Nhân Văn Giai Phẩm phần X: Lê Đạt

  

Thụy Khuê

 

 

 

Nhà thơ Lê Đạt, từ Nhân Văn Giai Phẩm đến ''Đường chữ''

 

Đời chữ của Lê Đạt chia hai thời kỳ, dưới hai ng̣i bút: Nhà thơ cách tân, theo truyền thống Mallarmé, mở một kỷ nguyên mới cho đường chữ. Nhà thơ thời thế, theo truyền thống Đỗ Phủ, ghi lại bộ mặt của xă hội toàn trị trên đất nước Việt Nam, xác định tính chất cơ bản của lịch sử: “Lịch sử muôn đời duyệt lại / Không ai lừa được cuộc đời”.

 

Trong ba người bạn thân cùng hoạt động NVGP, Trần Dần viết nhật kư, Hoàng Cầm thuật lại dĩ văng trong các bài kư, hồi kư. Duy có Lê Đạt là không có tiểu sử rơ ràng. Tại sao? Một phần, dường như ông không coi tiểu sử nhà văn là vấn đề quan trọng, nhưng có lẽ c̣n một lư do nữa, v́ tiểu sử của ông, nếu viết rơ ra, chỉ “có hại” cho gia đ́nh. Ông không muốn các con biết về hoạt động của cha để đỡ bị liên lụy. Đào Phương Liên, con gái ông, hỏi: Bố là ai? Các con không biết cha đă từng làm thơ, v́ trong nhà “không có một quyển truyện một quyển thơ nào”.

Lê Đạt tên thật là Đào Công Đạt, sinh ngày 10/09/1929 tại xă Âu Lâu, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội. Cha là Đào Công Đệ (mất năm 1975), quê phường Á Lữ, xă Mỹ lộc, Phủ Lạng Giang (Bắc Giang), làm việc trong sở hoả xa Vân Nam tại Yên Bái, gặp mẹ ông là Nguyễn Thị Sen (mất năm 1982), người làng Đ́nh Bảng, Bắc Ninh, theo gia đ́nh lên Yên Bái buôn bán. Lê Đạt học tiểu học ở Yên Bái, năm 1941, 12 tuổi lên Hà Nội, học trường Bưởi. Kháng chiến bùng nổ, trở về quê cha, tiếp tục trung học tại Á Lữ. Rồi đi theo kháng chiến. Về thời kỳ này, Lê Đạt chỉ ghi vài hàng sơ lược:

 

 ”Năm 45 khi cách mạng tháng 8 bùng nổ, tôi theo cách mạng, rồi đi kháng chiến, chủ yếu hoạt động trong ngành tuyên huấn. Năm 49, tôi về công tác tại ban tuyên huấn của TU đảng Cộng Sản Việt Nam. Năm 1952, tôi chuyển hẳn về Hội văn nghệ TU và bắt đầu cuộc đời sáng tác của nhà văn chuyên nghiệp” (trích tiểu sử viết tay, Đường Chữ, nxb Hội Nhà Văn, 2009).

 

Trong Từ điển văn học, Nguyễn Huệ Chi ghi:”Đầu kháng chiến, học tiếp trung học ở vùng kháng chiến rồi về công tác tại Ban tuyên huấn tỉnh Vĩnh phúc và tiếp tục theo học trường đại học Pháp lư cho đến khi trường giải thể. 1949, chuyển lên ban Tuyên Huấn trung ương đảng lao động VN. 1952 về Hội văn nghệ. Sau 1954, về Hà Nội, tiếp tục công tác ở Hội văn nghệ”.

 

Lê Đạt trên chiến khu Việt Bắc năm 1948. Ba người ngồi từ phải sang trái: Nguyễn Lương Bằng, Hồ Chí Minh, Lê Đạt. (Ảnh tư liệu)

 

Nhưng Hoàng Cầm cho biết: Năm 1948, [mười chín tuổi] Lê Đạt đă là bí thư văn nghệ của Trường Chinh. Điều này dường như Lê Đạt không muốn nhắc đến.

 

Hoàng Cầm viết: “Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái viên của Tổng bí thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn nghệ làm trợ lư cho ông Tố Hữu.” (Hoàng Cầm, Nguyễn Đ́nh Thi trong tôi - Nguyễn Đ́nh Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas).

 

Nhưng trong bản “thú tội” của Lê Đạt, lại có câu: “Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn tay phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lănh tụ” (Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 80).

 

Như vậy, chúng ta có thể tạm sắp xếp lại tiểu sử của Lê Đạt, giai đoạn kháng chiến như sau:

Năm 1945, 16 tuổi, học trường Bưởi, Lê Đạt chưa theo Việt Minh, lúc đó ông đang chịu ảnh hưởng Tự Lực văn đoàn, như phần đông các thanh niên “tiểu tư sản” thời ấy, mẫu người cách mạng lư tưởng đương nhiên là Dũng (trong Đoạn tuyệtĐôi bạn) của Nhất Linh, dù ở Hà Nội hay Yên Bái, tâm cảm của họ c̣n rất lăng mạn:

 

Yên Bái/ dăm cô gái / lỡ th́ / thổn thức / Nhất Linh / tay / Loan Dũng / lên ô kính bụi

 

Sau này, Lê Đạt hết sức chống lại cái lăng mạn của Tự Lực văn đoàn, có lẽ cũng chỉ là một cách sống lại những “lỗi lầm của tuổi trẻ”.

 

Lê Đạt theo Quốc dân đảng trong bao lâu? Có thể từ 1945 đến 1948 (16 đến 19 tuổi), rồi được “giác ngộ” theo Việt Minh. Nhờ tài năng, người thanh niên này được đưa vào Tuyên Huấn Trung Ương, làm bí thư của Trường Chinh. Tiểu sử chính thức của Lê Đạt bắt đầu từ 1948. 

 

Vẫn theo Hoàng Cầm, năm 1949, khi Tố Hữu phụ trách toàn bộ văn nghệ kháng chiến, Trường Chinh cử Lê Đạt làm trợ lư cho Tố Hữu. Sự bổ nhiệm này cho thấy: lănh đạo đă nh́n thấy ở Lê Đạt khả năng chiến lược và chính trị cao hơn Tố Hữu.

Ngoài ra, những dữ kiện trên đây c̣n giải thích:

- Tại sao Lê Đạt thấy ḿnh “vững” hơn Nguyễn Hữu Đang trong việc tổ chức báo Nhân Văn.

- Việc ông thân thiết, kính trọng Thụy An và Phan Khôi, bởi cả ba đều đă từng hoạt động cho Việt Nam Quốc Dân Đảng. 

 - Và sự tranh đấu của Lê Đạt, khác với các bạn văn nghệ sĩ, thể hiện trên hai mặt: Về chính trị, chống chính sách đảng trị, đ̣i hỏi tự do dân chủ và về văn nghệ, chủ trương đổi mới thơ ca.

Sự nghiệp đổi mới thi ca

 

 Lê Đạt thất bại trong đấu tranh chính trị, nhưng  ông đă thành công trong việc đổi mới thi ca. Sau hơn 30 năm cấm in, Lê Đạt được “phục hồi” năm 1988. Tập Bóng chữ (nxb Hội nhà văn, 1994), tác phẩm đầu tiên xác định ông như một nhà thơ lớn, cùng với Thanh Tâm Tuyền, Đặng Đ́nh Hưng, Trần Dần, đă xây dựng nên nền thơ Việt nam hiện đại.

 

Tiếp đến những  tập Hèn đại nhân, (truyện ngắn, nxb Phụ nữ, 1994), Ngó lời (thơ, nxb Văn Học, 1997), Từ t́nh Epphen (Tạp chí thơ, Cali, 1998). Mi là người b́nh thường, (truyện ngắn, nxb Phụ nữ, 2007), U75 từ t́nh (thơ và đoản ngôn, nxb Phụ nữ, 2007); và sau khi ông mất, Đường chữ (tuyển tập, nxb Hội Nhà Văn, Bách Việt 2009).

 

 

Chỉ sau khi tác giả được “phục hồi” vào năm 1988, một số tác phẩm của Lê Đạt mới được ra mắt độc giả

 

Chủ trương đổi mới thi ca của Lê Đạt bắt đầu từ năm nào? Nguyễn Huệ Chi viết trong Từ điển văn học “Bài thơ đầu tiên in trên Văn Nghệ năm 1951”, nhưng đó chỉ là bài thơ đầu tiên được in ra, c̣n thực sự Lê Đạt đă làm thơ từ trước, từ nhiều năm trước và tập T́nh mẹ (Đường chữ, phần di cảo) đă chứng minh điều đó.

 

 Trong một đoạn hồi kư, Hoàng Cầm viết:

“Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái viên của Tổng bí thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn nghệ làm trợ lư cho ông Tố Hữu. Vốn là một anh sinh viên rất trẻ, rất sôi nổi, vừa đặt chân đến Hội, Lê Đạt đă làm thân với các bậc cha chú như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Nguyễn Xuân Khoát. (...)  Lê Đạt khởi xướng ra cuộc tranh luận về một đề tài mới mẻ và có vẻ hấp dẫn lắm: Vấn đề thơ không vần của Nguyễn Đ́nh Thi (...) Anh Nhị Ca sôi nổi cho tôi biết về cuộc tranh luận thơ không vần từ tháng trước, giọng Nhị Ca rất vui, anh nói:

- Tiếc quá! Cậu không dự hôm ấy, giá có cậu th́ có lẽ cũng góp được nhiều ư kiến bênh vực cho cái gọi là thơ không vần. Đằng này chỉ có tớ với Lê Đạt thêm một thằng Lưu Quang Thuận. Và anh Bửu Tiến. Cũng may có thêm bác Phan Khôi. Ông già này lại bênh rất hùng hồn, mày ạ. C̣n một tá những ông già khác không chịu nói ǵ, hoặc có nói lại về hùa với ông Lành. Anh Thi đâm ra yếu thế, sau cứ đành giơ sườn ra cho các ông ấy thụi. Thành thử, cái loại thơ tự do không vần bị ăn một trận đ̣n đếch căi vào đâu được.” (Hoàng Cầm, Nguyễn Đ́nh Thi trong tôi - Nguyễn Đ́nh Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas)

 

Như vậy, theo Hoàng Cầm, Lê Đạt đă xướng lên cuộc tranh luận về thơ không vần từ năm 1949 và Lê Đạt cùng với Lưu Quang Thuận, Bửu Tiến, Phan Khôi, ủng hộ thơ Nguyễn Đ́nh Thi. Người đánh Nguyễn Đ́nh Thi là Tố Hữu (ông Lành).

 

Lê Đạt cũng nói: “Thời kháng chiến, tôi và Nguyễn Đ́nh Thi mới đầu chịu ảnh hưởng  Eluard và tôi cũng làm thơ không vần như anh Thi. Tôi trọ ở nhà Eluard không lâu. Một thời gian dài tôi và Trần Dần chịu ảnh hưởng của Maïakovski rất đậm” (Nghe Lê Đạt kể chuyện ḿnh, Phạm Tường Vân phỏng vấn tháng 1/2003, đăng trên BBC Việt Ngữ 6/5/2008).

 

Như vậy chúng ta có thể xác nhận: Lê Đạt làm thơ không vần, ít nhất từ 1948, và tập T́nh mẹ, có thể là những sáng tác đầu tiên của Lê Đạt.

 

Gia cảnh Nhân Văn

 

Bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử, gây sóng  gió suốt thời kỳ Nhân Văn, và ghi lại trong kư ức người đọc sự phản kháng sâu sắc của nhà thơ đối với một thể chế độc tài, khống chế tự do t́nh cảm, tự do luyến ái, can thiệp vào đời tư của con người, khởi đi từ những sự kiện có thật trong đời Lê Đạt.

 

Lê Đạt kết duyên với cô Nguyện, cán bộ cốt cán, nhưng không hợp, chỉ sống chung một thời gian ngắn, rồi chia tay (khoảng 1955).

 

Thi sĩ Lê Đạt cùng với vợ là nghệ sĩ Thúy Thúy (DR)

 

Một thời gian sau, Lê Đạt yêu Thúy Thúy (Nguyễn Thị Thúy), nghệ sĩ đang lên của đoàn Kịch Trung Ương. Năm 1956, hai người sống chung. Việc “bỏ người vợ cốt cán”, để lấy vợ nghệ sĩ, đă gây cho Lê Đạt và Thúy Thúy, không ít khó khăn, cả hai đều bị kiểm thảo, Trần Dần ghi lại sự việc này trong nhật kư những ngày từ 23 đến 27/9/1955 như sau:

“Phê phán Lê Đạt:

Đồng chí định bỏ vợ lấy Thúy là bỏ cục vàng lấy cục đất. C̣n ǵ qúy hơn là người làm việc cho Đảng? Đi CCRĐ [cải cách ruộng đất] bao nhiêu đợt rồi. Thành phần nông dân cốt cán. Đồng chí c̣n muốn ǵ? Không yêu nhân dân th́ yêu ai? Chỉ có kẻ thù mới không yêu nhân dân thôi chứ!

 

Kể xấu Thuư. Con lính đế quốc. Nhăng nhít nọ kia bao nhiêu vụ rồi.

 

Tôi không thể đồng ư đề nghị của đồng chí. Không bao giờ Đảng đồng ư những cái sai.

 

Đồng chí lắm lư luận lắm, đao to búa lớn, vợ đồng chí hiền lành, đồng chí có đem lư luận đàn áp, dù vợ đồng chí có bằng ḷng ly dị, Đảng cũng không đồng ư v́ biết chắc chắn rằng đó chỉ là v́ bị đồng chí đàn áp, bằng ḷng mồm chứ không bằng ḷng thực” (trích Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài biên soạn, td mémoire, Văn Nghệ, 2001, trang 87).

 

Những hàng nhật kư trên đây của Trần Dần cung cấp một số thông tin chính xác:

 - Cô Nguyện bằng ḷng ly dị (trên thực tế cô Nguyện đứng đơn xin ly dị).

- Nhưng Đảng răn đe: dù vợ đồng chí có bằng ḷng ly dị, Đảng cũng không đồng ư”

- T́nh cảnh này đă được Lê Đạt thuật lại trong bài “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” với hai câu thơ “để dời”:

 

Đem bục công an máy móc đặt giữa tim người.

Bắt t́nh cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước

 

Lời thơ phát xuất từ chuyện cá nhân, nhưng đă nói lên bi kịch của tất cả những người muốn sống tự do trong t́nh yêu, nhưng bị đảng trực tiếp ngăn cản.

 

Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt đều chung cảnh ngộ bị đảng can thiệp vào đời sống t́nh cảm riêng tư, và mỗi người vợ Nhân Văn đều phải gánh chịu hậu quả hoạt động của chồng trong suốt cuộc đời c̣n lại.

 

Lê Đạt kể lại: “Khi ấy, Thúy mới 18 tuổi. Ngày nào cũng có những cán bộ tốt bụng đến vạch rơ “bộ mặt phản động của Lê Đạt và khuyên cô cắt đứt với tôi (...) Cô không được làm diễn viên nữa, bị đẩy xuống làm phục trang và bị đối xử như một con chiên ghẻ. Có một điều chắc chắn là không có vợ tôi, th́ tôi đă thân tàn ma dại rồi. Tôi đă làm lỡ cuộc đời nghệ thuật của cô và cô v́ tôi mà mắc bệnh suy nhược thần kinh cho đến bây giờ. (...) Được phục hồi,  tôi c̣n nhúc nhắc sáng tác được, nhưng Thúy th́ được ǵ ngoài chứng bệnh suy nhược thần kinh, tê buốt khắp mặt đến mức nhiều khi không thể hé miệng được” (Nghe Lê Đạt kể chuyện ḿnh, Phạm Tường Vân, bài dă dẫn).

 

Bi kịch gia đ́nh Nhân Văn, được Lê Đạt ghi lại thành thơ, như một lời tạ lỗi vợ con, như một ân hận, suốt đời, nhưng bài thơ cũng lại vượt khỏi khuôn khổ gia đ́nh để nói lên nghịch cảnh chung của tất cả những người vợ Nhân Văn, Lê Đạt đă khắc chân dung họ vào văn học sử:  

 

Vợ Nhân Văn  

 

Lịch sử quưt làm cam chịu

Xin lỗi em / những đêm Nguyễn Bỉnh Khiêm (1) trằn trọc

Anh Thái Hà (2) chưa về / và em khóc

Xin lỗi em / những lời khuyên “cắt đứt”

Vạ ǵ đeo hai tiếng “liên quan”

Những buổi sớm / muốn chui đầu xuống đất

Mặt trời soi ngày kiểm thảo bắt đầu

Xin lỗi em / tiếng oan vợ thằng phản động

Lư lịch ba đời mấy đứa con thơ

Xin lỗi em / tuổi ước mơ không được sống

Những giấc ngủ / chưa một lần tṛn mộng

Chung thân tâm thần / trọng tội đa mang

Đời sau ơi! / May c̣n đoái đến tôi

Hăy trả dùm tôi món nợ

Người vợ nhỏ / vừa thoát tuổi khăn quàng đỏ

Đă chụp mũ chồng / lưng thập tự Sói ăn

Và Đức Phật / duyệt xuất biên vào Tĩnh thổ

Xin độ tŕ / những Thị Kính-vợ- Nhân Văn.  

 

 

Chú thích (của tác giả):

 

1- Vợ tác giả là diễn viên Kịch nói ở nhà tập thể đoàn Kịch phố Nguyễn Bỉnh Khiêm

 

2- Thái Hà ấp: nơi tổ chức cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm Con Nhân Văn

Đào Phương Liên, con gái Lê Đạt, đă ghi lại bối cảnh gia đ́nh, nhân ngày giỗ đầu của cha. Bài văn khơi động một cảnh sống mà người ngoại cuộc không thể h́nh dung nổi, chúng tôi xin trích lại ở đây:  

“... Suốt tuổi thơ, con luôn trăn trở măi trong ḷng câu hỏi Bố là ai? (...) 

Nhưng con không dám hỏi Bố v́ sao sau những buổi vui vẻ ấy, Mẹ lại lo lắng nhắc Bố: “Ông đừng có nói to, cười lớn như thế!”. Bố thế nào cũng nổi cáu, quặc lại: “Tôi có làm ǵ khuất tất đâu mà không được cười to, nói to?” Con đă bênh Bố v́ nghĩ đó không phải là một tội nhưng lại thầm thắc mắc: “V́ sao nhỉ? Hay cười nói to thế là không lịch sự?”

Rồi một hôm Mẹ đi làm về, nhỏ to th́ thầm: “Bà vợ ông Văn Cao dặn tôi nhắc ông vẫn có người theo dơi đấy. Ông phải cẩn thận. Đừng có cười to, nói to. Người ta để ư đấy!’’Con đă quá quen với lời nhắc nhở đó, giờ chỉ c̣n mỗi bận tâm: “ Văn Cao nào nhỉ? Làm sao mà Bố quen được với tác giả TIẾN QUÂN CA cơ chứ?”

 

Trên chiếc thùng gỗ tạp mà bề mặt xù x́ dăm gỗ, chỉ rộng bằng tờ báo, kê dưới chiếc cửa sổ có chấn song nhỏ xíu của căn gác 3 như chuồng chim cu nhà ta, bố úp đáy làm bàn ngổn ngang giấy tờ, sách báo, Bố ngồi bệt dưới sàn, hư hoáy viết rồi gạch xóa. Bố là nhà thơ, nhà văn ư? Con thoáng nghĩ đến cái nghề cao siêu đó. Con lén t́m đọc. Con chỉ thấy vài chữ nguệch ngoạc bên lề những mẩu báo, bên lề những bài kiểm tra của con hay ở mặt sau những tờ giấy đen x́ nổi gai: “chi chi…chành chành, rồng rắn lên mây, cái đanh thổi lửa”…( Mà mỗi khi con hỏi bố t́m ǵ v́ thấy bố hoảng hốt, cáu gắt loạn lên th́ bố chỉ im im rồi thở dài. Bố đâu biết mẹ con con khi lau dọn tưởng là rác vứt đi rồi!). Con vội gạt đi ngay v́ nhà ḿnh không có một quyển truyện, một quyển thơ nào. (...)

 

Và con lại trăn trở với câu hỏi: Bố là ai? Làm nghề ǵ? (...)

 

Cho đến tận năm 1975, năm lớp 10 cuối cấp, một cậu bạn cùng phố, học từ thời vỡ ḷng với con, con một cán bộ miền Nam tập kết cấp cỡ, đến lớp bô bô: “Bố cái Liên là phản động chúng mày ạ”. Con nghe máu nóng bốc rát mặt nhưng cúi mặt vờ không nghe thấy. Một cậu bạn kế bên đế thêm: “Bố nó sỏ nhầm giầy à?” Lúc đó, con chỉ muốn độn thổ v́ sợ.

 

Về nhà, con len lén để ư xem Bố có đúng là “phản động” không? Con không dám hỏi v́ sợ… đúng???. V́ sợ… đụng  phải nỗi đau cần phải che dấu của Bố dù con không hề tin!

 

Con đă tự trấn an ḿnh bằng những kiến thức thu nạp được qua biết bao chuyện công an bắt gián điệp những tối thứ bẩy, qua những câu chuyện trong các tạp chí QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN, qua những nhân vật phản diện xấu xa trong các tác phẩm văn học. Con vừa là công an theo dơi Bố, vừa là luật sư phản biện, bảo vệ Bố. Con chịu khó lục t́m mọi chứng cớ có lợi cho Bố. (...) Con tự lư giải: Nếu Bố là “phản động” th́ Bố đă không khóc ngày Bác Hồ mất! Nếu Bố “phản động” th́ đă không có thẻ thương binh! (Lúc đó con không biết đó là thẻ Bố được tặng?) (...)

 

Rồi con không được xét vào Đoàn dù lần kết nạp nào con cũng được giới thiệu, (....) Rồi con làm hồ sơ thi đại học, anh con bác hàng xóm cười khẩy: “Rồi em cũng như tụi anh thôi. Có giỏi mấy cũng chẳng vào được đại học. Cùng lắm là Sư phạm. Mà mày chưa Đoàn viên th́ đừng mơ!” Đem thắc mắc đó về hỏi, Bố cười gạt đi: “Làm ǵ có chuyện đó. Con cứ thi đi. Mà Bố thấy Sư phạm cũng tốt”. Bố chợt trầm ngâm: “Chắc không có chuyện ǵ đâu. Bút danh của Bố là Lê Đạt cơ mà. Có phải Đào Công Đạt đâu mà lo?”. Rồi Bố lo lắng hỏi lại: “Thế có thật không phải Đoàn viên th́ không được vào Sư phạm không con?”. Và bố lại tất tả dắt xe đi…

 

Cho đến lúc ấy con mới được nghe từ Bố cái bút danh Lê Đạt nhưng quả thật không gây ấn tượng ǵ với con v́ con chưa bao giờ nghe tới phong trào NVGP.

 

Và Bố không biết đâu, ngay những ngày đầu của năm thứ nhất Sư phạm ngoại ngữ, trong một giờ văn học sử Pháp, thầy giáo không biết sao lại nhắc đến “bọn Nhân văn Trần Dần, Lê Đạt” với những câu “bôi xấu chế độ”.

 

“Ta đi không thấy phố thấy phường

Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ”

Của bác Trần Dần

 

Và của Bố:

“Đặt bục công an giữa trái tim người

Bắt t́nh cảm ngược xuôi theo chế độ”.

 

Con đă cúi gằm mặt, người nổi gai v́ ngỡ cả hội trường dồn mắt nh́n ḿnh. Dẫu trong ḷng con vang lên “nếu thế th́ sai quá c̣n ǵ” dù con không biết những câu sau.

Cho tới ngày Bố đi xa, cô chủ nhiệm của con mới móm mém: “tao đến khổ v́ chuyện vào Đoàn của mày”. Con thật thà: “v́ em chưa xứng đáng”. Cô vỗ vai: “v́ cái lư lịch”

 

(trích Bố ơi, những câu chuyện của con... của Đào Phương Liên, in trên Tuổi trẻ cuối tuần, 12/4/2009)

 

Và đây là câu trả lời của Đào Công Uẩn trước linh cữu Lê Đạt, có đại diện của chính quyền: cha chúng tôi là một người luôn sống và trả giá “cho một đất nước độc lập, tự do, một nền văn học nghệ thuật độc lập, tự do”.

 

Lê Đạt và Hồ Chí Minh

 

Trái với Nguyễn Hữu Đang, dứt khoát xác định trách nhiệm của Hồ Chí Minh trong việc đàn áp NVGP, Lê Đạt có một thái độ gần như băn khoăn, khó hiểu.  

 

Ngày 13/4/1999 tại Paris, nhà thơ Lê Đạt đă nói chuyện với RFI về Nhân Văn Giai Phẩm

 

Trong buổi nói chuyện với ông (ghi âm ngày 13-04-1999), ở đoạn cuối, tôi có hỏi ông về Hồ Chí Minh. Khi phát thanh trên RFI, năm 2004, Lê Đạt đồng ư là nên cắt bỏ. Nay đă có khoảng cách thời gian, xin ghi lại hai câu đă bị cắt bỏ này, như một tư liệu, giải thích thái độ của Lê Đạt đối với vị lănh tụ đương thời.

 

T. K: Chính ở trong mouvement của các anh cũng có điều khó hiểu: Ngay từ ban đầu, các anh đă phê b́nh tập thơ Tố Hữu, chỉ trích tập thơ đó là thần tượng hóa cụ Hồ, và toàn bộ tinh thần NVGP đều chống lại sự thần tượng lănh tụ. Nhưng trong thâm tâm các anh, ít nhất ba người Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm, đều thấm nhuần Tây học, mà vẫn có sự thần tượng hóa cụ Hồ, có phải như thế không? Điều này làm cho người ta khó hiểu.

 

L. Đ: Dĩ nhiên chị ạ. Ḿnh có thể phê phán người khác [nhưng ḿnh vẫn phạm sự] thần tượng hóa, là tất nhiên. Nhưng khi tôi viết tôi không thần tượng hóa nữa. Tôi rất chú ư đến việc ấy, nhưng chắc là trong ngóc ngách tâm hồn tôi, chắc c̣n có nhiều chỗ vẫn thần tượng hóa.

 

T. K.: Trong thâm tâm các anh vẫn coi cụ Hồ là “thần tượng”. Nhưng cụ Hồ lại chủ trương  điều mà các anh chống lại, đó là sự toàn trị, và cấm đoán cái mà các anh đ̣i hỏi, đó là tự do tư tưởng. Ḿnh không thể nào tranh đấu với một thần tượng mà ḿnh tôn thờ và đ̣i lật đổ sự độc tôn thần tượng đó. Đấy là cái điểm mâu thuẫn, không thể giải thích được trong lập luận của các anh?

 

L. Đ.: “Tôi không bao giờ coi cụ Hồ là đại diện tự do và dân chủ cho đất nước Việt Nam. Tôi thần tượng là thần tượng ở những khía cạnh khác. Chị nên thông cảm với tôi. Thần tượng trên mọi phương diện th́ tôi không bao giờ có, không bao giờ tôi nghĩ cụ Hồ là thần tượng của tự do dân chủ trên đất nước Việt Nam. Không có. Trong khi tôi đấu tranh th́ có nghĩa là tôi đấu tranh cả với cụ Hồ. Nhưng một góc của tâm hồn tôi... Đó là bi kịch của tôi. Điều đó chị thông cảm cho tôi”.

 

Ngoài micro, tôi nói đùa: “Cụ Hồ đă làm các anh điêu đứng suốt đời mà anh vẫn c̣n bênh được th́ lạ quá!”. Lê Đạt cười: “Th́ ḿnh cũng phải tin là c̣n có một người tử tế, chứ nếu cả nước đều một bọn vứt đi th́ làm sao sống nổi!”

 

Lê Đạt có viết một bài trường ca Bác (một phần trích in trong Văn học VN sau cách mạng tháng Tám, nxb Văn Học Hà Nội 1992). Đây là bài thơ ca tụng, với những t́nh cảm chung chung, không  bộc lộ được cái cảm xúc chân thực (nếu có) phát xuất tự đáy ḷng:

 

“Trong lặng im trắng /mênh mông / mỗi tấc ḷng

Ta càng nghe rất rơ / cái thủa Ba Đ́nh

Di chúc / bác mở tay / mở bay / trang rộng” (sđd, trang 132)

 

Thơ ca tụng bác Hồ, thời kỳ đầu kháng chiến, hầu như ai cũng làm, kể cả Vũ Hoàng Chương. Nhưng không hiểu sao, Lê Đạt lại làm bài Bác ở thời điểm khá trễ này? Đào Phương Liên cho biết, khi “Ông” mất, bố mẹ để tang “Ông”. Phong Lê trong bài “Có một trường ca về Hồ Chí Minh...” cho biết trường ca này viết năm 1970 để kỷ niệm ngày giỗ đầu của HCM, nhưng cũng phải 20 năm sau, mới được in (Nhà xuất bản Thanh Niên, 1990) nhân ngày kỷ niệm 100 năm sinh HCM.

Như vậy bài thơ Bác có thể đă làm sau khi Hồ Chí Minh mất, như một lời tạ ơn chăng?

 

Kết thúc lớp Thái Hà, Tố Hữu đă có lời đe Lê Đạt: “Tội của anh cũng nặng như tội Nguyễn Hữu Đang. Lẽ ra anh cũng bị đi tù. Nhưng mà Đảng v́ nghĩ đến anh, chiếu cố đến anh c̣n trẻ, có khả năng và c̣n có thể giúp ích được cho đời nữa nên Đảng khoan hồng với anh thôi chứ anh-đừng-nên-nghĩ-rằng-anh-tội-nhẹ!” Đó là lời dặn ḍ của Tố Hữu với tôi trước khi tôi về”.(Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI)

 

Đảng, trong lời Tố Hữu, là Bác?  “Tội” của Lê Đạt nếu truy kỹ, nặng hơn “tội” Nguyễn Hữu Đang, v́ những câu thơ của Lê Đạt viết về chế độ cộng sản sẽ không bao giờ xóa được trong ḷng kư ức dân tộc. Nhưng Lê Đạt không bị đi tù. Phải chăng Lê Đạt đă cảm nhận được sự “khoan hồng” ở bác, đối với một nhà thơ có tài? Và đó chính là bi kịch của ông? Tạm hiểu bài thơ Bác và t́nh cảm “khoan hồng” của Lê Đạt đối với bác, nằm trong bối cảnh như thế.

 

Hoặc cũng có thể, ở những nghệ sĩ như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, luôn luôn có một con người ngây thơ, lăng mạn, trữ t́nh, khi nh́n vị lănh tụ. Trong khi ở những nhà trí thức như Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang... Sự phán xét lănh tụ sáng suốt, rạch ṛi hơn, v́ họ không lăng mạn mà nghiêng về lư trí, tinh thần. 

 

Tham gia Quốc dân Đảng

 

Trong bản bản “thú tội” của Lê Đạt, có một câu quan trọng: “Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn tay phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lănh tụ, cho tôi đi thực tế để cải tạo, nâng đỡ những sáng tác của tôi, đến khi va chạm vào quyền lợi cá nhân, tôi trở mặt tấn công vào Đảng, nhẩy sang trận địa của giai cấp tư sản phản động và làm người phát ngôn của chúng” (Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 80).

 

Và khi trả lời phỏng vấn của Phạm Tường Vân, Lê Đạt cho biết:

“Nhà mẹ vợ tôi là cơ sở cách mạng, hai anh của Thúy một người là bí thư chi bộ xă, một người đi bộ dội. Hồi cải cách mẹ vợ tôi bị quy là gián điệp và anh cả bị quy là Quốc Dân Đảng chờ đem ra xử bắn. Thúy đương được ở đoàn kịch trung ương, lúc nào cũng nơm nớp   sợ bị đưa về xă đấu tố. Th́ vừa lúc sửa sai bắt đầu, cả nhà may mắn thoát nạn” (Lê Đạt trả lời Phạm Tường Vân, bđd)

 

“Trong truyện ngắn “Thế là… chị ơi!” (Talawas, tháng 6/2007) của Vũ Ngọc Tiến, có nhiều chi tiết gần gụi với đời sống của bà Bùi Thị Ngọc Khuê, vợ nhà thơ Trần Dần, đặc biệt có một đoạn viết về cái chết của ông Phán Hậu (ân nhân của bà K) như sau:

 ”Cuối cùng th́ thơ anh cũng được tôn vinh. Sau ngày anh mất, tập trường ca cuối cùng của anh được trao giải và hôm nay tôi lại nh́n thấy chị trên màn ảnh nhỏ, trong lễ trao Giải thưởng Nhà nước cho anh và những người bạn của anh. Song cái án oan kết tội ông Phán Hậu, nhà chí sĩ yêu nước giầu có, danh giá bậc nhất tỉnh Nam Định bị bôi nhọ là tên phản động Quốc dân Đảng, tay sai đế quốc Pháp ai rửa cho ông? Đêm trước ngày bị các Ông Đội sai cán bộ chuỗi, rễ đến nhà bắt trói ông đem đi đấu tố, ông lập bàn thờ giữa sân nhà, có bài vị Nguyễn Thái Học bằng chữ Nho, rồi ông đội khăn xếp, mặc áo the đen, lầm rầm khấn vái: “Tiên sinh năm nào lên máy chém vẫn để lại lời bất hủ rằng “không thành công cũng thành nhân”. Giờ độc lập thành công rồi, mai tôi lên đoạn đầu đài sẽ thành ǵ đây? Tiên sinh hỡi, tiên sinh!...” Cái án oan ấy khiến anh đang đi công tác cải cách ruộng đất ở Thái B́nh bị triệu hồi về giam lỏng ở đơn vị. Ngày ấy, nếu lần anh tự tử bằng dao lam trót lọt th́ c̣n đâu những tác phẩm sau này anh viết cho người đời chiêm ngưỡng, hậu thế tôn vinh?”

 

Hai câu chuyện trên đây về người thân của hai bà vợ Nhân Văn, cho ta thấy rơ không khí thời đó đối với những người có “quan hệ” với Quốc Dân Đảng và hiểu tại sao Lê Đạt đă phải cất giấu quá khứ của ḿnh.

 

Trong những người chủ chốt của phong trào, ba người có “liên hệ” với Quốc dân đảng: Phan Khôi, Thụy An, Lê Đạt. Do đó, một mối thâm t́nh liên kết họ với nhau:

- Trả lời phỏng vấn RFI, Lê Đạt nhắc đến Thụy An và Phan Khôi, với những lời đầy ư nghiă: - “Phan Khôi với tôi vốn có những quan hệ đặc biệt”.”Trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là người lănh đạo tờ Nhân Văn”.

 

Việc công nhận Phan Khôi là người lănh đạo tờ Nhân Văn, chứng tỏ Lê Đạt chỉ coi Nguyễn Hữu Đang như người bạn đồng hành, Phan Khôi mới là người thủ lănh. Ngoài uy tín của Phan Khôi trong văn học, c̣n có lư do nào khác, nếu không phải v́ Phan Khôi là người theo Quốc dân đảng, lư tưởng đầu đời của Lê Đạt?

 

- “Tôi có thể bảo đảm 100% chị Thụy An không phải gián điệp”, “Chị Thụy An rất thân với anh em trong NVGP và đặc biệt là thân với tôi”. “Riêng tôi th́ không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với tôi”.

 

Tại sao Lê Đạt dám bảo đảm 100% là Thụy An không phải gián điệp, nếu ông không  biết rơ hành động của Thụy An? Nếu không cùng một lư tưởng?

 

Câu “Tôi không bao giờ quên công của chị Thụy An đối với tôi”, có nhiều ư nghiă. Công ǵ? Thụy An có công với nhiều người, công dạy Phùng Quán tiếng Pháp tiếng Anh, công giúp đỡ vợ con Lê Đạt... Nhưng từ khi Thụy An bị nạn cho đến bây giờ, những bạn đồng hành không ai nói một lời biện hộ công khai cho bà, trừ Lê Đạt. Vậy có thể hiểu chữ “công” này là một công lớn: Ngoài sự kính phục người chị văn nghệ can trường, c̣n có sự hàm ơn Thụy An, đă không “khai” những điều bà biết về Lê Đạt, như một thành viên cũ của VNQĐ.

Khu lăng mộ Nguyễn Thái Học tại Yên Bái với câu nói nổi tiếng ''Không thành công cũng thành nhân”

(Ảnh: DR)

 

Câu châm ngôn mà Lê Đạt cho ghi lại trong bộ Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại (nxb Hội Nhà Văn, 2007), là: “Một nhà văn tự trọng nên bận tâm đến việc thành nhân hơn là thành danh” có ǵ rất gần với lời Nguyễn Thái Học: “Không thành công th́ thành nhân”.

 

Tinh thần yêu nước phát sinh từ Yên Bái  

 

Đất Yên Thế và đất Yên Bái đối với Lê Đạt có những gắn bó sâu xa: Yên thế, quê nội là đất của Đề Thám, thuộc phân Phủ lạng giang, triều Nguyễn (nay thuộc tỉnh Bắc giang), có 2 mảnh đất lịch sử: Nhă nam và Yên thế:

 

-Tổng Nhă Nam, là nơi Hoàng Hoa Thám làm lễ tế cờ khởi nghiă (1889), và cũng là nơi Lương Tam Kỳ đem thủ cấp Đề Thám nộp cho Pháp lănh thưởng (1913).

 

- Tổng Yên Thế, là nơi Đề Thám đặt đại bản doanh chiến đấu trong hơn 20 năm, vị trí hiểm trở, “rừng thiêng nước độc”, nằm giữa rặng Cai Kinh (Lạng Sơn) và núi đồi Thái Nguyên.

 

Yên Thế, như một địa h́nh, một bối cảnh đất nước lâm nguy, một can trường chống Pháp nhưng thất bại.

 

Đất quê cha tôi /đất quê Đề Thám

Rừng rậm sông sâu

Con gái cũng theo đ̣i nghề vơ

Ngày nhỏ /cha tôi dẫn đầu / lũ trẻ chăn trâu

Phát ngọn cờ lau / vào rừng Na Lương đánh trận

Mơ làm Đề Thám...  (Cha tôi)

 

Nhưng v́ miếng cơm manh áo, người cha đă buông tay, bỏ cuộc, người con tiếp tục lên đường:

 

Cuộc sống hàng ngày / nhỏ nhen / tàn bạo

Rác rưởi gia đ́nh / miếng cơm / manh áo / tàn phá con người

Những mơ ước thời xưa / như con chim gẫy cánh

Rũ đầu chết ngạt trong bùn

Năm tháng mài ṃn / bao nhiêu khát vọng.

Cha đă dạy con một bài học lớn

Đau thương / kiên quyết làm người. (Cha tôi)

 

Bài Cha tôi làm tháng 7/56, giữa Giai phẩm mùa xuân Nhân văn, như một tuyên ngôn, xác định con đường tranh đấu, lấy đất Đề Thám làm khởi điểm.

 

Nếu Yên Thế được Lê Đạt xác nhận, th́ Yên Bái, đă không thể công khai tŕnh làng, bởi Yên Bái là quê hương của Quốc Dân Đảng.   

 

Yên Bái là pháp trường xử ḷng ái quốc. Khi Nguyễn Thái Học và 12 bạn đồng hành lên đoạn đầu đài (1930), Lê Đạt mới một tuổi, nhưng Yên Bái, hơn một nơi chôn rau cắt rốn, đă trụ lại như cái mốc đầu đời, một khởi điểm của cơi viết và nẩy mầm ư chí cách mạng vùng lên chống Pháp.

 

Tập thơ Tỉnh mẹ, tạm coi như tập thơ đầu đời của Lê Đạt, đă dành cho Yên Bái chỗ đứng thiêng liêng, nói lên tâm sự người thanh niên sinh ở Yên Bái. Tỉnh mẹtỉnh ḿnh sinh ra, là đất mẹ, là Yên Bái. Tỉnh mẹ có thật sự bị thất lạc? Hay đă bị “tịch thu” và sau này được trả lại?

 

Tỉnh mẹ, in trong phần Di cảo (Đường Chữ, nxb Hội nhà văn, 2009)

 

Tác giả mơ hồ cho biết đây là tập thơ bị thất lạc đă 40 năm. Không một bài thơ nào ghi ngày tháng ở dưới. Lê Đạt cũng không hề nhắc đến “giai đoạn thơ này” khi c̣n sống. Có phải v́ Yên Bái là một “liên quan” thầm kín mà tác giả phải giấu đi?  Cũng như trong một thời gian dài, về nơi sinh, ông chỉ ghi Âu Lâu, trên bờ sông Hồng (không nhắc đến tên Yên Bái).

 

Tập thơ nói lên tinh thần chống Pháp của một thanh niên. Thơ làm theo lối leo thang, không vần, đă là giọng thơ Lê Đạt, đă có những h́nh ảnh mới lạ, táo bạo hơn thơ người khác. Điểm đặc biệt là sự gắn bó với Yên Bái, như cái nôi của hành động và tư tưởng, như một tiền trạm của ḷng yêu nước, như một ư chí cách mạng, một sự đổi thay, một sự lập thân con người, khởi đi từ Yên Bái.

 

Từ Yên Bái, cậu bé đă thấy một “người hàng xóm”, “người chị”, và cũng là “người yêu”, bị con trai quan phủ làm nhục, xóm làng hắt hủi:

 

Đêm ấy / chị ra sông tự tử

Theo những chiếc lá dâu ngày xưa

Áo trắng / như buồm mộng / về một chân trời nào / cao rộng / thăm thẳm / xa (Thơ ngây, trang 298)

 

Từ Yên Bái, cậu bé nh́n thấy người ăn mày chết trước cửa giáo đường, hỏi Chúa có thấy không?

Chúa về tự bao giờ

Có phải thật Người không?

Tiếng chuông / lu loa / hối hả / giục / người bơ già

Quét / chiếc xác / nằm co quắp

Chết / giữa ngày Phục sinh (Người ăn mày già, trang 319)

 

Từ Yên Bái, tác giả thấy một người anh, ban đầu có “chí lớn”, rồi chí ấy lụi tàn trong bổng lộc quan trường, cuối cùng nh́n lại sổ đời. Bản cáo trạng chứng tỏ người anh không sống trong thời Pháp thuộc mà dường như ở thời cách mạng:

“Trong khoảnh khắc / đối diện / cùng sự thật

Sởn tóc gáy / như kẻ sát nhân / đột nhiên / thấy / người ḿnh thủ tiêu / lững thững / hiện theo về / đối chất

“Anh có thể lừa /cha mẹ / vợ con / lừa cả nước

Nhưng thế nào / cũng có lần / anh phải lôi ra / trước / vành móng ngựa bản thân anh” (Một cuộc đời, trang 309)

 

Yên Bái, một xă hội Việt nam thoi thóp, tê liệt, đợi chờ:

Yên Bái/ dăm cô gái/ lỡ th́/ thổn thức/ Nhất Linh/ tay / Loan Dũng / lên ô kính bụi

Chơ chỏng/ mấy con búp bê/ gẫy cẳng/ bạc màu

Yên Bái/ một phố chiều/ thượng du nắng lụi

Một con đường/ rơm rớm/ máu rơi

Đôi vợ chồng già / không con / nh́n bóng tối

Ôm con mèo gầy / nhức nhối / chuyện ngày xưa

Yên Bái/ hôm nào / cũng ra ga

Hôm nào / cũng nhỡ tàu / ở lại

Với những tiếng c̣i / rứt ruột / gọi đi

Và một chân trời / nhêu nhếch / khói (...)

Yên Bái / những ngày trích lục nhau / sao thành nhiều bản (...)

Yên Bái / một quê hương vỡ nợ (...)

Một ngă ba thành năm sáu ngă ba (Phác họa màu xám, trang 333)

 

Và người thanh niên ấy đă gửi những lời tạ tội về Yên Bái, tạ tội đă đốt quê hương. Tiêu thổ là  bài thơ duy nhất trong thời kháng chiến đặt lại vấn đề tiêu thổ kháng chiến như một tội đồ đối với quê hương, dân tộc: 

Yên Bái / chỉ để lại / trong tôi / những kỷ niệm / nhạt / như nước ốc

Sao hôm nay / khi tiêu thổ quê hương / tôi bỗng khóc (...)

Yên Bái ơi! / Cố sống / lấy thêm /dăm ngày nữa (...)

Hôm nay / ta đánh vỡ / quê hương

Đánh vỡ / từng viên gạch / tổ tiên ta / cóp nhặt (...)

Quê hương ơi! / Ta không phải / kẻ ăn tàn phá hại

Vén tay áo xô / đốt gia tài / ông cha để lại... (Tiêu thổ, 345)

 

Yên Bái chính là khởi điểm của cuộc lên đường, cũng là cuộc đi vào tan nát, khổ đau:

“Ôi! Những ngày đầu / quê hương / tan nát lửa

Như đàn c̣ / vỡ tổ / bế nhau đi

Đằng trước một chân trời sẹo đạn

Đằng sau /thông thống một đường về

Ta đă / chọn /đường / đi về phía trước

Chân chảy máu / nạng vào nhau ta bước

Điểm chỉ / trên khắp mọi ngả đường

Trong bản giao kèo /ta kư /với tương lai (Quê hương du ca, trang 353)

 

Yên Bái c̣n là mẹ của cả những người lính viễn chinh:

Bà mẹ Âu Lâu /ngồi / như gốc mai nở trắng / giữa đàn con / đủ / các giống người

Thằng cả / Xa lum / người Xê nê gan / làm mỏ than Ma rốc

Vào hầm than / đen / như thấy dân tộc ḿnh / mấy ngàn đời / vùi dập /chết / ở đây

Tan tầm về / ra bờ sông nước trong /rửa mặt

Rửa xong / nh́n / mặt vẫn nhọ than

Thằng hai / Ma Hô Mét

Công nhân bốc vác / An Giê

Gù gù / lưng cánh phản

Ngày ngày / khuân tổ quốc / xuống tàu buôn... (Mẹ, trang 363)

 

Đối diện với những hô hào chém giết, máu, thù, trong thi ca đương thời, đây là bài thơ phản chiến và nhân bản nhất trong văn chương Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Nhà thơ không phân biệt chiến tuyến, “dám” coi “quân thù” cũng là con của mẹ Âu Lâu. V́ vậy “tội” của Lê Đạt phải là rất nặng, ngay từ trước thời kỳ NVGP.

 

Thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm

 

Xuân Diệu buộc tội: “Đă rơ rệt như ban ngày, tập Giai phẩm mùa xuân 1956 phất lá cờ đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt là nhà lư luận trong đó. Lê Đạt mở đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn: “Trích thơ gửi người yêu” (...) và bài thơ tuyên ngôn thứ hai “Mới” đăng trong Giai phẩm (...) Lê Đạt là một người chủ chốt của báo Nhân Văn, tham mưu cho cả tờ báo, tự tay sửa chữa nhiều bài đả kích chế độ ta rất cay độc (...)  Cùng với Nguyễn Hữu Đang làm bộ óc của báo Nhân Văn, đứng làm “nhà lư luận” của bọn chống Chế độ (...) Sau khi báo Nhân Văn bị cấm, Lê Đạt liên lạc cấu kết với Thụy An, Lê Đạt đóng vai tṛ quan trọng trong việc lũng đoạn Hội Nhà Văn, Lê Đạt tích cực dùng ng̣i bút viết lối văn hai mặt; Lê Đạt luôn luôn giữ một cương vị đứng chủ trường phái; măi đến trong lớp học văn nghệ lần thứ hai (tháng 3 và 4/1958) vẫn c̣n t́m cách quay quắt. Cho nên, xét Lê Đạt, ta phải nh́n thấy cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong bản chất giai cấp thù địch” (trích bài “Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân tư sản trong thơ Lê Đạt”, (Văn Nghệ số 13 tháng 6/58, in lại trong tập Dao có mài mới sắc của Xuân Diệu, 1963, các trang 86, 87, 89 và 95).

 

Thi sĩ Lê Đạt và bài thơ nổi tiếng đăng trên báo Nhân Văn số 1 ngày 20/09/1956. (Ảnh: DR)

 

Lê Đạt cũng xác nhận vai tṛ chủ chốt của ḿnh trong bài tự kiểm thảo: “Tôi tham gia Nhân Văn với ư thức là người lănh đạo lư luận của tờ báo v́ tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm có 4 người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi góp ư, vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch. (...) Nhân Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân Văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau một thời gian các báo ngớt đánh, t́nh h́nh trở lại b́nh thường, chúng tôi lại vẫn gặp nhau đả kích Đảng, cho là độc đoán”. (trích lời “tự thú” của Lê Đạt, Văn Ngệ số 12, tháng 5/1958).

 

Trong thời kỳ NVGP, ngoài những bài xă luận chính trị kư tên Người Quan Sát cùng với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt là nhà thơ sáng tác nhiều nhất và chống đối mạnh mẽ nhất. Ngoài những bài thơ in trên báo, c̣n có:   

 

Thế giới này là của chúng ta, (phát hành tháng 12/1955), có thể phần lớn làm theo lối tuyên truyền, thời mà Lê Đạt cho là “biết bao lần tôi đă không thực là tôi”, cho nên sau này ông không nhắc đến tập thơ ấy nữa.

 

Bài thơ trên ghế đá (nxb Hội Nhà Văn, 1957).

 

Cửa hàng Lê Đạt, (đang in, bị đ́nh chỉ, Lê Đạt bị khai trừ khỏi đảng, tháng 7/1957)

 

Đụng long mạch (in trên Tự do diễn đàn, tháng12/56, báo bị cấm)

 

Lê Đạt c̣n nói đến bút kư “Vào 21”, viết về thời kỳ bị  kỷ luật. Hiện nay không biết văn bản này thất lạc ở đâu.

 

Trong tinh thần Đỗ Phủ, thơ Lê Đạt phản ảnh xă hội thời ông sống. Không ít bài bị cấm, bị tịch thu, hoặc bị thất lạc. Sau này, những ai muốn t́m hiểu thực chất của xă hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản cần phải t́m lại những tác phẩm này, không chỉ của Lê Đạt, mà của toàn thể các tác giả trong NVGP đă bị chôn vùi hoặc thất lạc. Những tác phẩm viết trong tù, của Thụy An, có lẽ ở Sài G̣n, phía gia đ́nh các em, hoặc bạn bà là Trinh Tiên (tên thật là Trinh Nữ, chồng là Bửu Đảo) c̣n giữ.

 

Nhờ hai bài đánh Lê Đạt của Xuân Diệu và Xuân Hoàng mà chúng ta có thể biết được  nội dung một số bài thơ của Lê Đạt, trong thời kỳ NVGP

 

Tập Bài thơ trên ghế đá, theo Xuân Diệu”dưới sự lũng đoạn của Hoàng Cầm” nhà xuất bản Hội Nhà Văn đă in tập thơ này năm 57, sau khi Nhân Văn bị đóng cửa.

 

Vẫn theo Xuân Diệu, th́ tác phẩm này “là cả một hệ thống có ư thức phá hoại tinh thần từ đầu chí cuối”, “anh ta [Lê Đạt] vẫn cứ “đầu thai nhầm chế độ”, bài “Đu” là “một sự khiêu khích”. Bài “Gia đ́nh”, với những câu như: “Nhiều dự định sa lầy trong đống tă”, “t́nh yêu bị những cái hàng ngày bóp cổ”, “Lê Đạt đưa những xót xa đau đớn  ra và  cho nó thắng trận”. Bài thơ trên ghế đá đầy một điệu hưởng lạc, chết lịm trong t́nh yêu”, và vẫn theo Xuân Diệu, trong bản đánh máy đưa cho nhà xuất bản c̣n có bài “Trong hầm bí mật”, nhưng không in, bài này rất tiêu biểu cho cái triết lư “máu, sướng và chết” của Lê Đạt”. Xuân Diệu viết tiếp: “Bài thơ trên ghế đá “c̣n có dă tâm đả kích Đảng. Cho Đảng là phao phí nhân tài (Con búp bê, T́nh người), ví Đảng như một anh thợ cầu già chưa vợ, bác rất nhiều cầu, xây dựng kinh tế được nhiều đấy, nhưng chưa bắc qua được một ḷng người”.

 

“Hàng triệu ḷng người đă nhờ Đảng mà tái sinh, yêu Đảng sâu sắc, nhưng cố nhiên ḷng của bọn Nhân văn- Giai Phẩm th́ chỉ có bọn tư sản phản động mới bắc được cầu”.

 

(Xuân Diệu, Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 13, tháng 6/58).

 

Nhờ bài đả kích của Xuân Hoàng, chúng ta biết thêm nội dung bài Đụng long mạch, in trên Tự do diễn đàn, tháng12/56, báo bị cấm:

 

“Trong bài thơ “Đụng long mạch” (...) Lê Đạt dựng lên khung cảnh một địa phương đang bị hạn hán, có cán bộ về khuyên đào giếng nhưng v́ sợ bị “đụng long mạch” nên các cụ nhất định không nghe. Sau có vợ chồng anh Ân đêm về bí mật bàn với nhau nên lén lút đem cuốc ra vườn đào giếng, đến sáng hôm sau bà con thức dậy thấy “mạch nước đùn lên nước phun loang loáng”, và từ đấy cả làng noi gương vợ chồng anh đào giếng chống hạn khắp nơi.

 

(...) Lê Đạt hết lời khen ngợi vợ chồng Ân - những “anh hùng” trong câu chuyện qua cái nh́n của Lê Đạt đă “dám cả gan đánh bốc với những già nua cũ kỹ của cuộc đời”. Lê Đạt đă kêu ầm lên một cách hậm hực rằng:

 

“Những con người ụ

Ềng ra cản đường”

Và Lê Đạt hô hào:

“ Cần biết bao nhiêu

Những cái đầu táo bạo

Dám nghĩ, dám làm

Không nô lệ chung quanh”

(...) C̣n đây là cái nh́n của Lê Đạt về Đảng. Đó là:

...” lưng con rồng,

Ai đào giếng đụng vào long mạch

Th́ phải tội mù hai con mắt

Cả nhà hộc máu chết tươi”

Và nhay đi nhay lại cái ư đó một cách dọa dẫm:

“Long mạch này mà đứt

Cả nhà không thoát một người”

 

hoặc:

 

“Long mạch hôm nay rung chuyển

Phen này rồi chết cả nhà”

 

(Thực chất tư tưởng chống đảng trong thơ Lê Đạt, Xuân Hoàng, Văn nghệ số 11, tháng 4/1958, trang 71-72)

 

Bài thơ dài Cửa hàng Lê Đạt, in trong phần phụ lục dưới đây, làm theo thể trào phúng, là một trong những bức tranh thơ sống động nhất về thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm.

 

Đời chữ của Lê Đạt chia làm hai thời kỳ, dưới hai ng̣i bút:

 

Nhà thơ thời thế, theo truyền thống Đỗ Phủ, ghi lại bộ mặt của xă hội toàn trị trên đất nước ta. Nhà thơ cách tân, theo truyền thống Mallarmé, mở một kỷ nguyên mới cho đường chữ.

 

Lê Đạt, nhà thơ thời thế, xác định tính chất cơ bản của lịch sử:

 

Lịch sử muôn đời duyệt lại

Không ai lừa được cuộc đời.

 

Lê Đạt, nhà thơ cách tân, gửi lại hậu thế những lời trăn trối cho tương lai:

 

Vũ trụ ơi / tha cho tôi

Tất cả những ǵ / thơ tôi chưa làm được

Khi tắt thở / mắt tôi đừng ai vuốt

C̣n ǵ buồn hơn / màn đóng lại mục đời  

 

 

(Hết phần thứ X)

Thụy Khuê

 

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính