U minh bút kư

 

Trần Mộng Lâm

 

 

(Để riêng tặng Quư gà, người bạn chân thành của tôi. TML)

 

Khi nhớ về dĩ văng, một thi nhân đă viết :

 

Thoáng hiện em về trong đáy cốc

Nói cười như chuyện một chiêm bao.

 

Tôi không có tài để viết lên được những vần thơ như vậy nhưng hàng năm, khi trong bầu trời Mông Thị (Thành phố Montréal của tôi), những cơn băo tuyết đă bị thay thế bỏi những cơn mưa đầu mùa hạ, và khi trong không gian, bầu trời u ám xám xịt thỉnh thoảng lại bị xé nát bởi những tia chớp chói ḷa, những tiếng sấm động lại đưa tôi về với dĩ văng xa xưa, những năm, những tháng lao tù giữa núi rừng u Minh, những người bạn, những kẻ thù mà tôi không bao giờ quên được. Nhanh thật, thế mà đă 25 năm trời!

 

Mùa hè năm ấy, bọn tù chúng tôi được chuyển đi làm lao động cưỡng bách tại vùng rừng núi U Minh thuộc tỉnh Cà Mau. Gần ngàn tên tù rách rưới hôi hám bị dồn vào một chiếc tầu đi sông chật hẹp. Chúng tôi ngồi chật chội ben nhau, hơi người nồng nực, mùi phân, mùi nước tiểu xông lên làm tôi muốn ngất xỉu.

 

Khởi đi từ Cần Thơ, khi trời c̣n tối thui, chiếc tàu cũ kỹ ́ ạch măi đến gần trưa mới tới được Rạch Giá. Bọn cán bộ ra lệnh cho tàu ghé lại một khu vườn nằm bên bờ của một con sông tôi quên mất tên để bọn tù lên sửa soạn bữa ăn trưa. Thực phẩm ban phát chỉ là mấy trăm gam gạo cho mỗi đầu người. Không có một chút đồ dùng để nấu ăn, không có bếp núc ǵ hết. Vùng đất này khi trước có lẽ là mật khu của bọn Việt Cộng th́ phải nên hoàn toàn hoang vắng, chỉ có sông nước, lau sậy chập chùng. Bọn tù chúng tôi th́ đă từ lâu đă biết sẽ có ngày bị đi đầy ải như hôm nay nên cũng không ngạc nhiên ǵ. Tôi th́ từ xưa đến nay vốn là loại dài lưng tốn vải lại yếu đuối không bao giờ làm được chuyện ǵ ra hồn nên rất b́nh tĩnh.

 

Bản tính bất cần đời, tôi đă định bụng cùng lắm th́ ḿnh đem mấy hạt gạo đó nhai ra từ từ rồi lấy nước sông uống cũng đỡ đói.

 

Cũng may trong đội tôi lại có Quư gà, vốn từng làm sĩ quan tùy viên cho một ông lớn Tỉnh Trưởng ǵ đó nên rất tháo vát. Quư rất thương tôi v́ tôi hay nói chuyện tiếu lâm cho anh ta nghe, những khi anh ta buồn v́ phải ở tù, xa vợ con. Và cũng có thể v́ lư do méo mó nghề nghiệp, lúc nào Quư cũng cần có một người để phục vụ, bây giờ tù tội, không có ông lớn nào sáng giá nên Quư phải chọn tôi, một cách rất là bất đắc dĩ. Mấy trăm đứa tù chúng tôi đều có cùng một cấp bậc đại úy trong quân đội miền Nam. Không may cho Quư là tính tôi hay trêu chọc nên nhiều khi Quư khổ sở v́ tôi. Cái tên Quư gà của anh cũng là do tôi đặt cho, nhân lấy sự tích b́nh dân là hễ ai mặt hơi tái th́ gọi là “gà mái”, hễ ai mặt rỗ th́ gọi là “gà mổ”. Quư có cả hai quư tướng nói trên. Tôi lúc đó c̣n độc thân nên dù ở tù vẫn nghịch ngợm như trước. Những lần được vợ thăm nuôi tiếp tế cà phê xong, sáng hôm sau thế nào Quư cũng pha một ly cà phê vào buổi sáng sớm để mời tôi. Những lúc đó, Quư mới nhẹ nhàng bảo tôi:

 

- Ông Lâm, tôi lo cho ông ăn, tôi pha cà phê cho ông uống, từ nay trở đi ông không được gọi tôi là Quư gà nữa. Ông nhớ không?

 

Những giờ phút nghiêm trọng như vậy th́ tôi cảm động lắm. Tôi long trọng hứa với Quư là tôi sẽ bỏ ngay cái tật nói tầm bậy tầm bạ, không khi nào tôi gọi anh là Quư gà nữa, nhưng khốn thay, ly cà phê uống xong, tôi quên hết.

 

Vậy th́ tôi không hiểu bằng cách nào, với một cái lon nhôm, ngày xưa được dùng để đựng sữa bột trẻ em, ngày nay thằng tù nào cũng có một chiếc trong bọc, Quư gà cũng lo cho tôi có được hai chén cơm buổi trưa hôm đó, trong một khu đất hoang vu thuộc tỉnh Rạch Giá. Ăn uống xong bọn tù lại bị xua lên tàu đi tiếp.

 

Gần sẩm tối, trời mưa xối xả, con tàu đă hoàn thành nhiệm vụ là chở chúng tôi đến nơi bị lưu đày.

 

Vùng đất đó gọi là Kim Quy, Đá Bạc, thuộc vùng rừng núi U Minh.

 

Đây là lănh địa của bọn Cộng sản, dân ở đây là Việt Cộng 100% nên bọn cai tù không cần phải canh giữ chúng tôi một cách nghiêm ngặt. Nếu có định bỏ trốn, đi xớ rớ gặp bọn dân có máu việt cộng thâm căn cố đế, làm sao thoát. Bọn cán bộ xua chúng tôi xuống đất rồi bắt chúng tôi phải theo chúng đi ngay đến nơi tập trung, cách đấy khoảng mấy giờ đi bộ.

 

Trước khi di chuyển, chúng tôi đă sửa soạn mọi thứ lỉnh kỉnh để sẵn sàng sống trong một nơi hoang vu, chịu sự lao động cưỡng bách. Quần áo và chai lọ đựng những thứ lặt vặt đă được tôi cho vào hai cái túi để xách tay. Để làm chỗ ngủ, tôi đă t́m được một tấm tôn có gợn sóng khi c̣n bị giam tại Trà Nóc, đập thẳng ra, đóng vào bốn thanh nẹp gỗ, làm thành một cái giường dă chiến. Những chiếc giường này được bọn cán bộ cho chất lên những chiếc xuồng, chở đi theo các con rạch nhỏ. Hành lư c̣n lại tù nhân phải tự lo lấy.

 

Mưa xối xả tối mặt tối mũi. Tôi lạnh run lên lập cập, hai tay xách hai túi đồ lết theo các bạn.

 

Đất cát ở cái xó rừng này thật kỳ lạ, đó là một thứ đất sét dẻo quẹo dính chặt lấy đôi bàn chân. Lúc đầu tôi c̣n đi đôi dép cao su chế tạo bằng cách cắt ra từ một bánh xe vận tải cũ, do một anh bạn đồng tù người gốc Triều Châu làm giùm, sau đó thấy cứ mỗi năm phút lại phải dừng lại móc dép lên khỏi đất th́ tôi nản quá, bỏ luôn dép để đi theo kịp đám đông. Quư gà đi bên cạnh cứ phải thúc giục tôi cố gắng đi mau.

 

Hành lư th́ lúc mới xuống nhẹ hều, đi phom phom. Chỉ độ hai chục phút sau gớm sao mà chúng nặng thế. Tôi cứ phải vừa đi vừa chạy cho theo kịp anh em.

 

Có một lúc chúng tôi đi qua những căn nhà thường dân nào đó. Bọn tù trông thảm hại như vậy mà nào họ có thương. Anh nào vô phúc v́ cận thị phải đeo kiếng càng khổ hơn. Tôi nghe thấy họ sỉ nhục các anh em này:

 

- Mấy thằng đeo kiếng trông mặt như mấy con cá tḥi ḷi (cho đến bây giờ, tôi cũng chưa hề biết đến cái con cá này h́nh dạng ra sao), thấy ghét!

 

Rồi họ mang cả gạch đá liệng vào người chúng tôi. Chúng tôi cứ lầm lũi đi riết.

 

Tôi càng ngày càng tụt lại phía sau. Hoảng quá, không theo kịp, sợ lạc lại giữa đám dân ghê gớm này th́ có mà sống mà ăn sắn. Chỉ có cách là vứt ngay đi những ǵ có thể vứt bỏ được, cho nó nhẹ người, dẫu biết rằng sau này, mọi thứ đều rất sẽ là cần thiết cho ḿnh.

 

Đường đi mỗi lúc một khó, mưa mỗi lúc một lớn hơn, ôi, những ngày mưa miền Nam!

 

Đến một lúc chúng tôi phải lội qua một con sông nhỏ để qua đến bờ bên kia. Không có cách nào khác là phải mang vào người đủ mọi thứ lỉnh kỉnh để nín thở qua sông. Trong dịp qua sông này tôi mất luôn chiếc mền nhỏ để đắp ấm những đêm lạnh. Không sao, c̣n giữ được chiếc mùng để chống chọi lại đám muỗi U Minh là tốt rồi.

 

Sau cùng th́ tôi cũng đến được nơi lưu đầy. Mệt lả!

 

Tôi nh́n quanh để xem nơi này là chốn nào, chỉ thấy những chuối là chuối. Th́ ra đây là một rừng chuối. Điều đặc biệt là những buồng chuối đă được chặt đi hết rồi, Chỉ c̣n những cây chuối già nhưng không có quả chuối để ăn!

 

Chúng tôi được lệnh tự lo lấy chốn ăn ở. Nh́n quanh, chỉ thấy nước là nước. Không biết ai đă đắp lên những bờ đất cao trên mặt đất khoảng chừng hai thước, chiều ngang khoảng một thước. Trên những con đường đê đắp cao lên như vậy, thỉnh thoảng có một nơi con đê được ph́nh ra thành một nền đất dài khoảng một trăm mét và chiều rộng khoảng hai chục mét. Có độ năm sáu cái nền như vậy. Từ nền này qua nền kia là những con đê có chiều ngang khoảng hơn một mét, chiều cao hai mét như đă nói lúc đầu. Khoảng cách từ nền này qua nền kia ước độ nửa cây số.

 

Bọn tù chúng tôi được chia làm thành từng toán, mỗi toán 100 người làm thành một C, có nghĩa như một đại đội. Mỗi C được chỉ định đóng trên một nền đất. Tôi thuộc C4. Chúng tôi chưa hiểu phải làm sao để có chỗ ngủ đêm nay.

 

Túng th́ phải tính. Nh́n quanh, không có lấy một thứ cây nào ngoài cây chuối. Thôi th́ đành lấy cây chuối làm nhà. Vứt bỏ lá chuối đi, thân chuối được chôn vào những cái lỗ được đào sâu khoảng 40cm và cách nhau chừng nửa thước. Những tấm vải nilon được nối vào nhau làm vách, làm mái. Những chiếc giường chế tạo bằng những tấm tôn như đă nói ở đoạn trên được lấy ra khỏi những chiếc xuồng, đem lên và đặt sát vào nhau trên mặt đất, ở trong những cái cḥi mà cột và xà đều là những cây chuối, vách và mái là những miếng vải ny lông. Như vậy là chúng tôi đă hoàn thành được một cái lán, chữ này tôi mới nghe lần đầu, để gọi nơi chúng tôi trú ngụ. Lán chúng tôi như vậy gồm có 10 cái nhà cḥi, trong mỗi nhà cḥi có mười cái giường cho 10 tên tù, hành lư của người nào đặt trên đầu giường người đó. Chai lọ lỉnh kỉnh, những chiếc mùng được giăng lên, xem như cũng tạm yên.

 

Chưa kịp nghỉ ngơi ǵ th́ tôi được lệnh phải lên tŕnh diện tên cán bộ phụ trách C4 của chúng tôi. Lại lặn lội trên những con đê lầy lội khoảng hai chục phút, sau cùng tôi tới được nơi những tên cán bộ ở. Chúng ở trong những căn nhà lợp tranh, vách ván, tuy có vẻ sang trọng hơn các căn nhà cḥi của chúng tôi nhưng thực ra không khác lắm với cái mà chúng ta thường gọi là ổ chuột. Tên Năm Xuân cán bộ phụ trách chúng tôi được ở riêng một căn, H́nh như tên này đeo lon thiếu úy trong quân đội việt cộng. Bọn tù chúng tôi may mắn được quản lư bởi quân đội, nói may mắn v́ bọn sĩ quan dù sao cũng ít tàn ác hơn bọn công an.

 

Trong thời kỳ c̣n đóng ở Trà Nóc, không hiểu bằng cách nào Năm Xuân mua được một chiếc xe đạp, một cái radio mà bọn chúng gọi là đài. Hai thứ này làm thành một gia sản quư báu cho Năm Xuân. Chiếc xe đạp đă được tháo ra, hai bánh xe treo lên gần mái nhà và chiếc thân xe được cột chặt lên vách, ngay chỗ đầu giường nằm của Năm Xuân.

 

Đi đi lại lại trong cái ổ chuột đó, dáng điệu oai hùng như một ông tướng... Năm Xuân ra lệnh cho tôi:

 

- Kể từ ngày hôm nay, tôi cho anh lănh chức C trưởng coi sóc tất cả các anh em. Anh cũng đồng thời lo việc săn sóc sức khỏe cho họ nữa v́ anh là y sĩ. Anh phải theo dơi anh em, thấy có ǵ sai trái, người nào phản động chống đối cách mạng phải báo cáo ngay. Anh có nhất trí như vậy hay không.

 

Tôi hoảng quá, năn nỉ:

 

- Làm y sĩ th́ tôi làm được nhưng điều khiển tất cả các anh em th́ xin anh chọn người khác có khả năng hơn tôi.

 

Năm Xuân có vẻ bực bội:

 

- Tôi đă quyết định như vậy, anh đừng nói lôi thôi nữa. Bây giờ có việc làm khẩn cấp, anh phải lo xây ngay một cái nhà cầu cho anh em ngày mai có chỗ đi ỉa, không thể để họ ỉa đái bừa băi được.

 

Tôi thấy Năm Xuân nói đúng nên cho ư kiến:

 

- Xin anh Năm chỉ định chỗ cho chúng tôi đào những hố vệ sinh.

 

Hai tay mân mê một tờ giấy nhàu nát, vẻ mặt kiêu ngạo, Năm Xuân nh́n tôi cười khinh bỉ:

 

- Thế mà anh cũng làm được bác sĩ. Đào một cái hố vệ sinh th́ ai chả đào được. Cách mạng sẽ chỉ cho các anh những ǵ tốt đẹp hơn, văn minh hơn. Tôi đây này, nếu không v́ chuyện vào miền Nam chống Mỹ Nguỵ các anh th́ tôi đă tốt nghiệp kiến trúc sư từ lâu rồi. Thôi không nói dông dài nữa, anh phải xây ngay cho tôi một cái nhà cầu theo như đồ án tôi thiết kế đây. Một cái nhà cầu nổi, anh nghe chưa, một cái nhà cầu nổi, chiều ngang hai thước, chiều dài năm thước và cao hơn mặt đất hai thước để lấy chỗ cho các anh ỉa đái ngày mai. Chỗ để xây là 500 mét trước mặt cái nền đất của lán các anh.

 

Tôi than thầm trong bụng:

 

- Khổ rồi, cái thằng bần cố nông này đang hăng say với chiến thắng muốn học làm sang không phải lúc phải chỗ. Lấy cái cùi chỏ mà xây với cất. Nghĩ như vậy song tôi không dám phản đố́, chỉ vớt vát:

 

- Anh Năm cho xin dụng cụ cho anh em làm việc.

 

Năm Xuân quảng cho tôi hai chiếc xẻng đă han ri, nhỏ tí:

 

- Đây là dụng cụ cho các anh. Dùng hai chiếc xẻng này đào đất rồi đắp lên mà làm thành chiếc nhà cầu, tôi thử xem các anh có biết lao động hay không. Các anh phải biết khắc phục các khó khăn. Đất nước mới thống nhất, c̣n có nhiều hạn chế nhưng không phải không xây dựng được tốt hơn bằng năm, bằng mười chế độ Mỹ- Ngụy các anh.

 

Không c̣n cách nào khác, tôi đành mang hai chiếc xẻng đi ngược về chỗ các bạn tôi đang chờ.

 

Về đến nơi, tôi mệt nhọc nói với Quư gà:

 

- Cậu đến mỗi tổ nói họ cử ra mỗi tổ 3 người theo tôi ra làm cầu tiêu, xây dựng xă hội chủ nghĩa.

 

Sau gần một ngày mệt nhọc v́ di chuyển, v́ hoang mang, v́ đói khát, không một người tù nào có vẻ hăng say. Tuy nhiên, biết thân phận tù tội của ḿnh, họ không dám phản đối.

 

Dẫn ba chục ông quan ba, ngày xửa chắc cũng từng có lúc vẻ vang, ra chỗ chỉ định để thi hành công tác, không hiểu sao tôi có cảm giác ḿnh hơi giống cái ông sĩ quan của quân đội đồng minh ngày nào, bị bọn Nhật bắt xây cái cầu bắc ngang con sông Kwai. Có điều trong cuốn phim xem được thủa xưa, khi đi làm việc c̣n có mặt trời, c̣n có điệu nhạc “Hello, le soleil brille, brille, brille. . . . ”. Chúng tôi th́ chỉ có mưa rơi trên mặt, vuốt không kịp. Tuy nhiên, v́ vốn chỉ biết cầm kim và ống chích, nay bỗng nhiên trở thành kỹ sư xây cất, lại được chỉ huy cả trăm mạng, tôi không khỏi có ít nhiều kiêu hănh. Tôi nghĩ bụng: Ḿnh sẽ xây một cái nhà cầu có một không hai trong vùng rừng núi này. Tôi quên mất trong một phút giây là từ sáng đến giờ, anh em mới chỉ được ăn có hai bát cơm trắng.

 

Quần áo xốc xếch nhưng dáng điệu hiên ngang không kém ǵ Alec Guiness, tôi tóm tắt cho anh em hiểu công tác phải làm. Để khuyến khích anh em, tôi nói những lời nhạt nhẽo mà chính ḿnh cũng không tin được: Anh em cố gắng lao động tốt để mau được về với gia đ́nh.

 

Tôi đánh dấu trên mặt đất một h́nh chữ nhật có chiều ngang hai mét và chiều dài năm mét, rồi bên ngoài cái h́nh chữ nhật này, tôi vẽ một h́nh chữ nhật khác lớn hơn, một cạnh 4 mét, một cạnh 7 mét, nghĩa là lấy từ cái h́nh chữ nhật trước ra hai phía, mỗi bên một mét. Đất đào lên sẽ được xếp vào khoảng giữa hai h́nh chữ nhật và như vậy lên cao hai mét. Trong cái đầu đơn giản của tôi, không c̣n cách nào khác hơn.

 

Nói th́ giản dị như vậy nhưng thực tế khó khăn hơn nhiều. Với dụng cụ thô sơ, đào lên một cục đất đă khó, chất những cục đất này lên nhau để làm thành một bức tường càng khó khăn hơn. Sau cùng chúng tôi buồn nản mà đồng ư với nhau là cục đất không phải là cục gạch để từ đó người ta có thể xây những bức tường thẳng đứng. V́ lư do đó mà để có thể giữ cái ḷng của cầu tiêu là hai mét trên năm mét, cái đáy của cầu tiêu cứ phải nối thêm ra. Đất th́ nhẽo nha nhăo nhẹt, chúng tôi phải trộn vào với cỏ để cho thêm chắc chắn.

 

Tóm tắt lại là trong buổi chiều mưa tối trời tối đất ngày hôm đó, tôi khổ không sao tả xiết được. Mọi dự tính tốt đẹp lúc ban đầu khi nhận công tác biến mất hết. Chỉ mong sao làm được đại khái để báo cáo qua loa là tốt rồi.

 

Sau cùng, sau gần ba giờ làm việc kiệt sức, chúng tôi hoàn thành cái cầu tiêu mà Năm Xuân đă nặn óc thiết kế ra.

 

Nó lù lù như cái kim tự tháp giữa núi rừng U Minh!

 

Cái cầu tiêu sau đó trở thành một sự đàm tiếu ngay cả giữa bọn cán bộ với nhau. Các C khác đều có cầu tiêu đào thành hố dưới mặt đất, phía trên dùng lá chuối quây quanh che đậy kín đáo, chỉ riêng C chúng tôi có cầu tiêu nổi.

 

Năm Xuân mất mặt, tôi mất bay ngay cái chức C trưởng vừa nhận được mấy giờ trước đó. Mọi người lại c̣n nghi là tôi mưu mẹo cố t́nh làm ra như vậy để khỏi phải làm C trưởng. Quư gà thán phục:

 

- Tôi biết ông không muốn phải làm tay sai cho thằng Năm Xuân để báo cáo, theo dơi anh em.

 

Thực sự, tôi không đủ thủ đoạn như Quư nghĩ, buồn thay.

 

Chiếc cầu tiêu vĩ đại dù muốn dù không cũng không thể không được sử dụng. Bọn tù chỉ than phiền là leo lên đó để ỉa cũng quá mệt. Do đó, nhiều khi trong đêm tối, họ làm bậy ngay ở chân cái nhà cầu. Rồi giấy bẩn vứt bừa băi, rồi ruồi nhặng vo ve, kinh khủng không thể tả được, khác hẳn các hố vệ sinh nhỏ, người ta có thể lây lá chuối che đậy được.

 

Cũng may hai tuần sau đó, chúng tôi được lệnh nhổ trại để di chuyển vào sâu hơn nữa trong rừng núi U Minh. Ở chỗ mới này, chúng tôi lại phải làm cầu tiêu. Lần này, rút kinh nghiệm, Năm Xuân không bắt phải làm cầu tiêu nổi nữa.

 

Tôi đă sống như vậy trong mấy tháng, suốt thời gian tôi ở Kim Quy Đá Bạc để chặt sậy hoang, làm thành những thửa ruộng trồng lúa, đă gieo mạ, đă nh́n những cây lúa lớn lên nhưng không được thu hoạch. Khi đến mùa thu hoạch, chúng tôi đă được chuyển đi nơi khác, để lại những công lao của ḿnh cho người khác hưởng.

 

Mấy chục năm sau, tại hải ngoại, nh́n việc làm của bọn lănh đạo đảng Cộng Sản trong việc cai trị đất nước, tôi không khỏi nghĩ đến Năm Xuân. Bọn chúng cá mè một lứa, năng lực cũng xêm xêm như nhau. Việc xây dựng kinh tế cho đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta được giao phó vào tay những tên cán bộ với những kế hoạch 5 năm, 10 năm, vượt chỉ tiêu... v. v.. Kết quả th́ cũng lù lù như cái nhà cầu mà chúng tôi c̣n để lại giữa U Minh mà thôi.

 

Nếu chưa bị thời gian tàn phá, tôi chỉ sợ một ngày nào đó, có một tên khảo cổ nào tốt nghiệp tại Hà Nội, lặn lội vào núi rừng U Minh t́m ṭi, thấy dấu tích cái cầu tiêu chúng tôi xây vào thời gian đó, sẽ hô hoán lên rằng: VN đă t́m được dấu tích của nền văn hoá Óc Eo, dân chúng từ thuở xa xưa đă biết đến việc chế tạo phân bón một cách rất văn minh.

 

Riêng người cựu sĩ quan, cựu tù nhân ngày xưa đă tự xem ḿnh như ông đại tá vai chính của phim cầu sông Kwai, hôm nay ngồi buồn tại Montréal, thấy lăn tăn trong ḷng.

 

Với Năm Xuân, tôi không thù oán, chỉ thương cho sự ngu dốt của hắn ta.

 

Với bạn bè, những người đồng cảnh ngộ, tôi chỉ thấy ngậm ngùi thương nhớ.

 

Quư gà ơi, hiện giờ ông ở đâu, nếu có được tin ông, mấy sông tôi cũng sẽ lội, mấy đèo tôi cũng sẽ qua để đến thăm ông.

 

 

Trần Mộng Lâm

Nguồn: Hội Quán Phi Dũng

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính