu gầy guộc nhớ

Đồi Cù Hanh sương khói phủ lê thê

Bao nhiêu chiều con đường xưa vẫn đợi

Từng mùa mưa lầy lội lối đi về.

 

Và rồi tất cả lại được bắt đầu bằng những xây đắp cần cù và nhẫn nại của “người phố núi”, như những con dă tràng se cát, để tạo ra cuộc sống, để làm nên cuộc t́nh…Cho đến ngày như định mệnh đă an bài, một thảm họa khốc liệt khác lại bất thần chụp xuống vùng núi đồi Tây Nguyên trùng điệp, kéo theo ngọn sóng thần cuồng nộ dâng lên, tràn theo tỉnh lộ 7, phủ trùm lấy KonTum, PleiKu, Phú Bổn…Cuốn trôi tất cả những dấu vết của vùng đất đầy oan trái. Vùng đất một thời được gọi là “Đất Trích!”.

 

Ta vẫn hoài mong từ dạo ấy

Một lần tạ lỗi với tang thương

Với khung trời phủ mờ sương khói

Với những gian truân những đoạn trường.

 

 

Trần Ngọc Nguyên Vũ

_______________________

 

Chú thích:

(1) Chinh Phụ Ngâm

(2) Thơ Phạm Ngọc Lư


_________________

 

Trần Ngọc Nguyên Vũ là bút hiệu của Thiếu Tá phi công khu trục “Thiên Kích, Skyraider” Trần Ngọc Hà, cựu SVSQK63A/KQ.


Tháng 11 năm 1970, từ Căn Cứ KQ Biên Ḥa, ông thuyên chuyển lên Phi Đoàn tân lập 530 Thái-Dương trên PleiKu, Phi-Đoàn Trưởng là Th/Tá Lê Bá-Định. Mấy tháng sau ông được bổ nhiệm làm trưởng-pḥng huấn-luyện KĐ72/CT thay vị trưởng pḥng cũ đi Hoa-Kỳ. Cũng trong năm 1971 ông bị bắn rớt, và nhẩy dù thoát hiểm trong phi-vụ yểm trợ cho tiền đồn BenHet.


Mùa Hè năm 1972, tại mặt trận Tây nguyên, phi công Trần Ngọc Hà đă phải nhảy dù tại Charlie v́ pḥng không địch, trong phi-vụ giải vây TĐ11 Dù. Vào thời điểm căng thẳng nhất của cuộc chiến, để khích lệ tinh thần các chiến hữu, ông coi việc nhảy dù ra khỏi chiếc phi cơ bốc cháy trên ṿm trời lửa đạn như là một môn thể thao thời thượng!


Sau mùa Hè đỏ lửa 1972, SĐ6KQ thành lập, ông được bổ nhiệm làm Tham-Mưu Phó CTKH/SĐ6KQ và đặc trách phần thuyết tŕnh về vấn đề không yểm cho các Sư-Đoàn BB và các Tiểu-Khu thuộc lănh thổ QK2. Đầu năm 1975, ông được thuyên chuyển về khối CTKH/BTLKQ tại Tân-Sơn-Nhất.

 

Ông cộng tác thường xuyên cho Đặc San Lư Tưởng KQ và Đặc San KQ Bắc Cali. Trần Ngọc Nguyên Vũ cũng rất quen thuộc với Trang nhà Cánh Thép và Hội Quán Phi Dũng. Những bài thơ và truyện ông viết đều nói lên tính nhân bản, cuộc sống bi hùng và lăng mạn cũa người Lính VNCH.

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính