Nhân Văn Giai Phẩm phần VIII:

Thụy An

 

Thụy Khuê

 

 

 

Chân dung nữ văn sĩ Thụy An (Ảnh: DR)

 

“Mặc bao cuộc hưng tàn phế đổi

Vẫn đăm đăm một đợi, một chờ

Mẹ con hoá đá trơ trơ

Mẹ là tin tưởng, con là tương lai.

Đó là tâm trạng Tô Thị hoá đá, mà cũng là tâm trạng của tôi suốt 15 năm cho đến măi măi.” (Thụy An)

 

 

Thụy An là khuôn mặt nổi trội, bị kết án nặng nề nhất. Trường hợp của bà giống như một bi kịch Hy Lạp, và cho đến nay, chưa mấy ai hiểu được những khúc mắc ở bên trong.

 

Thụy An  là ai?

 

Là phụ nữ duy nhất, không viết bài cho NVGP, nhưng tên bà bị nêu lên hàng đầu trong “hàng ngũ phản động”, bà bị quy kết là “gián điệp quốc tế”, lănh án 15 năm tù cùng với Nguyễn Hữu Đang. Những lời thoá mạ nhơ bẩn nhất dành cho bà “Con phù thủy xảo quyệt” cùng những lời lẽ độc địa nhất: “Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn ḅ tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân” (Bàng Sĩ Nguyên, BNVGPTTADL, trang 120).

Tại sao lại có sự căm thù ghê gớm đối với nhà thơ, nhà văn, nhà báo phụ nữ tiên phong của Việt Nam? Người đầu tiên thực hiện nữ quyền bằng ng̣i bút và hành động. Người chủ trương giải phóng phụ nữ không bằng lư thuyết mà bằng việc làm. Người xác định vị trí phụ nữ như một công dân tự do, thấm nhuần tinh thần dân chủ.

 

                  Một trang báo trích lời văn sĩ Thụy An (Ảnh: DR)

 

Đáng lẽ bà phải có chỗ đứng xứng đáng trên văn đàn, bởi bà là nhà báo đầu tiên chủ trương các tờ Đàn bà mới, tại Sài g̣n, từ 1934, và Đàn bà, Hà Nội, 1937. Bà là nhà văn nữ tiên phong với tiểu thuyết Một linh hồn, 1942. Nhưng cho đến nay, chính quyền chưa hề trả lại cho bà phần danh dự bị bôi nhọ trong hơn nửa thế kỷ, với những lời nhục mạ tàn nhẫn,  một cái án 15 năm phi lư, và cho đến chết bà vẫn chưa hề được phục hồi danh dự.

 

Để t́m hiểu về Thụy An con người và tác phẩm, chúng tôi đă liên lạc với hai con bà, ông Bùi Thụy Băng, nguyên chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Atlanta Việt Báo, tại Hoa Kỳ; bà Bùi Thư Linh, tại Paris; và sử dụng bản tiểu sử Thụy An do Trinh Tiên (bạn thân của Thụy An) viết ngay sau khi Thụy An qua đời năm 1987, nhưng đến 1998, gia đ́nh mới nhận được, đăng trên Atlanta Việt Báo Xuân Ất Dậu, 2005.

 

Thụy An (bút hiệu khác: Thụy An Hoàng Dân), tên thật là Lưu Thị Yến, sinh năm 1916 tại Hà nội, là con ông bà Lưu Tiến Ích và Phùng Thị Tôn, quê gốc làng Hoà Xá, quận Vân Đ́nh, tỉnh Hà Đông. Thuở nhỏ học trường Hàng Cót, Hà nội. Năm 1929, 13 tuổi, Yến đă có   thơ đăng trên Nam Phong. 1932, 16 tuổi, được giải thưởng văn chương của Triều đ́nh Huế. Năm 1934, 18 tuổi, Thụy An kết hôn với Bùi Nhung, nhà văn kiêm nhà giáo, bút hiệu Băng Dương, là em ruột học giả Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim, sinh 7 con, một người mất sớm: An Dương (1934), Thụy Băng (1937), Thư Linh (1938), Dương Chi (1939), Ngọc Trinh (1943) và Châu Công (1945). Ông Bùi Nhung hai lần làm giám đốc đài phát thanh Hà Nội từ 1948-49, và 1951-52, rồi giám đốc đài phát thanh Hải Pḥng năm 1954 (trong thời gian 180 ngày trước khi vỹ tuyến 17 khép lại).

 

Cũng năm 1934, 18 tuổi, Thụy An bắt đầu nghề báo, cùng chồng lập tuần báo Đàn bà mới ở Sàig̣n. 1937, ra Hà Nội, chủ trương tờ Đàn Bà. Theo Trinh Tiên, năm 1939, bà làm chủ nhiệm báo Phụ Nữ Tân Văn ở Sài g̣n. Trong chiến tranh Việt -Pháp, Thụy An là phóng viên chiến tranh, tham dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài liệu cho báo chí. 1954, bà giữ chức quyền giám đốc Việt Tấn Xă.

Thụy An - Băng Dương sống ly thân từ 1949, nhưng không ly dị v́ cả hai đều theo đạo công giáo. Bà có quan hệ mật thiết với ông Đỗ Đ́nh Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhưng Thụy An và Đỗ Đ́nh Đạo không bao giờ chung sống cùng nhau.

 

Thụy An và Đỗ Đ́nh Đạo chia tay năm 1952. Nhưng đến 1954, khi Đỗ Đ́nh Đạo bị đầu độc chết, dư luận buộc tội bà giết chồng, và chính những lời vu cáo này, sẽ được thổi phồng và sử dụng chống bà sau 1954.

 

Ảnh chụp nhà văn Thụy An năm 1942 (T) và năm 1954 (P). (Ảnh: DR)

 

Về biệt hiệu Thụy An Hoàng Dân, Bùi Thụy Băng, giải thích: Phan Khôi và Thụy An là hai người bạn vong niên từ lâu (Thụy An kém Phan Khôi 29 tuổi). Biệt hiệu Chương Dân của Phan Khôi và Hoàng Dân của Thụy An, là cùng để tưởng niệm đến một người anh hùng, có tên là Chương Hoàng Dân hay Hoàng Chương Dân.

 

Tác phẩm

 

Thụy An là tiểu thuyết gia phụ nữ duy nhất được Vũ Ngọc Phan lựa chọn trong bộ Nhà văn hiện đại, với tác phẩm Một linh hồn (xuất bản 1943). Trong bài phê b́nh dài dành cho tác phẩm Một linh hồn, Vũ Ngọc Phan nhận định: “Là một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong trong địa hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn” và ông kết luận “Một linh hồn cũng đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt nam từ trước đến nay, tác giả đă giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn”.

 

Về cuốn tiểu thuyết thứ nh́, Bốn mớ tóc (1952), Trinh Tiên nhận xét: “Đây là tập truyện gồm nhiều đoản tác: “Một thương”, “Bà mẹ”, “Cô con”, “Mớ tóc”... Tác giả cố ư nêu cuộc sống dân tộc trong buổi giao thời, mọi sinh hoạt đan che nhau giữa mới và cũ. Điển h́nh như một mái tóc phụ nữ. Cổ th́ để dài vấn trần hoặc vấn khăn búi tó; mới th́ cắt ngắn hoặc uốn quăn...” (Tiểu sử Thụy An, Trinh Tiên, Atlanta Việt Báo Xuân Ất Dậu, 2005).

 

Truyện ngắn của Thụy An in rải rác trên các báo tại Hà Nội. Phần lớn, chưa t́m lại được như: Chiếc cầu chân chó, Les vingt cinq meilleures histoires du monde bằng tiếng Pháp, do Hội Văn Bút Quốc Tế xuất bản năm 1954 hoặc 55. Một cuốn sách bà viết về gia đ́nh, gửi một tờ báo ở San José in năm 1985. Tác phẩm Vợ chồng...

 

Một vài truyện được ghi lại như: Giết chó (in lại trên Khởi Hành, Hoa Kỳ, số 77, tháng 3/2003; in lần đầu trên Tạp chí Phổ thông của hội cựu sinh viên trường Luật Hà Nội, số 19-20 tháng 6-7/1953). Tác phẩm viết về hiện tượng cách mạng ra lệnh cho dân chúng đồng loạt giết hết chó để có thể đột nhập vào làng ban đêm mà không bị tiếng chó sủa phát giác, nhưng đồng thời cũng kết án hành động đen tối này như một cuộc thủ tiêu đàn chó vô tội.

 

Lại Nguyên Ân sưu tầm được một số tác phẩm của Thụy An trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đă công bố trên Talawas, gồm những bài: “Nhân xem phim “Anh gắng nuôi con, đặt lại vấn đề Tân hiện thực”, tiểu luận phê b́nh điện ảnh (Văn Nghệ, số 142, 11/10/1956) Chuyện bố, mẹ, bé và con búp bê, truyện ngắn (Trăm Hoa, 25/11/56), Chiếc lược, thơ (Trăm Hoa, 2/12/56). Trong thời kỳ Nhân Văn, bà có in một tập truyện ngắn, theo bài buộc tội của Vũ Đức Phúc, có những truyện như: Trường hợp ṭng quân của thiếu úy Lâm, Bích-xu-ra...

 

Bài tiểu luận phê b́nh phim Anh gắng nuôi con của Nhật Bản, chứng tỏ không những Thụy An thông thạo t́nh h́nh điện ảnh thế giới sau đại chiến, đặc biệt hai nền điện ảnh Tân hiện thực của Ư và Nhật Bản, mà c̣n có những phân tích sắc bén, sâu xa về sự phục vụ của điện ảnh trong đời sống con người.   

 

Thơ văn sáng tác trong tù

 

Trong bài “Thụy An, mẹ chúng tôi” viết cuối năm 1988, sáu tháng trước khi mất, dùng giọng các con để viết về ḿnh, bà có nói đến việc sáng tác trong tù:

“Bên cạnh cái án đó là nỗi đau khổ của một người mẹ ĺa xa con cái 30 năm trời, chưa hề biết mặt 17 đứa cháu nội, ngoại, cũng chưa được ẵm đứa chắt đầu tiên vừa mới ra đời. (...) Lại cũng cần phải nói ngay, không v́ bị 15 năm mất tự do và treo bút vô thời hạn mà Mẹ chúng tôi phải “t́m tự do”, t́m “đất sống” cho những thứ ḿnh viết ra hầu hết trong thời gian bị tù. [Ư bà muốn nói việc in sách tại hải ngoại]

 

Khởi sự bị giam cầm, Mẹ chúng tôi trong một thời gian ngắn có bị khủng hoảng tinh thần  trước tai biến bất ngờ quá ư to lớn đối với một người đàn bà. Song Mẹ chúng tôi đă kịp thời trấn tĩnh lại, nhận tai biến như một cái Nghiệp (...) Mẹ chúng tôi coi tai biến như một cái giá phải trả cho cho sự may mắn được làm người, mà lại làm người Việt Nam có một thứ ngôn ngữ “đẹp nhất trần đời”, dễ học nhất thế giới, có sức diễn đạt truyền cảm, thẩm thấu suốt tâm hồn dân tộc đến nỗi:

Một người mẹ không biết một chữ A,

Cũng biết hát những lời thơ hay nhất” (thơ Thụy An trong Trường Ca Tiếng Mẹ)

 (...) Từ ngày anh em chúng tôi biết đọc, Mẹ chúng tôi vẫn tự hẹn sẽ kể cho các con nghe những chuyện cổ tích Việt Nam để khối óc trinh tuyền của con cái được thâm nhập ngay tính nhân hậu, hiền hoà, thơ và mộng, trí và dũng của dân tộc... Thời kỳ mẹ chúng tôi có ư định này, vào thập niên 30-40, chính là thời kỳ văn học Việt Nam đang tiến lên hiện đại hoá cả h́nh thức lẫn nội dung, một sự tất yếu phải nhiệt liệt đón chào. Chỉ tiếc một điều, trên con đường hiện đại hoá, những vốn cổ dân tộc: Trê Cóc, Lục Súc Tranh Công, Vợ Cóc, Vợ Tranh, Châu Long, Tô Thị, v.v... bị lăng quên...

 

Thế rồi suốt 20 năm sau, cuốn vào thời cuộc thế giới, của đất nước và nghề báo chí, Mẹ chúng tôi chưa thực hiện được ư định. Phải đợi vào nhà tù Cộng sản, Mẹ chúng tôi mới khởi công làm cái việc tha thiết nhất một đời...” (Atlanta Việt Báo, 15/12/2004)

 

Như vậy, những sáng tác trong tù của bà có thể rất phong phú, ngoài 16 truyện cổ tích Việt Nam viết bằng thơ, bà vừa nhắc đến, nói lên chí khí và tâm sự của ḿnh mà bà coi như tập “Nhật kư trong tù”, c̣n có tiểu thuyết và biên khảo. Thơ của bà cũng trong t́nh trạng tứ tán thất lạc. Theo Trinh Tiên: “Thụy An sáng tác thơ cũng rất nhiều, phần đăng rải rác trên các báo, phần vẫn c̣n trong bản thảo. Bài thơ trường thiên tựa đề “Sao lại mùa thu”. Rồi như bài “Ân thiên nhất đẳng” tặng Thái Bằng có giọng ca thiên phú độc đáo...”. Về các sách chưa xuất bản, Trinh Tiên nhắc đến 2 cuốn tiểu thuyết: Người lănh tụ, Phiên chợ trời Đanh Xuyên, và 2 cuốn biên khảo: Bùi Thị Xuân Vợ chàng Trương, có lẽ đó những sách bà đă viết trong tù, không biết bây giờ thất lạc ở đâu.

 

Những lời buộc tội

 

Trong những lời buộc tội, có hai loại: loại “gián điệp quốc tế” -mà không hề đưa ra bất cứ một bằng chứng cụ thể nào về việc này- quá dễ dàng, có thể gán cho ai cũng được, chúng ta không cần bàn đến. Loại thứ nh́ dựa trên một vài sự kiện có thực rồi khuếch trương lên, chính loại này đă tác hại lên danh dự của Thụy An.  Loại này xoay quanh ba dữ kiện:

 

 - Bà quen nhiều người Pháp.

 - Bà di chuyển thường xuyên trên trục Nam-Bắc.

 - Người ta đồn bà giết ông Đỗ Đ́nh Đạo, một yếu nhân của VNQĐD, để tỏ “ḷng trung thành” với cách mạng.

 

Xuân Dung viết:

“Hồi Hà Nội tạm chiếm, nó bỏ Băng Dương, hiện nay là tay chân “đắc lực” của Mỹ-Diệm, và lấy Đỗ Đ́nh Đạo (một tên Quốc dân đảng đă từng chống lại chính quyền dân chủ nhân dân và tàn sát đồng bào ta ở Vĩnh Yên, Phúc Yên hồi Cách mạng tháng Tám). Lúc này tên phản quốc Đạo đang chỉ huy những đội “quân thứ hành chính lưu động” của Pháp chuyên đi càn quét các vùng. Và nó được Đạo nâng đỡ, cất nhắc lên chức quyền Giám đốc Việt tấn xă của ngụy quyền.

 

Một tờ báo xuất bản thời ngụy quyền, ra ngày 8/8/1954 có viết: “thường thường bà Thụy An đi lại trên đường hàng không Hà-nội- Sài-g̣n nhiều lần và hành tung bí mật như đời sống riêng của bà...”

 

Hàng tung của con mẹ phù thủy ấy là đi máy bay dự các cuộc nhảy dù và ra khắp các mặt trận để cung cấp tin tức cho nhiều đài và báo địch; c̣n đời sống riêng là luôn luôn ra vào buồng những thằng Tát-xi-nhi, Cô-nhi... Cuối 1953, nó liên lạc chặt chẽ với tụi tơ-rốt-kít Hồ hữu Tường và cổ động tích cực cho báo Đông phương với nội dung tuyên truyền thuyết “trung lập chế” (trung lập hay chính là tay sai cho đế quốc?).

 

Trước hoà b́nh lập lại ít ngày, đùng một cái, người ta nghe tin Thụy An giết Đỗ Đ́nh Đạo; mà lúc đó có tờ báo trong Hà-nội đă nêu lên với một đầu đề lớn “Tiền, t́nh hay chính trị”. V́ ǵ th́ v́, có điều nhất định không v́ chế độ dân chủ nhân dân của chúng ta rồi! Đỗ Đính Đạo tên trùm GAMO (quân thứ hành chính lưu động) vừa bị giết được hai ngày, có người (hiện đương ở Hà - nội) lại trông thấy Thụy An ngồi chung xe với tên tướng giặc Cô- Nhi, ấy là chưa kể c̣n có tin nó vào Sài-g̣n rồi lại trở ra Hà-nội, 1 tháng trước khi tiếp quản.

 

 Giải phóng thủ đô, nhiều người lạ lùng v́ sự có mặt của con này. Riêng cái việc xuống Hải- pḥng khi ta chưa tiếp quản, rồi lại về Hà- nội một cách đàng hoàng cũng đủ cho chúng ta suy nghĩ (...) Việc đầu tiên là luôn luôn lấy việc giết Đạo để tỏ ḷng “trung thành” với cách mạng” (Xuân Dung, Con phù thủy xảo quyệt: Thụy An, báo Thủ Đô 23/4/58; Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận, trang 42-43).

 

Cách viết trên đây rất thâm độc: tác giả dựa vào một vài sự kiện có thật như việc Thụy An hay ra vào Nam Bắc, và cái chết bí mật của Đỗ Đ́nh Đạo, được báo chí loan tin, để tạo cho người đọc cái cảm tưởng là mọi việc có thật; nhưng lại chêm vào những chữ: nghe tin, có người trông thấy, ấy là chưa kể... để chứng tỏ ḿnh (người viết) vô can. Không kể những điểm vô lư như: Nếu ông Đạo là trùm GAMO của Pháp th́ sao Thụy An lại không bị Pháp bắt, v́ giết Đỗ Đ́nh Đạo, mà lại đàng hoàng đi xe với tướng Cogny? Việc bà “luôn luôn lấy việc giết Đạo để tỏ ḷng trung thành với cách mạng” thật đáng ngờ, v́ trong những phát biểu của Thụy An, cho đến lúc chết, chưa bao giờ bà “tỏ ḷng trung thành với cách mạng”.

Tất cả những lời đồn đại ác ư làm cho bà bị mang tiếng “giết chồng”, sau này trong bài tự thú, Phùng Quán viết “tôi có biết Thụy An trước đây đă giết chồng” và cả Lê Đạt cũng viết “lúc đầu rất ghê tởm Thụy An”. Tiếng oan “giết chồng” là bi kịch đầu tiên của Thụy An.

 

Gia cảnh Thụy An và cái chết của Đỗ Đ́nh Đạo

 

Bùi Thụy Băng cho biết về hoàn cảnh gia đ́nh và t́nh trạng sức khỏe của người mẹ: “Là đứa con trai thứ nh́, tôi là người gần mẹ tôi nhất v́ từ năm 1943 trở đi mẹ tôi bệnh tật luôn luôn. Mới 6 tuổi tôi đă trông nom mẹ tôi. Anh cả tôi là Bùi An Dương bị bệnh hen suyễn từ khi mới sinh ra nên rất yếu đuối và mẹ tôi đă cho anh An Dương khi chưa đầy một tuổi, làm con nuôi ông bà Trần Trọng Kim (cụ Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim là anh, chị ruột của ba chúng tôi)”. (Điện thư ngày 15/12/2004)

 

Thụy An và Băng Dương ly thân từ năm 1949. Tại sao?

 

-V́ cha tôi không trung thành, ông có nhiều bà khác. (Bùi Thư Linh, điện thoại, 17/10/2009)  

 

Sau khi ly thân, ai nuôi các con?

- Mẹ nuôi các con, nhờ bà ngoại giúp đỡ, bác (gái) Trần Trọng Kim cho vay tiền, nhưng mẹ vất vả lắm. (Bùi Thư Linh, nt)

 

Khi nào th́ gia đ́nh vào Nam?

- Năm 1952, đi bằng tàu thủy. Mẹ thường đi về Sàig̣n- Hà Nội bằng máy bay, nhưng vé máy bay cho cả nhà đắt lắm, Mẹ mua vé tàu thủy cho các con, nhờ người cậu dẫn vào Sài-g̣n. (Bùi Thư Linh, nt)

 

Đến năm 1954, Bùi Thư Linh (16 tuổi) đi Pháp, tại sao?

- Tôi bị bệnh lao xương, Mẹ gửi tôi đi Pháp chữa bệnh ngày 20/5/1954.

 

Nhưng gia đ́nh túng thiếu, lấy tiền đâu ra?

- Đi theo diện Pupille de la Nation (Nghiă tử Quốc gia), chính phủ Pháp lo hết.(Bùi Thư Linh, nt)

 

- Tại sao Thụy An đem gia đ́nh vào Sàig̣n năm 1952?

 

 Bùi Thụy Băng: V́ ông Đỗ Đ́nh Đạo. [Có thể hiểu là năm 1952 Thụy An  đă chia tay với Đỗ Đ́nh Đạo, và muốn tránh, bà đem các con vào sống tại Sài g̣n].

- Tại sao Thụy An đă vào Sài g̣n năm 1952, lại c̣n trở ra Hà Nội, trước ngày tiếp quản? [Hội nghị Genève kư: 20/7/1954. Việt Minh tiếp quản Hà nội: 10/10/1954, tiếp quản Hải pḥng:  13/5/1955]

 

- Bùi Thụy Băng: “Từ năm 1952, Thụy An đă vào Nam, tại v́ ông Đỗ Đ́nh Đạo. Ông Đỗ Đ́nh Đạo là Giám Đốc Quân Thứ Lưu Động của Việt Nam Quốc Dân Đảng từ 1950 đến 1954. Ông Đỗ Đ́nh Đạo c̣n là bạn thân của ông cụ tôi, trước khi mất, ông vẫn c̣n liên lạc với ông cụ tôi. Sau trận Điện Biên Phủ, ông Đỗ Đ́nh Đạo có lệnh của VNQĐD, phải ở lại Hà Nội để chống Việt Minh. Nhưng mẹ tôi không biết chuyện đó. Nửa tháng trước khi Việt Minh tiếp thu Hà Nội, tôi (lúc đó 17 tuổi) đưa bà cụ ra phi trường Sài G̣n để đi Hà Nội. Bà cụ tôi ra Hà Nội v́ tưởng rằng ông Đỗ Đ́nh Đạo đă đi rồi. Bà cụ tôi nghĩ rằng ông ĐĐĐ không c̣n ở Hà Nội”.(Điện thoại, 16/12/2004)

 

- Thụy An ra Hà Nội với mục đích ǵ?

- Bùi Thụy Băng: Bà cụ tôi ra Bắc, với hai mục đích:

- Về quê ḿnh để thu thập tất cả những ǵ quư báu nhất trong nhà ông ngoại tôi.

- Thứ nh́, bà cụ tôi muốn đặt cái bản doanh chống lại chính quyền ở Hoà Xá. (Điện thoại, 16/12/2004).

 

Nhờ những chi tiết trên đây, cuộc đời của Thụy An sáng tỏ hơn: người phụ nữ ấy làm nghề báo để nuôi 6 con; là phóng viên chiến tranh, ở cương vị quyền giám đốc Việt Tấn Xă, bà vào Nam ra Bắc thường xuyên; bà quen biết những người như Sainteny (đại sứ), các tướng Tassigny, Cogny... và cũng nhờ họ, bà xin được cho con gái sang Pháp chữa bệnh lao xương. Nhưng cũng chính v́ việc con gái sang Pháp với diện Pupille da la Nation mà sau này trong vụ án NVGP, bà lại càng bị quy kết làm “gián điệp” cho Pháp.

 

Như vậy, khi ra Bắc, Thụy An đă có chủ đích chính trị: đặt bản doanh chống chính quyền cộng sản ở Hoà Xá là quê hương bà, nơi có những người tin cẩn nhất, và Hoà Xá cũng là một trong những làng có truyền thống chống cộng. Với hành động này, Thụy An trở thành nhà  văn đầu tiên tổ chức chống lại chính quyền cộng sản, trong ḷng chế độ.

 

Bà không ở trong tổ chức của Việt Nam Quốc Dân Đảng, v́ bà không biết Đỗ Đ́nh Đạo đă có nhiệm vụ ở lại chống Việt minh. Vậy bà ra Bắc, là theo chỉ thị của chính ḿnh: “T́nh nhà, t́nh nước bời bời / Mẹ năn nỉ giữa, nước đ̣i thiết tha”. Và như lời Bùi Thư Linh: “Mẹ thương các con lắm nhưng mẹ vẫn có cái lư tưởng của mẹ, không bỏ được”.

 

 Ở thời điểm 1954, hầu hết mọi người Việt Nam đều nghĩ việc chia đôi đất nước sẽ chỉ trong một vài năm. V́ vậy, Thụy An đă nhờ mẹ trông nom các con để ra Bắc hoạt động. Bà không ngờ đến cái chết của Đỗ Đ́nh Đạo; cũng không ngờ Nam Bắc chia đôi 20 năm; và lại càng không ngờ chính ḿnh bị rơi vào 15 năm tù tội.

 

Về cái chết của Đỗ Đ́nh Đạo, Bùi Thụy Băng cho biết:

“Lúc đó, tôi từ Sài G̣n, ép bố tôi, c̣n đang là Giám Đốc Đài Phát Thanh Hải Pḥng, phải kư sự vụ lệnh cho tôi đáp máy bay ra Hải Pḥng rồi lấy xe lửa ra Hà Nội gặp mẹ tôi, v́ cái chết của nhà cách mệnh VNQĐD Đỗ Đ́nh Đạo. Nếu bà cụ tôi đầu độc ĐĐĐ, th́ chính quyền Pháp điều tra biết, họ cũng bắt ngay. Khi truyện xẩy ra, ông ĐĐĐ ở nhà bà cụ tôi [ở Hà Nội] mà bà cụ tôi cũng không biết. Nhà hai chị em mẹ tôi ở chung. Có thể bà d́ tôi đă cho ông Đỗ Đ́nh Đạo trú ngụ (để trốn tránh) mà mẹ tôi không biết. Khi ông Đỗ Đ́nh Đạo bị đầu độc th́ mẹ tôi đương ở Hoà Xá với một người bạn là bác Phụng, ở Ngơ Nhà Do (Impasse d' Identité)”. Mẹ tôi c̣n nói: “Bác chết nhưng mà xác bác chết c̣n thơm hơn người sống”. Mặc dù không bị bắt, nhưng Thụy An vẫn bị mang tiếng “đầu độc chồng”: “Đến anh tôi c̣n giận, không để h́nh mẹ tôi trong nhà”. (Điện thoại, 16/12/2004).

 

Chân dung nữ sĩ Thụy An đăng trên Atlanta Việt Báo

(Nguồn: atlantavietbao.com)

 

Tuổi trẻ thơ mộng

 

Trong bài tiểu sử Thụy An, Trinh Tiên viết:

“Hè 1932, cô Yến được cha mẹ cho học tư thêm. Thày giáo là một hàn sĩ người Quảng B́nh, dáng dấp mảnh khảnh đầy vẻ cương  nghị.(...) Ông thầy giáo trẻ ấy đă bị tṛ Yến cùng các bạn trêu chọc gọi là “Anh đồ Nghệ”. Hơn thế, Yến c̣n làm thơ nhạo báng dí dỏm:

 

Khéo ghét anh đồ xứ Nghệ

Hơn ḿnh mấy tí tuổi đầu?” (trích bài “Sao lại mùa thu” của Thụy An)

 

(...). Nhưng chàng trai xứ Quảng này không chỉ là một hàn sĩ hay một nhà mô phạm đơn thuần, mà c̣n là một người yêu nước thiết tha, một nhà cách mạng chân chính. Cho nên trong những bài giảng đă gieo ảnh hưởng không ít đến lớp học tṛ(...) Hơn thế nữa, chính người thầy giáo trẻ ấy lại là một chiến sĩ hoạt động trong bóng tối. Chúng ta hăy lắng nghe lời thơ giới thiệu của Thụy An về người anh hùng đó:

 

Hung hăn vọng vào tiếng bể

Hờn căm rít ngọn gió Lào

Anh mang trùng dương giận dữ

Anh mang hoang dại khô khan.

 

Và như:

 

Mắt anh hừng trí bốn phương

Tay run nắm hồn dân tộc

Tóc x̣a vương hận núi sông

Môi bậm  tai nghe rên xiết

Áo cơm dọa dưới cùm gông!

 

Thật sự, Thụy An đă hấp thụ tư tưởng cách mạng qua Thầy đồ Nghệ:

 

... Rồi anh bắt đầu dẫn dắt

Dạy em khui lửa bất b́nh

Oán hận réo sôi ḷng đất

Công lư tù đầy uất uất

 

Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh... (Trích: Sao lại mùa thu).

 

Thoảng chốc, lớp hè vài tháng trôi qua. Thày tṛ bịn rịn chia tay. Riêng thiếu nữ Thụy An c̣n nghe ḷng vương chút bâng khuâng, diệu vợi... Nhưng lại là chút bâng khuâng rất nhẹ nhàng lờ lững... nó đă thoảng qua ngay trong lứa tuổi 16 thơ ngây ấy...Và cũng bởi rằng: “làm thinh... anh vẫn thản nhiên...” C̣n chăng chút lưu luyến ở tâm hồn Thụy An là niềm cảm phục trang thanh nhiên chí khí, cô đă kết ư thơ thành chuỗi nguyện cầu:

 

Nguyện ḿnh hoá vải hoá bông

Thấm lau gịng máu anh hùng thơm tho

Máu anh đă rửa quốc thù

Máu anh viết trước bài ca khải hoàn (thơ Thụy An)”

(Trích tiểu sử Thụy An của Trinh Tiên, bđd)

 

Bùi Thụy Băng cho biết thêm:

“Người thày giáo đề cập ở đây là Tướng Vơ Nguyên Giáp. Khoảng 1930, ông ngoại của tôi đă mướn người thầy giáo sử địa Vơ Nguyên Giáp về nhà kèm má tôi học. Năm 1933, má tôi theo thầy vô Nam - Ông Vơ Nguyên Giáp muốn đưa bà cụ tôi sang Trung Hoa. Nhưng má tôi lại gặp ba tôi ở Sài g̣n và hai người lấy nhau, sanh ra anh cả tôi là Bùi An Dương, năm 1934. Lúc đó ba má tôi đă xuất bản tuần báo Đàn Bà Mới, nên má tôi trở về Hà Nội cho Anh tôi làm con nuôi ông bà Trần Trọng Kim, để vô Nam tiếp tục lo tờ tuần báo. Năm 1937, ba má tôi trở ra Hà Nội sanh ra tôi là Bùi Thụy Băng” (Điện thư 15/9/2004)

 

Theo tiểu sử chính thức, Vơ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911 (hơn Thụy An 5 tuổi). Năm 1931 ông ra Hà Nội học trường Albert Sarraut, sau đó học Luật. Ông kết hôn với bà Nguyễn Thị Quang Thái, năm 1934 (bà Thái chết trong hỏa ḷ Hà Nội năm 1943). Năm 1934, Thụy An cũng lấy chồng.

 

Như vậy, khoảng 1931-32, Vơ Nguyên Giáp có thể đă dạy kèm Lưu Thị Yến, tại  nhà. Và đến hè 1932, nếu những lời ghi của Trinh Tiên là đúng, th́ cô Yến và các bạn c̣n học thêm Vơ Nguyên Giáp trong một lớp hè. Bài thơ dài Sao lại mùa thu của Thụy An, được Trinh Tiên trích dẫn, nói rơ không khí lớp hè năm đó và sự “quyến luyến” mà tṛ Yến dành cho người thày, đă gieo rắc vào tâm hồn cô gái 16, lư tưởng “cứu nước”. Lưu Thị Yến, lúc đó 16-17 tuổi, cũng đă nổi tiếng v́ có thơ đăng trên Nam Phong và được “giải thưởng văn học của triều đ́nh”. Sự việc này hư thật ra sao, chưa có tài liệu chứng minh rơ ràng, nhưng trong bài phỏng vấn, Lê Đạt nói một câu khá nhiều ư nghiă: “Chị Thụy An c̣n nói kín hở cho tôi biết rằng chị ấy đă từng tham gia kháng chiến! Việc liên lạc với kháng chiến trong thời ấy th́ ḿnh mất mối là chuyện b́nh thường, mà mất mối th́ ḿnh không thể chứng minh được.”  Điều chắc chắn là qua những câu thơ trong bài Sao lại mùa thu, Thụy An đă nói lên ḷng ái quốc của chính ḿnh với những lời thơ bất khuất: Tay run nắm hồn dân tộc / Tóc x̣a vương hận núi sông / Môi bậm  tai nghe rên xiết / Áo cơm dọa dưới cùm gông!

 

Chí khí Thụy An

 

Bài Tôi về quên mất cả xuân sang, kư ngày 5 tháng 11 âm lịch 1951, viết tặng vợ chồng Trinh Tiên, là một bài trường ca, nói lên chí khí của Thụy An. Bài thơ dài kể chuyện một đêm xuân ở Sài G̣n, nhớ Hà Nội, nhà thơ bước vào vũ trường, gặp người vũ nữ ngày xưa là em gái bạn. Người vũ nữ kể lại bi kịch của gia đ́nh ḿnh: Mẹ nàng có ba người con, sống trong êm ấm. Bỗng đâu, phong ba xẩy đến:

 

“Năm đi cho tháng theo lần,

Mà trong êm đă ngấm ngầm phong ba.

Gió cuốn lật úp sơn hà,

Màn che trướng rủ bỗng ra dăi dàu,

Gió đưa khăn gói về đâu?

Con đường vô định trước sau c̣n dài

- T́nh nhà, t́nh nước bời bời

Mẹ năn nỉ giữa, nước đ̣i thiết tha.

Đă đành nghiă nặng mẹ cha

Nỡ vô t́nh lúc nước nhà ngửa nghiêng?

Chịu sinh làm gái vô quyên,

Nỡ mang cái tiếng yếu mềm, bó tay?

Ầm tiếng súng Sơn Tây vẳng lại,

Sôi má hồng, quăng thói nữ nhi,

Chị em phận sự hai chia

Em nuôi mẹ, chị ra đi chiến trường.

Lần thứ nhất mở đường ly tán,

Cũng từ đây, hoạn nạn gieo neo:

Nh́n nhau lặn suối, trèo đèo

Mẹ già em nhỏ đến điều gian truân.

Rồi người chị cả hy sinh trên chiến địa:

Tin đâu sét đánh th́nh ĺnh

Chị yêu thôi đă bỏ ḿnh phương xa,

Nơi chiến địa xác hoa phơi giăi,

Bài điếu văn cú gọi hồn ma

Một đi lià cửa lià nhà

Một đi thế cũng kể là trăm năm.

Người mẹ và hai con c̣n lại, cuốn trong gió lốc:

Thân vong gia giật dờ cánh gió...

Đoạn thảm thương lần giở thêm trang:

Một đêm đang lúc mơ màng,

Thức ra giặc đă khắp làng bao vây.

Mẹ con chúi bụi cây ẩn nấp

Đạn nổ tung, trời sập đất nhào...

Tỉnh ra tủi nhục làm sao!

Tấm thân thôi đă lọt vào tanh hôi!

Bên ḿnh, mẹ vẫn ngồi mà chết

Đầu văng xa, máu thịt bét be

Xác em nguyên vẹn nằm kề

Tay níu mẹ, sợ đường về lạc chăng?

Chưa kịp khóc th́ quân lang sói

Đă lôi em về măi đồn xa...

Nhục thay là phận đàn bà

Trong cơn binh lửa mà sa tay thù!!

Thôi gập sách! Để cho kết liễu

Đoạn về sau thừa hiểu là đây”

Dứt lời, chỉ khẽ nhíu mày,

Lạnh khô đôi mắt. Bóng ngày vừa tan...

 

Bài ca hùng tráng, bi thương, ít có trong thời kháng chiến, nói lên tất cả những khía cạnh con người của Thụy An. Giọng thơ mạnh mẽ, quyết liệt: “Gió cuốn lật úp sơn hà”. Hai chữ lật úp thật là vũ băo. Rồi sự phân chia t́nh nước, t́nh nhà trong suốt cuộc đời bà: vừa nuôi 6 con, vừa có chí lớn: “T́nh nhà, t́nh nước bời bời / Mẹ năn nỉ giữa, nước đ̣i thiết tha”. Sự lựa chọn của người phụ nữ trước t́nh thế đất nước: “Nỡ vô t́nh lúc nước nhà ngửa nghiêng? Nỡ mang cái tiếng yếu mềm, bó tay? Sự căm phẫn của người nữ anh hùng: Sôi má hồng, quăng thói nữ nhi. Cái chết khốc liệt và của người nữ chiến sĩ: Nơi chiến địa xác hoa phơi giăi / Bài điếu văn cú gọi hồn ma. Quang cảnh kinh hoàng chết chóc của người dân mất nước: Bên ḿnh, mẹ vẫn ngồi mà chết / Đầu văng xa, máu thịt bét be / Xác em nguyên vẹn nằm kề / Tay níu mẹ, sợ đường về lạc chăng?

 

Thơ Thụy An nói lên chí khí của bà, nói lên sự quyết liệt khi cần phải quyết liệt, nói lên cái hận mất nước, sự không chịu bó tay của người phụ nữ. Sáng tác của bà từ truyện cổ tích đến truyện ngắn, tiểu luận, và nhất là thơ, đă quét sạch những ḍng nhơ bẩn viết về bà, giải thích tại sao Thụy An không chịu lùi bước trước cường quyền và bạo lực.

 

Thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm

 

Những nhà văn, nhà trí thức được mời vào nhóm NVGP, là những người đi theo kháng chiến từ đầu, kể cả những người không cộng sản như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường. Thụy An v́ ở trong thành, nên không được mời vào NVGP, như Lê Đạt đă xác nhận.

 

Nhưng trong thời kỳ NVGP, bà thường xuyên ra vào các hội văn nghệ, và có ảnh hưởng không nhỏ đối với những văn nghệ sĩ trẻ tham gia NVGP. Bà liên lạc, nâng đỡ tinh thần, tích cực giúp đỡ anh em Nhân Văn, đặc biệt gia đ́nh Lê Đạt.

 

Lê Đạt viết trong lời “tự thú”:

“Âm mưu của Đang sau này là biến thành nhà xuất bản Minh Đức thành nhà in đối lập với Hội Nhà văn và tập họp nhóm Nhân văn quanh nhà Minh Đức. Cũng giai đoạn này nổi bật vai tṛ Thụy An. Nhà Thụy An, Phan Tại như một câu lạc bộ.

 

Về Hà nội tôi rất ghê tởm Thụy An. Nhưng sau khi bài thơ “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” Thụy An t́m gặp tôi rất niềm nở và mời đến nhà bảo có nhiều sách mới.

 

Một thời gian dài tôi không đến. Nhưng từ sau khi “Cửa hàng Lê Đạt”, tôi bị khai trừ khỏi Đảng, tôi bắt đầu lui tới đó.(...)

 

Thụy An đưa vợ tôi đi may áo, đi mua vải, may áo cho con tôi và đi lấy cả một chiếc giường cũi cho con tôi. Thụy An nghiễm nhiên trở thành thân thuộc với cả gia đ́nh tôi. Mỗi lần tôi gặp Thụy An sau khi nói chuyện về tư sản, tiểu thương bất măn, chuẩn bị đi Nam, các tin BBC về hiệp thương, lại kể chuyện Tassigny, chuyện các phóng viên chiến tranh, các tiểu thuyết tư sản, và sau hết đả kích vào sự lănh đạo của Đảng cho là hạn chế sự phát triển của tài năng. Mỗi lần ở nhà Thụy An ra là mỗi lần tôi thấy ḿnh tài giỏi thêm, oán Đảng thêm và chán nản thêm”. (Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958, Số đặc biệt thứ hai chống Nhân Văn Giai Phẩm)

 

 Thụy An dạy Phùng Quán học tiếng Pháp và tiếng Anh. Ảnh hưởng của Thụy An đối với các nhà văn trẻ rất lớn, nhờ kiến thức và tài thuyết phục, bà mở cửa cho họ vào với tác phẩm văn học Tây phương, vào kịch trường và điện ảnh. Thời kỳ ấy, Thụy An ở chung nhà với Phan Tại. Theo Nguyễn Hữu Đang, bà thuê những phim như Hamlet về chiếu. Bà cùng Phan Tại, dựng kịch Topaze của Marcel Pagnol...

 

 Phùng Quán viết trong lời “tự thú”:

“C̣n học Pháp và Anh văn th́ tôi học với con mụ Thụy An, và do đó tôi bắt đầu thân với mụ từ đấy. Khi được tin tôi đă ra bộ đội th́ hắn tỏ vẻ rất săn sóc đến việc học của tôi. Tháng đầu tôi c̣n bận viết th́ mỗi lần gặp tôi hắn đều thúc dục sao không đi học đi, tôi sẽ dậy cho Quán một tuần bốn tiếng đồng hồ. Tháng thứ hai tôi đến học với hắn, cùng với một người bạn của tôi là sinh viên. Trước khi đến học, tôi có biết Thụy An trước đây đă giết chồng, làm phóng viên chiến tranh cho Pháp, đă đi máy bay lên Điện biên phủ. Nhưng đến lúc này th́ bản chất cách mạng của tôi đă không c̣n ǵ nữa, nên tôi thấy những việc làm của mụ ta là việc thường. Đến học với hắn, tôi tỏ ư phục, và mỗi ngày một cảm t́nh hơn. Tôi gọi hắn là chị với tất cả nghĩa của nó.” (Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958)  

 

Những lời Lê Đạt tuyên bố trên RFI 2004, tỏ rơ sự kính trọng và ḷng tri ân của Lê Đạt đối với Thụy An:

“Chị Thụy An chưa bao giờ ở trong Nhân Văn Giai Phẩm cả, đó là dứt khoát. Nhưng chị Thụy An rất thân với anh em trong Nhân Văn Giai Phẩm và đặc biệt là thân với tôi”.

 

“Tôi có thể bảo đảm 100% chị ấy không phải là gián điệp. Tại v́ thế này: Nếu là gián điệp th́ phải có chứng cớ chứ! Chị nhận tiền của ai? Nhận tiền ở đâu? Liên lạc với ai? Cho đến bây giờ tôi vẫn thấy đó là một câu hỏi mà nhà nước chưa trả lời tôi được”.

 

“Tôi vẫn khao khát và thiết tha có một dịp nào đó, người ta phục hồi chị Thụy An một cách chính thức. Không có th́ riêng tôi, đối với chị Thụy An, tôi vẫn cho là món nợ. (...) Riêng tôi  không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với tôi cả.”

 

Bị bắt, Thụy An tự chọc mù một mắt.

 

Thụy An bị bắt ở đâu? Bùi Thụy Băng, cho biết:

“Tôi nghe nói bà cụ tôi bị bắt ở Hoà Xá. Nhưng theo lời ông cụ tôi th́ bị bắt ở Phủ Lư. Tại sao lại như vậy? Bởi v́ khi thấy lâm nguy, biết ḿnh bị theo dơi, Thụy An thường di chuyển giữa Hà Nam-Phủ Lư (quê chồng) và Hoà Xá-Vân Đ́nh (quê ḿnh) để trốn tránh”. (Điện thoại, 16/12/2004).

 

 Về việc bà chọc mù mắt, dư luận chính thức loan rằng bà bị tai nạn ở mắt, khi đi lao động cải tạo.

 

Chúng tôi hỏi nhà thơ Lê Đạt, người rất thân với bà trong suốt hành tŕnh Nhân Văn Giai Phẩm: có phải trong Hỏa Ḷ chị Thụy An tự chọc mù mắt? Lê Đạt lặng lẽ gật đầu, không thêm một lời nào cả.

 

Bùi Thụy Băng cho biết: “Trong số những bài viết về bà cụ tôi, có bài của Trần Minh, ở Bên Úc, tựa đề “Nhân văn giai phẩm, một tư trào, một tội ác” đăng trong Giai phẩm (Việt Báo) xuân Tân Tỵ 2001, là chính xác nhất. Với những chi tiết mà chính tôi trước đây cũng không biết: Vào Hoả Ḷ chưa được 3 tháng th́ bà cụ tôi chọc mắt. Lư do là bởi phải ra hỏi cung, đứng trước lá cờ đỏ sao vàng, người ta bắt bà cụ tôi phải cúi xuống, nhưng bà cụ không cúi. Vào nhà giam, không có bút viết, bà cụ tôi lấy cái đinh guốc, viết lên tường lời phản kháng:” Chọc mù mắt để không phải nh́n thấy cái chế độ này nữa”. Sau này có một người cũng bị giam tại căn pḥng đó, đọc được và ghi lại, một vài nhà văn có chép lại câu này trên sách báo”. (Điện thoại, 16/12/2004).

 

Thụy An bị giam tại Hoả Ḷ Hà nội từ tháng 3/1957. Đến 19/1/1960, bà bị đưa ra ṭa cùng với Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại và Lê Nguyên Chí.

 

Phiên ṭa tại Hà Nội (19/01/1960) xét xử vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Từ trái sang phải: Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Thuỵ An, Phan Tại và Lê Nguyên Chí. (Ảnh tư liệu: DR)

 

Tại Toà Án Nhân Dân Hà Nội, bà bị chính thức gọi là “Con gián điệp nguy hiểm”, “Cùng với Nguyễn Hữu Đang, Thụy An trở thành bộ phận đầu năo của bọn gián điệp phản cách mạng”

 

“Ngày 19-1-1960, Ṭa án Nhân dân thành phố Hà Nội đă xử bọn gián điệp phản cách mạng phá hoại hiện hành: Nguyễn Hữu Đang và Thụy An: 15 năm phạt giam và 5 năm mất quyền công dân sau khi ra; Minh Đức: 10 năm phạt giam và 5 năm mất quyền công dân sau khi ra; Phan Tại: 6 năm phạt giam và 3 năm mất quyền công dân sau khi ra; Lê Nguyên Chí: 5 năm phạt giam và 3 năm mất quyền công dân sau khi ra.”. (Quân đội nhân dân, Hà Nội, 21/01/1960, tài liệu do Lại Nguyên Ân sưu tầm, đăng trên Talawas)

 

Theo Nguyễn Hữu Đang, sau Hoả Ḷ  chuyển lên Yên Bái.

 

Thụy An viết: “Vào thời điểm mẹ thụ án từ 1958 đến 1973, suốt 15 năm (chỉ trừ hai năm giam cứu ở Hoả Ḷ, Hà Nội, mẹ bị thẩm cung gắt gao, một cuộc đấu trí - không có trọng tài- giữa pháp luật do các ông chấp pháp đại diện và mẹ, người bị can)” (Thụy An viết cho các con, Atlanta Việt Báo, 15/12/2004).

 

Những năm tháng cuối

 

Tháng 10/1974 Thụy An được thả theo diện “Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris”, cùng với Nguyễn Hữu Đang. Bà bị trả về quản thúc ở Hoà Xá. Trên đường giải về  làng, khi bị đẩy xuống xe tù, bà bị ném đá.

 

Năm 1976, nhờ em trai là Lưu Duy Trác xin cho vào Nam đoàn tụ với gia đ́nh, bà được vào sống với mẹ tại Gia định. Các con bà đă rời nước từ trước, chỉ có Bùi Thụy Băng ở lại đến 28/4/75. Năm 1987, Thụy An theo người bạn gái Trinh Tiên đến chùa Quảng Hương Già Lam xin thọ lễ quy y. Được hoà thượng Thích Trí Thủ ban cho pháp danh Nguyên Quy.

 

Bùi Thụy Băng t́m mọi cách vận động cho mẹ sang Mỹ đoàn tụ gia đ́nh, qua văn pḥng ông Trần Sĩ Lương, đại diện Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, và các toà Đại Sứ Việt Nam, đều không có hiệu quả. Thư ông Lương phúc đáp có câu: “Trường hợp mẹ của ông chưa được giải quyết. Tôi mong ông cứ yên tâm chờ đợi”.

 

Đầu năm 1987, Thụy An đă yếu lắm, Bùi Thụy Băng chụp lá thư ông Trần Sĩ Lương gửi về cho mẹ. Bà trả lời con: Mẹ không muốn con liên lạc với các Toà Đại Sứ như thế, và bà thêm: “Con đừng chửi mẹ!”. Kèm theo là bức thư dài, bà trả lời ông Trần Sĩ Lương, mở đầu bằng những hàng:

 ”Tôi rất xúc động được đọc thư ông viết cho Bùi Thụy Băng, con trai tôi, về việc T.A  mẹ hắn, muốn nhờ cậy ông.

 

Ông đă trả lời không một hứa hẹn dứt khoát (tôi hiểu rơ tất phải như thế, càng tất phải như thế, khi là chuyện văn chương), nhưng dầu sao cũng đă là một lời đáp lại tiếng kêu gọi,  kêu oan... của tôi... muốn thêm h́nh dung từ nào cũng đều có nghiă cả.

 

Cám ơm, cám ơn. Tôi đón nhận với tâm trạng một tù nhân bị kẹp lâu ngày, một ḿnh giữa bốn bức tường hẹp, thèm được nghe tiếng người. Chợt có tiếng lịch kịch ở pḥng bên cạnh (có lẽ chỉ là một con chuột chạy).”

 

 Và bà kết luận lá thư như sau:

“Ở Tô Thị, tâm trạng của người mẹ cơng con trên lưng đi giữa rừng khuya, hăi hùng đến nỗi ngất sỉu, nhưng sực nhớ chồng trên đỉnh núi:

 

Nhớ con thơ đang gối trên lưng

Biển xanh đang ngóng đang trông

Giơ tay vung ngọn đuốc hồng cháy to.

 

Tôi cũng vậy, tôi c̣n cha mẹ già, đàn con nhỏ trên vai, tôi không được chết, phải cố  mà sống, đợi cái ngày Tô Thị:

 

Mặc gió rụng tóc xanh từng sợi

Tung ra xa bay với mây trời

Mặc cho nắng dăi mưa phơi

Mặc cho muối đă mặn ṃi ḷng sương

Mặc bao cuộc hưng tàn phế đổi

Vẫn đăm đăm một đợi, một chờ

Mẹ con hoá đá trơ trơ

Mẹ là tin tưởng, con là tương lai.

 

Đó là tâm trạng Tô Thị hoá đá, mà cũng là tâm trạng của tôi suốt 15 năm cho đến măi măi. Ông cứ đọc tất cả 16 bản của tôi, đều gặp những câu như thế, nó gần như một tập Nhật Kư Trong Tù... “

 

Bà mất ngày 10/6/1989, tại nhà riêng ở đường Lê Văn Sỹ, Sài g̣n.

 

 

(Hết phần thứ VIII)

 

Thụy Khuê

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính