Nửa Thế Kỷ Việt Nam

 

 

 

 

CHƯƠNG XVII

Cuộc Trốn Chạy Vĩ Đại Bi Thảm

Trong Lịch Sử Dân Tộc

 

 

           

Hai máy bay C-130 Hercules từ căn cứ không quân Clark tại Philippines đang bay phía trên sân bay Tân Sơn Nhất. Họ được lệnh không hạ cánh. Trinh thám báo tin về sân bay: 2 trung đội bộ binh Quân đội Nhân dân Việt Nam đă được tăng viện cho công binh.

 

 

Một phi công Việt Nam Cộng Ḥa đă hạ cánh máy bay chiến đấu F-5 trên phi đạo và bỏ lại phi cơ trong khi máy vẫn chạy. Một chiếc xe jeep toàn lính Việt Nam Cộng Ḥa cố chạy tới một chiếc máy bay trước khi nó cất cánh.


“Có khoảng 3.000 thường dân rất lo lắng đang ở phi đạo”, tướng Homar Smith báo cáo. “T́nh h́nh có vẻ như đă vượt ra khỏi tầm kiểm soát”.


Graham Martin ngồi một ḿnh trong pḥng làm việc, nh́n thấy cây đổ và nghe thấy tiếng trưởng văn pḥng CIA thét ở ngoài sân. Khi Kissinger gọi điện thoại ngay sau đó để thông báo ư của Tổng thống Ford là đại sứ Mỹ sẽ ra quyết định cuối cùng về chuyện di tản, ông lắng nghe giọng mệt mỏi, kiệt sức và ốm yếu của Graham Martin một cách kiên nhẫn.


10h43': Lệnh tiến hành “Option Four” (di tản bằng đường biển và đường hàng không) được đưa ra. Tuy nhiên, Martin vẫn tin chắc rằng vẫn “c̣n thời gian” để đàm phán và có một “giải pháp danh dự” [John Pilger ]


*  *  *


Đó là một ngày dài nhất trong đời tôi. Từ 8 giờ sáng, tôi bắt đầu ngồi đợi giờ thứ 25. Tôi bước ra hành lang lầu 3 của cơ quan đứng nh́n sang, xem hoạt cảnh những chiếc trực thăng của Hải quân Mỹ thay nhau lên xuống trên nóc ṭa nhà sứ quán Hoa Kỳ, trên đại lộ Thống Nhất.


Năm giờ chiều hôm đó, ngày 29 tháng Tư, tôi rời khỏi nhiệm sở sau khi thẩm quyền cao nhất của cơ quan cho biết một cuộc di tản như kế hoạch được thỏa thuận và sắp xếp trước với phía Mỹ đă hoàn toàn hết hy vọng. Tôi lái xe ngang qua Ṭa Đại sứ Hoa Kỳ để tận mắt nh́n thấy những chiếc trực thăng kia chở đi bao nhiêu định mệnh ưu tiên may mắn, và bỏ lại bao nhiêu số phần tuyệt vọng. Một con số không thể nào đếm được. Giờ phút đó, nơi đó có hàng trăm người nhưng c̣n các nơi khác, con số ấy là hàng trăm ngàn, hàng triệu...


Một khoảng đường phía trước sứ quán Mỹ số người tụ tập khá đông, t́nh h́nh không c̣n kiểm soát được nữa. Mọi người hốt hoảng t́m đủ cách để có thể thoát thân. Một người Mỹ lái chiếc xe hơi bóng loáng tấp vào lề, vừa mở cửa bước xuống, một đám thanh thiếu niên bụi đời xúm vào làm thịt chiếc xe. Người Mỹ tay cầm cái samsonite vừa leo lên khỏi bức tường rào, một người lính TQLC từ phía trong khuôn viên sứ quán ôm súng xốc tới nhảy lên đạp người Mỹ kia rơi xuống.

Tất cả hy vọng, niềm tin và lư tưởng người Mỹ đưa tới nơi đó, từ giờ phút đó cũng rơi theo! Tôi lái xe chạy thẳng về nhà, hệ thần kinh không phải căng ra mà chùng lại. Đoạn tường thuật của phóng viên John Pilger có lẽ là sự kiện của những ngày giờ trước khi chiếc trực thăng đầu tiên đáp xuống và rời khỏi nóc nhà, bay ra hạm đội ngoài khơi.

 

 

Di tản trên nóc một cao ốc trụ sở CIA trên đường Gia Long, Sài G̣n ngày 29/4/1975 - Ảnh của kư giả nhiếp ảnh Ḥa Lan Van Es.

 

Người dân miền Nam sau những ngày hỗn loạn; và người dân Sài G̣n sau mọi cố gắng đi t́m con đường di tản, vượt thoát bất thành, tất cả bàng hoàng trước cơn ác mộng đổ ập xuống mỗi con người, mỗi gia đ́nh khi chứng kiến cả một chế độ, cả một giềng mối quốc gia sụp đổ. Người dân ngơ ngác hoang mang trước một cuộc đổi đời khốc liệt. Nỗi ám ảnh, sợ hăi từ một quá khứ c̣n tươi máu chưa rời: những tàn bạo trong thời chiến, những vụ bắt cóc, ám sát, phá đường, giựt sập cầu, giựt ḿn xe đ̣, pháo kích, bắn tỉa...


Nỗi ám ảnh đó đă thẩm nhập vào tim óc mọi người, từ thôn quê đến thành thị, mà không cần phải học tập, tuyên truyền. Người dân miền Nam đă từng chứng kiến, từng trải qua, từng chịu đựng, từng là nạn nhân, kẻ mất con, người mất cha, mất chồng, mất vợ.... Người ta tưởng rằng hàng chục triệu người dân miền Nam chỉ hoảng loạn trong những ngày Sài G̣n thoi thóp rồi thất thủ. Khi “cách mạng” về thành th́ biến động coi như đă lắng đọng, đời sống sẽ trở lại b́nh thường. Nhưng không! Kể từ ngày đó, cơn ác mộng mới thực sự đổ ập xuống, âm ỉ nhưng kinh hoàng hơn trên từng gia đ́nh, từng thân phận mỗi con người, từ em bé cho đến người già yếu gần đất xa trời.


Sau khi mọi chuyện đă đâu vào đó, người ta không c̣n hoảng hốt, tứ tán t́m đường trốn chạy. Ai đă về nhà nấy. Lặng lẽ, âm thầm chuẩn bị cho một cuộc vượt thoát liều mạng kéo dài liên tục trong gần 20 năm. Một bộ phận hàng triệu con người đă phải tách rời khỏi cộng đồng dân tộc. Đó là cuộc trốn chạy bi thảm nhất trong lịch sử năm ngh́n năm của dân tộc Việt. Từ đó một “Diaspora Vietnam” rải rác khắp nơi trong cộng đồng nhân loại.


 

VIET DIASPORA


Đi theo dấu vết thời gian, lần giở tập tài liệu, cho tới hôm nay, chúng ta đă có được một bản “thống kê đại cương” như sau:


Năm 1873, dưới triều vua Tự Đức, Bùi Viện được cử đến Hoa Kỳ (dưới thời Tổng thống Ulysse Simpson Grant (1822-1885) với sứ mạng mưu cầu việc cứu nước (Đất Việt Trời Nam, Thái Văn Kiểm. NXB Nguồn Sống Sàigon 1960 tr.434). Kể từ ngày Bùi Viện – người Việt đầu tiên đến Mỹ đầu thế kỷ 19, đến giữa cuối thế kỷ 20 - trước năm 1975 chỉ có khoảng 3.000 người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ, gồm nhân viên Ngoại giao VNCH, và sinh viên du học sống rải rác tại vùng Hoa Thịnh Đốn và các đại học thuộc các tiểu bang Maryland, Virginia, New York, Massachussets, Wisconsin, Michigan, Minnesota, Illinois...


Sau biến cố 30 tháng Tư 1975, tiếp theo các đợt di tản là những cuộc vượt thoát, người Việt ào ạt đổ vào Hoa Kỳ, mở đầu cuộc trốn chạy bi thảm, vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc dưới tên gọi di tản (evacuation), thuyền nhân (Boat people), ODP và HO... để trở thành những refugees – người tỵ nạn – trôi nổi khắp mọi miền trên trái đất.


Theo thống kê của Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp quốc [The State of world’s Refugees 2000: 50 years of Humanitarian Action – chapter 4: Flight From Indochina] (*) th́ từ năm 1975 đến năm 1995 số người Việt vượt biên tỵ nạn gồm:

 

Từ năm

1975 -79

1980 - 84

1985 - 89

1990 - 95

Thuyền nhân

311.426

241.995

186.498

56.391

Đường bộ

4.666

11.117

10.467

6.668

Tổng cộng

326.092

253.112

196.965

63.059


Cũng theo thống kê của Liên Hiệp Quốc và Cơ quan American Census Bureau, nhân số trong đợt đầu di tản là 135,000, trong đó 40% thuộc Thiên chúa giáo, 48% có bằng cấp và 7% biết nói ít nhiều tiếng Anh.


Kết quả cuộc điều tra của Nhật báo Los Angeles Times năm 1990 cho biết, sau khi Cộng sản mở các đợt tịch thu và quốc hữu hóa tài sản ở miền Nam vào những năm từ 1978 đến 1984, và khi cuộc chiến tranh biên giới Việt Hoa bùng nổ vào tháng 2 và tháng 3 năm 1979, có 276,000 người Việt gốc Hoa thoát ra khỏi Việt Nam.


Và từ tháng 7-1978 đến cuối tháng 12-1980 nhiều đợt thuyền nhân vượt biển qua các nước Asean.


Tài liệu của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra con số thống kê, có 650,000 người đến được bến bờ, nhưng nhiều chục ngàn người (khoảng 30% của tổng số thuyền nhân đă thiệt mạng). Theo thống kê này th́ từ năm 1975 đến 1995 có khoảng 1 triệu người Việt liều chết bỏ nước ra đi.


Trước thảm trạng khủng khiếp đó, tháng 7 năm 1979 Liên Hiệp Quốc đă triệu tập môt cuộc họp tại Geneve, Thụy Sĩ, gồm 46 quốc gia tham dự nhằm t́m biện pháp để giải quyết t́nh trạng. Ngày 20 tháng 7-1979 các quốc gia đă kư kết một thỏa thuận chung buộc Hà Nội phải hợp tác để giải quyết vấn đề.


Cũng xin nhắc lại, sau 25 năm, lịch sử lại một lần tái diễn tại cùng một địa điểm, cùng dấu mốc thời gian để giải quyết về một thực trạng bi thảm của Việt Nam. Ngày 20-7-1954 Hiệp định Geneve kư kết giữa Pháp và Việt Minh chia đôi đất nước, khoảng hai triệu người dân miền Bắc trốn chạy cộng sản di cư vào Nam. Ngày 20-7-1979 Hiệp định Geneve kư kết giữa LHQ, cùng 46 quốc gia với CS Việt Nam để đưa hơn một triệu người Việt ra khỏi nước, bằng con đường ra đi chính thức, đến định cư tỵ nạn tại các quốc gia không cộng sản.


Qua thỏa hiệp Geneve, quốc tế đă áp lực chính quyền Hà Nội phải chấm dứt những vụ vượt biên, ra đi “bán chính thức” bằng đường biển và chấp nhận một chương tŕnh ra đi có trật tự – Orderly Departure Program (ODP), cùng với kế hoạch cho ra đi v́ nhân đạo – Humanitarian Operation. Từ thỏa hiệp này, chương tŕnh ODP và H.O lần lượt h́nh thành và đi vào hoạt động. Đến cuối năm 1992 đă có 380,000 người Việt rời quê hương ra đi bằng đường hàng không. Phần lớn là tù chính trị được thả ra từ các trại tập trung cải tạo. 60% trong số này định cư tại Hoa Kỳ, 40% đến các nước khác như Úc, Canada, Pháp, Đức.....


Cũng theo nhật báo Los Angeles Times, chỉ trong một thập niên (1981 đến 1990), số người Việt bỏ quê hương chạy trốn Cộng sản từ con số 272,561 người năm 1981 vượt lên đến 845,725 người, trong số đó, 800,000 người định cư ở Hoa Kỳ.


Từ năm 1975 đến 1990 có 128,000 trẻ Việt sinh ra tại Mỹ, cộng với 38,885 con lai Amerasian nhập cư từ 1988 đến 1990.


Theo ước lượng của Giáo sư Xă Hội học Ruben G. Rumbaut thuộc đại học San Diego, tính đến năm 1991, số người Việt tại Hoa Kỳ là 1,034,159 người. Tính đến năm 1997, con số “Việt Diaspora” trên thế giới có khoảng 2,300,000 người. (** tr 435)


 

Cuộc Di Cư ồ ạt “Chính Thức”

Báo trong nước: Phỏng vấn 100 ngàn người.

71.279 người ra đi trong năm 1991


Ngày 24 và 25 tháng 1 -1991, tại Hà Nội, một cuộc họp giữa các chuyên viên Việt Nam và Hoa kỳ để thảo luận các biện pháp thúc đẩy việc xuất cảnh đi Mỹ cho ba chương tŕnh ODP, HO và trẻ lai, có sự tham dự của đại diện HCR tại Hà Nội và IOM tại tp/HCM. 100.000 người đă được phái đoàn Hoa Kỳ phỏng vấn, tổng số được đi là 71.279 người, trong đó đi Mỹ 54.153 người (23.065 ODP, 13.128 HO, 17.960 con lai); Đi Úc 8.279 người, đi Canada 4.315 người, đi Pháp 1.280 người và các nước khác 3.292 người, tăng gấp hai lần số người ra đi trong năm 1990.


Về chương tŕnh HO, để giải quyết vấn đề nhân đạo, theo đề nghị của ta, phía Mỹ đồng ư xét cho nhập cảnh thân nhân của những người đă chết sau khi phỏng vấn. Đối với con cái của họ đă có vợ/chồng phía Mỹ đồng ư cho phỏng vấn với điều kiện phải có anh chị em (ruột bên vợ hay chồng) bảo lănh.


“Đáp ứng yêu cầu của phía Việt Nam, phía Mỹ đồng ư linh hoạt phỏng vấn những người học tập dưới ba năm (theo quy định của phía Mỹ phải ba năm trở lên), với điều kiện người đó phải đi học cải tạo tập trung trên một năm và có du học Mỹ, hoặc làm việc cho Mỹ ít nhất trên một năm”.


Vũ Hắc Bồng, Giám Đốc Sở Ngoại Vụ trả lời phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ:

(trích lược)

 

- Xin đồng chí cho biết cuộc họp mới đây tại Bangkok đă thảo luận những vấn đề ǵ liên quan đến chương tŕnh HO và ODP?

 

- (VHB) Trong hai ngày 16 và 17 tháng 3 (1992) vừa qua, phía VN và Mỹ đă họp tại Bangkok để kiểm điểm việc thực hiện các chương tŕnh xuất cảnh đi Mỹ. Hai bên đă dành nhiều thời gian thảo luận một số diễn biến phức tạp của chương tŕnh trẻ lai và t́m kiếm các biện pháp tháo gỡ những khó khăn để thúc đẩy cả ba chương tŕnh: đoàn tụ gia đ́nh, trẻ lai và HO trong thời gian tới.

 

- Về chương tŕnh HO hai bên có thỏa thuận thêm điều ǵ mới?

 

(VHB): Chương tŕnh xuất cảnh cho những người được thả từ các trung tâm cải tạo hiện nay không c̣n vướng mắc ǵ lớn. Từ nay đến hết tháng 9-92, phía Mỹ sẽ tiếp tục phỏng vấn ở mức 2.500 người/tháng (trung b́nh danh sách phía VN trao được phỏng vấn trong hai tháng)


Họp chuyên viên Việt - Mỹ tại Bangkok ngày 19 và 20-11-1992 (SGGP ngày 1-12-1992)


Trong hai ngày 19 và 20-11-92, tại Bangkok đă diễn ra các cuộc họp giữa chuyên viên Việt Nam và Mỹ về ba chương tŕnh xuất cảnh đi Mỹ. Phía VN có các đại diện Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Sở Ngoại vụ tp/HCM. Phía Mỹ có Tham tán phụ trách nhập cư Sứ quán Mỹ ở Bangkok, Giám đốc ODP, đặc biệt có hai Trợ Lư Ngoại trưởng Mỹ phụ trách tỵ nạn và nhập cư cũng đến dự để thông báo cho phía VN về phương hướng phát triển các chương tŕnh nói trên trong thời gian tới.


Phía Mỹ cảm ơn phía VN đă hợp tác tích cực với phía Mỹ thúc đẩy ba chương tŕnh xuất cảnh đi Mỹ, đưa tổng số đi Mỹ đến nay được 300 ngàn người (trẻ lai 80 ngàn, HO 56 ngàn, ODP 160 ngàn). Riêng năm 1992 số lượng người ra đi hợp pháp cao nhất là 80 ngàn người... số người vượt biên trái phép đă giảm đi rơ rệt, có tháng không có người nào vượt biên.


“Phía Mỹ cảm ơn sự hợp tác của ta, đặc biệt giải quyết các danh sách RD (kư hiệu danh sách ưu tiên của Mỹ xin) do phía Mỹ trao. Ta trao tiếp cho phía Mỹ các danh sách HO21 đến HO28 và sẽ trao tiếp toàn bộ danh sách HO c̣n lại trong ṿng ba tháng tới. Ta khẳng định về nguyên tắc vẫn giải quyết danh sách RD, nhưng yêu cầu phía Mỹ tăng phỏng vấn diện HO. Phía Mỹ đồng ư ưu tiên cho chương tŕnh HO và tăng số lượng ra đi trong thời gian tới.


“Phía Mỹ cho biết gần đây chương tŕnh HO đă xuất hiện gán ghép gian lận, phần lớn là diện những người đi theo. Về phía ta một mặt đồng ư sẽ phối hợp với họ ngăn chặn việc này, nhưng mặt khác cũng yêu cầu phía Mỹ cần xem xét lại một cách thỏa đáng việc từ chối con của diện HO mà không ở cùng hộ khẩu do hoàn cảnh sinh sống nên nơi ở bị đảo lộn...”


Ngày 26-11-1992

Sở Ngoại Vụ tp/HCM



Báo Chí Truyền Thông Hải Ngoại

CHÍNH SÁCH THÂU NHẬN TỊ NẠN CỦA HOA KỲ VÀ VẤN ĐỀ ĐỊNH CƯ TỊ NẠN VIỆT NAM [Tin IRCC -Việt Nam Thời Báo số 1002 ngày 19-5-1993]

Trong phiên họp tham khảo thường niên tại Bộ Ngoại Giao ngày 8-4-1993, các cơ quan thiện nguyện Hoa Kỳ đă đề nghị con số tị nạn trên thế giới cần được Hoa Kỳ thâu nhận trong tài khóa 1994 là 155,000 người. Trên tổng số này, con số đề nghị riêng cho khu vực Á châu là 53,000 và được chia ra như sau:


- 10,000 lấy từ các trại tạm trú, gồm 6.000 người Hmong, 3.000 Việt Nam và 1.000 dành cho tị nạn Miến Điện và Tây Tạng.


- 43,000 dành cho chương tŕnh ODP, gồm khoảng 38,000 cựu tù cải tạo, 2,000 đoàn tụ thông thường và 2,700 con lai.


Tổng số tị nạn Việt Nam đề nghị cho năm tới là 46,000 không gồm những người đi theo diện di dân. Hoa Kỳ đặc biệt không giới hạn số di dân hợp lệ từ Việt Nam trong khuôn khổ quota dành cho mỗi quốc gia là 20,000 người một năm, cho tới khi thiết lập bang giao giữa hai nước.



Thay Đổi Quan Trọng về diện HO, ODP và Fiancée

(Tường thuật của Nam Trân, CBA từ Đà Lạt):


Hội nghị thường niên giữa Hoa Kỳ, Việt Nam và Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc bàn về ODP, HO và trẻ lai tại Dinh 2 đường Trần Hưng Đạo (Đà Lạt) trong hai ngày, và tuyên bố bế mạc lúc 5 giờ chiều ngày 10-6-1993. Buổi họp gồm ba phái đoàn: đại diện văn pḥng ODP và IOM của Hoa Kỳ là ông Tony Newsman, đại diện Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ là ông Christopher Carpenter, phái đoàn Việt Nam do ông Nguyễn Xuân Phong, quyền Vụ trưởng Vụ Châu Mỹ từ Hà Nội vào làm trưởng đoàn. Lưu Văn Tánh, trưởng pḥng Lănh sự Sở Ngoại Vụ Sài G̣n, Trần Thắng cơ quan xuất nhập cảnh cùng tham dự.


Ông Nguyễn Xuân Phong và ông Lưu Văn Tánh cho biết số lượng người ra đi từ tháng 10-1992 đến 10-1993 được dự trù khoảng 54.000 người, trong đó ODP có 20.000 người, HO 28.000 người và trẻ em lai 5.000. Phía VN đă trao cho Mỹ danh sách HO-40, toàn bộ danh sách trẻ lai và danh sách M-25 (ODP) gồm khoảng 5.000 người.


Hiện nay Mỹ đang phỏng vấn HO 51. Tính từ đầu năm có 10.908 người ra đi, nâng tổng số HO đă ra đi lên đến 67.424 người kể từ khi bắt đầu chương tŕnh đến nay.


Trong buổi họp, phía Hoa Kỳ đă đề nghị thực hiện một kế hoạch mới áp dụng cho chương tŕnh HO như sau:


Đối với khoảng 1/4 người đi theo diện HO mà không có thân nhân tại Mỹ, nên đưa họ qua Phi Luật Tân học trong ba tháng để biết qua về đời sống tại nước Mỹ, trước khi đến Mỹ. Tuy nhiên, kế hoạch này c̣n phải đợi chính quyền Phi Luật Tân và Việt Nam chấp thuận. Nếu kế hoạch được thông qua th́ phía Việt Nam đề nghị cho phép những người HO ra đi được quyền lựa chọn ở Phi ba tháng hay đi thẳng qua Mỹ, theo như lời ông Phong nói.

 


30.9.1994- thời hạn cuối cùng hồ sơ H.O

Thông cáo về một số hồ sơ H.O.

 

(Vietnamese Community/ DC, MD & VA)

Bộ Ngoại Giao và Sở Di Trú Hoa Kỳ, qua cuộc thương lượng mới đây với Quốc Hội, đă đồng ư cứu xét ngay một số trường hợp H.O. sau đây, với điều kiện Quốc Hội phải cung cấp danh sách:


1. Các trường hợp quả phụ có chồng chết trong trại cải tạo nhưng đă bị Hoa Kỳ từ chối v́ không có giấy chứng tử. Đối với số trường hợp này, chúng tôi đang lập danh sách để nộp cho Quốc Hội Hoa Kỳ. Xin xem Thông cáo ngày 8-5-1997.


2. Các trường hợp H.O. đă không đăng kư kịp thời hạn trước ngày 1 tháng 10, 1994, nếu có lư do chính đáng. Chẳng hạn, có một số trường hợp H.O. vẫn c̣n ở trong tù, hoặc ở vùng thôn quê không nhận được tin tức cập nhật, hoặc ở các trại tạm dung Đông Nam Á và Hồng Kông nên không kịp đăng kư v.v.


3. Các trường hợp nhân viên sở Mỹ đă bị từ chối oan uổng trong thời gian 5 năm qua. Bộ Ngoại Giao và Sở Di Trú sẽ cứu xét một số hồ sơ mẫu để t́m hiểu xem có vấn đề trục trặc ǵ hay không.


4. Một số trường hợp con cái trên 21 tuổi đă bị bác đơn sau ngày 1 tháng 4-1995, và c̣n độc thân khi bị bác đơn, BNG và SDT đồng ư sẽ cứu xét cho tất cả các trường hợp có cha mẹ được định cư theo diện di dân và các trường hợp đi theo mẹ, v́ cha đă chết trong trại cải tạo, với điều kiện QH tu chỉnh lại Tu chính án của TNS John McCain. Hiện nay QH đang tiến hành việc này.

[Vietnamese community/DC, MD,VA 2800 Juniper Street, #4 Fairfax, VA 22031]
 


Từ H.O 1 đến HO 44 phải làm thủ tục mới

(VN Thời Báo 1320 ngày 17.8.1994)


Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mới đây vừa lên tiếng yêu cầu báo chí và giới truyền thông thông báo cho mọi người biết thời hạn cuối cùng nộp đơn xin sang Hoa Kỳ theo diện H.O. đă được ấn định là ngày 30-9-1994.


Thời hạn nói trên chỉ được áp dụng cho những người từ Việt Nam xin định cư ở Hoa Kỳ với tư cách là nguời tỵ nạn, tức những cựu tù nhân đă bị giam giữ trong các trại cải tạo, những góa phụ có chồng chết trong trại, hoặc chết v́ hậu quả của việc bị giam trong trại cải tạo, những cựu nhân viên của chính phủ Hoa Kỳ hay các công ty tư nhân Hoa Kỳ.


Các giới chức thẩm quyền Bộ Ngoại Giao cho biết hiện nay Hoa Kỳ đă nhận được danh sách H.O. 44. Tất cả những người đă nộp đơn xin sang Hoa Kỳ theo diện H.O và có tên trong danh sách từ H.O.1 cho tới H.O. 44 này không phải nộp đơn lại và sẽ được nhân viên văn pḥng ODP Hoa Kỳ tiếp tục phỏng vấn cũng như giúp xúc tiến các thủ tục cần thiết để có thể sang Hoa Kỳ tị nạn như đă từng làm trước đây, nếu những người này hội đủ điều kiện đă được ấn định. Riêng những người chưa nộp đơn hoặc đă nộp đơn nhưng không có tên trong danh sách từ H.O 1 đến H.O 44, hay những người đă nộp đơn nhưng chưa nhận được thư hồi báo của văn pḥng ODP về trường hợp của họ, tất cả những người này nếu muốn định cư ở Hoa Kỳ (trong trường hợp chưa nộp đơn) hay tiếp tục giữ ư định sẽ định cư ở Hoa Kỳ (dành cho những người đă nộp đơn) phải làm các thủ tục sau đây trước ngày 30-9-1994:


1. Gửi thư cho văn pḥng ODP ở Bangkok cho biết ư muốn sang định cư ở Hoa Kỳ
2. Trong thư ghi rơ...

3. Kèm theo...

4. Nếu người đứng đơn......

5. Nếu trong gia đ́nh có....

6 Đính kèm giấy tờ chứng minh có thể được hưởng quy chế tỵ nạn theo diện HO. Bản sao Giấy phóng thích khỏi trại, ngày bị bắt, ngày được thả.....

Phải hội đủ một trong ba điều kiện (như đă ghi ở trên)

..........

Thư gửi cho văn pḥng ODP Bangkok để xin được phỏng vấn theo diện H.O hay trẻ lai gửi về địa chỉ:

US Orderly Departure Program

127 South Sathorn Road

Yannawa District

Bangkok 10120 – Thailand

 


Hoa Kỳ phỏng vấn trở lại chương tŕnh H.O.

(CBA NEWS)


Bà Marthe Sardinas, Giám đốc chương tŕnh ODP của Hoa Kỳ vừa thông báo cho Pḥng Lănh sự Sở Ngoại Vụ TP/HCM là Hoa Kỳ sẽ tiếp tục phỏng vấn các đối tượng thuộc chương tŕnh xuất cảnh diện H.O. (tù chính trị) kể từ ngày 15 tháng 8 tới đây.

Chương tŕnh phỏng vấn H.O. này đă bị tạm ngưng từ tháng 6 vừa qua, do phía Hoa Kỳ gặp trở ngại về vấn đề ngân sách.


Từ năm 1990 đến tháng 6-1994 có 97,240 người thuộc diện H.O đă xuất cảnh đến Hoa Kỳ. Hiện nay c̣n khoảng 80,000 người thuộc chương tŕnh H.O. đang chờ được phía Hoa Kỳ phỏng vấn. Các giới chức có thẩm quyền đặc trách về tỵ nạn thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vừa nhắn lại rằng thời hạn cuối cùng để nộp đơn xin sang Hoa Kỳ theo diện H.O. đă được ấn định là ngày 30-9-1994.

 


Một số người Việt Nam không c̣n muốn đi định cư ở Hoa Kỳ (Thái Phong, VOA).
 

Mặc dù chương tŕnh ODP đă chấm dứt từ 3 năm trước đây, nhưng chương tŕnh này mới thực sự kết thúc hồi tháng 9.1997 khi văn pḥng ODP ở Bangkok quyết định ngưng cứu xét những hồ sơ c̣n tồn đọng. Lư do là v́ số giấy tờ phải làm quá nhiều, chính phủ cộng sản Hà Nội chậm chạp trong việc cấp giấy xuất cảnh cho những người xin di cư, một số người hội đủ tiêu chuẩn để được phỏng vấn lại không tiếp tục tiến hành các thủ tục cần thiết.


Ngày 1-6-1997 các giới chức Mỹ đă gửi thư cho khoảng 650 người Việt để thông báo cho họ biết hồ sơ xin tỵ nạn chính trị của họ tại Hoa Kỳ từ 8 năm trước đây sẽ không được cứu xét nữa nếu cho tới cuối tháng 9 mà họ không tiếp xúc với các viên chức phụ trách chương tŕnh ODP.


Nhật báo Christian Science Monitor thuật lại lời ông Giám đốc chương tŕnh ODP cho biết là tới những ngày cuối tháng 9 mà nhiều người vẫn không trả lời, và trong số 650 lá thư gửi đi th́ chỉ có 145 gia đ́nh hồi âm và xin được phỏng vấn. Trong số c̣n lại có 33 người nói rằng họ không muốn đi nữa, và 472 người th́ không trả lời.

 


Bộ Ngoại Giao báo cáo Quốc Hội về chương tŕnh H.O, ODP và t́nh trạng đàn áp tôn giáo ở Việt Nam

[Việt Nam Thời Báo số 2131 ngày 21-10-1997]


Hoa Thịnh Đốn- (ủy ban cứu người vượt biển)- Việt Nam vẫn tiếp tục ngăn chặn không cấp giấy phép xuất cảnh cho nhiều trường hợp cựu tù chính trị và thuyền nhân hồi hương mà Hoa Kỳ muốn phỏng vấn, và các tu sĩ bị cầm tù vẫn chưa một ai được trả tự do. Đó là nội dung bản Báo Cáo mà Bộ Ngoại Giao (BNG) mới đây đă nộp theo yêu cầu của Quốc Hội.


*  *  *

“Đầu tháng 8, BNG nộp cho Quốc Hội Bản Báo Cáo dài bảy trang, nêu lên thành quả của Chương tŕnh ODP trong 17 năm qua, đă định cư gần nửa triệu người Việt kể cả các cựu tù chính trị. Tuy nhiên BNG thừa nhận rằng c̣n nhiều hồ sơ H.O mà Việt Nam đến giờ này vẫn không cấp giấy phép xuất cảnh, bất chấp lời yêu cầu của Hoa Kỳ.


BNG cho biết có 13 ngàn người thuộc diện nhân viên chính phủ Hoa Kỳ có điều kiện để được phỏng vấn theo chương tŕnh H.O nhưng không được Việt Nam cấp giấy phép xuất cảnh và v́ vậy mà BNG đă tạm ngưng cứu xét cho thành phần cựu nhân viên chính phủ Hoa Kỳ.


Về chương tŕnh ROVR th́ BNG cho biết là Việt Nam đă chậm trễ rất nhiều trong việc cấp chiếu khán xuất cảnh cho thuyền nhân hồi hương đă được Hoa Kỳ gọi phỏng vấn. BNG cho biết Đại sứ Douglas Peterson tiếp tục thúc đẩy Hà Nội phải thực tâm hợp tác với chương tŕnh ROVR như là điều kiện căn bản cho quy chế tối huệ quốc.



--------------------------------
(*) John Pilger là phóng viên chiến tranh kỳ cựu, nhà làm phim và biên kịch người Anh. Hai lần đoạt “Nhà Báo Của Năm” - giải báo chí cao nhất nước Anh - cho những hoạt động ở Việt Nam và Campuchia. Giải “Phóng Viên Quốc Tế Của Năm” và “Giải Liên Minh Báo Chí Liên Hợp Quốc.


(**) Tổng hợp theo tài liệu của:

- IRCC/Giao Chỉ.

- Di Tản và Vượt biên/Bùi Trọng Cường.

Xem thêm tại: http://hatnang.net/showthread.php?t=101

- Nguyễn Văn Canh/ Vietnam Under Communism.



LƯ LỊCH CON CHỮ H.O


Trong những cuộc thương thuyết sơ khởi, v́ chúng tôi không hy vọng hai bên sẽ có ngay những giải pháp chính trị, cho nên tất cả những hành động mở đường cho những thỏa ước tương lai đều được mang danh “Humanitarian Operation” (chiến dịch nhân đạo), gọi tắt là H.O...

... at the time of the original negotiations, there was no hope of any immediate political resolution between the two nations, all actions taken in furtherance of the agreements reached were termed “humannitarian operations”. Consequently, the term HO. [John W. Vessey]

 


1. Đă gần 20 năm kể từ ngày nghe đến tên tuổi người đàn bà xa lạ - bà Khúc Minh Thơ - mà tôi, một trong số hàng trăm ngàn tù cải tạo và đại gia đ́nh HO mang ơn, lần đầu tiên gặp bà tại San Jose, tháng 2- 2005.


Trong bộ y phục giản dị, với phong cách người phụ nữ Nam Bộ, thoải mái, tự nhiên bà tiếp chúng tôi tại pḥng khách tư thất của ông bà Minh Triết, một thương gia của Sài G̣n trước năm 1975. Sau nụ cười và hỏi chào vồn vă, câu nói đầu tiên của tôi: “Tôi rất hân hạnh được gặp chị để nói lời cảm ơn mà tôi canh cánh trong ḷng mấy chục năm qua”. Nở nụ cười thật tươi trên khuôn mặt đôn hậu hằn nét thời gian, bà đáp lời tôi mà cũng như nói cho mọi người cùng nghe: “Tôi đă được đọc một hai số Nguồn khi đang nằm trong bệnh viện. Khuôn khổ tờ báo rất gọn, dễ đọc. Tôi phải mổ cái chân, nên c̣n chống gậy đây nè.”


Tôi nói với bà: “C̣n đau chân, mà chị về San Jose đi chơi hay có việc ǵ?”, bà cười: “Nơi nào có tù nhân chính trị kêu, nơi nào có gia đ́nh HO gọi là tôi tới ngay”.
 

Thanh Thương Hoàng. Bà Khúc Minh Thơ và Song Nhị (2005)

 

Câu chuyện giữa những người xa lạ lần đầu tiên gặp nhau mà không mấy chốc trở nên gịn dă, thân t́nh như đă có một sự đợi chờ từ lâu lắm. Bà kể vắn tắt một vài việc bà đă làm cho tù nhân chính trị, cho chương tŕnh HO. Bà nhắc đến một số nhân vật Việt Mỹ đă có công giúp bà thiết lập được nền tảng cho cơ cấu Families of Vietnamese Political Prisoners Association (Hội Gia Đ́nh Tù Nhân Chính trị Việt Nam). Bà nhắc đến ông Robert Funseth, Thứ trưởng Ngoại Giao đặc trách Á Châu Sự Vụ, người đă bỏ ra 10 năm theo đuổi cuộc mặc cả với CSVN về chương tŕnh HO.


Tôi nhắc lại bài báo của kư giả Nguyễn Ngọc Chấn viết cho CNN ngày 16 tháng 6 - 2004 nhân lễ tang TT Reagan (ngày 11 tháng 6) dưới tựa đề: “Bà Khúc Minh Thơ, hai lần khóc Tổng thống Ronald Reagan”. Bài báo viết: Trong cuộc tiếp kiến tháng 12, 1988, bà Khúc Minh Thơ khẩn cầu:

- “Xin Tổng Thống và nước Mỹ đừng bỏ rơi những tù nhân Việt Nam Cộng Ḥa”.

 

Tổng thống Ronald Reagan ôn tồn:

- “Những người anh hùng Việt Nam sẽ không bao giờ bị bỏ quên”.

 

Bà Khúc Minh Thơ đă bật khóc v́ không ngăn được nỗi xúc động.


 

 

Nghe tôi nhắc lại, bà nói:

“Phải rồi, hồi đó TT Reagan tiếp tôi tại pḥng danh dự, Pḥng Bầu Dục của Bạch Cung. Ư nghĩa của cuộc tiếp xúc nói lên rằng các anh tuy phải chịu đựng những đớn đau tủi nhục, bị mất mát gần như tất cả, có người mất cả gia đạo vợ con, nhưng cái lớn lao mà các anh không mất là phẩm giá; các anh vẫn c̣n nguyên vẹn danh dự. Cuối cùng các anh ra khỏi tù, các anh đi ra, cả thế giới chào đón các anh.”


Nghe bà nói, đến lượt tôi rướm cay trong đôi mắt. Dĩ văng ấy, quá khứ ấy không dễ ǵ để quên. Tôi xúc động v́ vết thương kia tưởng đă lành mà khi bị khều lại vẫn c̣n nhức nhối. Tôi xúc động v́ những ǵ tôi suy nghĩ, tôi cưu mang nay chính con người “liễu yếu đào tơ” kia; chính con người nữ nhi đă ra tay hành hiệp ấy nói cho tôi nghe. Tôi được bà hứa sẽ cho tôi thêm một số hiểu biết khác về những con người, về những chặng đường gian nan của hành tŕnh nhân đạo ấy. Tôi được bà hứa sẽ “release” cho một ít tài liệu liên quan khi tôi cần t́m hiểu.



2. Đă có nhiều bàn luận ở chốn riêng tư và một số bài viết về hai con chữ có tầm vóc thời đại gắn liền với một giai đoạn lịch sử của dân tộc sau cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn kéo dài trong hai mươi năm trên hai miền đất nước, kết cuộc chỉ có hận thù, đổ vỡ tan hoang, mọi giá trị truyền thống dân tộc băng họai như hôm nay.


Nếu nh́n lại những ngày ảm đạm của tháng 6-1975 khi tất cả sĩ quan, viên chức VNCH bị lùa vào các trại tập trung, rồi lần lượt được phân bố đi các trại tù nơi rừng sâu núi thẳm trong Nam và các trại tập trung tận các vùng núi rừng heo hút, trùng điệp miền Bắc, đến khi - trừ những người đă chết - tất cả lần lượt được thả về, rồi nườm nượp lên máy bay rời bỏ quê hương, thoát khỏi cảnh ngược đăi, lưu đày trên chính xứ sở của ḿnh, th́ quả là một giấc mơ của cô bé Lọ Lem trong thần thoại ngh́n lẻ một đêm.


Hành tŕnh một H.O không giản dị, dễ dàng như những ǵ người ta nh́n thấy. Không đơn giản với các khâu làm thủ tục dịch vụ xuất cảnh với Công an, khám sức khỏe với IOM, và lên máy bay với HCR... Không mau chóng như trường hợp nhiều gia đ́nh người chồng vừa được thả về năm 1988 th́ đầu năm 1990 cả nhà lên máy bay sang Mỹ. Hành tŕnh này khởi đầu bằng nhiều nỗi cam go, bằng tấm ḷng và công sức của nhiều người mới h́nh thành và đem lại kết quả đó. Hành tŕnh này, nếu nh́n xa hơn từ ngọn nguồn th́ phải kể trước hết là chính sự chịu đựng mọi cực h́nh, tủi nhục của người tù bị đày đọa trong các trại cải tạo.


Con người khi đứng trước mọi tai họa đang dẫn tới đường cùng nếu không có niềm tin tuyệt đối và không v́ bản năng sinh tồn mà vươn tới th́ chắc chắn sẽ khó mà tồn tại. Tôi đưa ra kết luận này từ kinh nghiệm sống chết mà tôi nh́n thấy, tôi trải nghiệm trong hơn ba ngàn ngày nơi các trại tù từ Nam ra Bắc. Một trong những niềm tin phải có của người tù tập trung cải tạo, không án văn, không thời hạn giam giữ, là niềm tin phải tồn tại, phải có ngày về, phải có ngày làm lại, như Linh mục Nguyễn Hữu Lễ đă viết thành tác phẩm “Tôi Phải Sống”. Tôi phải sống, tôi phải về và tôi có toàn quyền hy vọng... đó là điều đă được người tù cải tạo thể hiện bằng nhiều phương cách.


Tháng 2 năm 1979, CSVN đem quân sang đánh chiếm Cambodia, khi ra lao động ngoài ven rừng, thấy máy bay trực thăng bay từ lănh thổ VN băng qua biên giới sang phần đất Miên Lào, cả đoàn tù ngừng tay, bỏ cuốc, ngả nón nh́n lên trời. Trong đám, có người la lên “Anh em ơi máy bay tới rồi!” Đêm về bị đám “tự quản”, “ăng ten” đem ra kiểm điểm hạch hỏi, kết tội “c̣n hướng vọng đế quốc Mỹ, c̣n mong máy bay Mỹ đến giải cứu”.


Phải chăng “Hành tŕnh H.O” khởi đi từ đó, từ một sự thiêng liêng huyền nhiệm mơ hồ. Hành tŕnh H.O khởi đi từ sự sống khốn cùng và từ cái chết bi thương của những người tù cải tạo. Lê Quảng Lạc, bị cùm đến chết chỉ v́ lá thư gửi về cho gia đ́nh: “Xin bố mẹ yên tâm. Chúng con ra đi v́ lư do chính trị th́ chúng con cũng sẽ trở về bằng con đường chính trị”.


Lá thư viết trong trại tù Lam Sơn, Thanh Hóa năm 1979 đúng vào lúc từ bên Genève, quốc tế đang họp bàn về “con đường chính trị” mà Lê Quảng Lạc như được mặc khải từ một nguồn sáng siêu nhiên. Lá thư không về được với gia đ́nh. Lá thư bị chặn lại và tác giả đă đổi sinh mạng của ḿnh bằng lá thư viết về cho người vợ và bố mẹ của anh.


Hành tŕnh H.O c̣n khởi đi từ tấm ḷng nhân đạo vô bờ bến của những con người đang sống yên lành trên nước Mỹ. Tôi muốn nói đến những nhân vật cộng đồng trong đó những vị ân nhân của người, của đời mà không ai có thể quên được, đó là Bà Khúc Minh Thơ, Chủ Tịch Hội Gia Đ́nh Tù Nhân Chính Trị Việt Nam, bên cạnh có các ông Nguyễn Ngọc Bích, Huỳnh Công Ánh, Nguyễn Hậu, Linh Quang Viên, Đào Văn B́nh, Giao Chỉ... và nhiều cá nhân, tổ chức, hội đoàn khác đă đóng góp công sức, tài vật cho thành quả giải thoát những người tù cải tạo.


Một số trong các người vừa kể, sau khi đă hoàn thành mục tiêu xây đắp xong “con đường nhân đạo” cho “hành tŕnh H.O” đă lui về với cuộc sống b́nh lặng thường ngày. Tôi vẫn băn khoăn nghĩ về những con người đă trải qua bao nhiêu chặng đường cam go, bỏ tiền của công sức, th́ giờ trong nhiều năm để tiếp xúc, vận động các Dân biểu, Nghị sĩ trong Quốc Hội Hoa Kỳ h́nh thành “Hành tŕnh H.O” hiện thực. Một tên tuổi mà tôi nghĩ, có lẽ số đông H.O không quên - Bà Khúc Minh Thơ, người mà nhiều anh em tù cải tạo khi c̣n ở Sài G̣n đă đọc, đă nghe nói đến.


“Món quà quư giá” được đám tù chúng tôi chuyền tay nhau là lá thư (đề ngày 14 tháng 6 năm 1989) của Dân Biểu Frank R. Wolf, gửi bà Khúc Minh Thơ thông báo việc Hạ Viện Hoa Kỳ, ngày 13 tháng 6 -1989 đă thông qua Nghị Quyết kêu gọi chính quyền Cộng sản VN thả hết tất cả tù cải tạo và xúc tiến giải quyết cho ra đi mọi tù nhân đă hay chưa được thả. Bản phocopy lá thư đó tôi mang theo sang Mỹ và c̣n giữ lại đến hôm nay. Trong nhiều năm qua, tôi chưa gặp một người nào trong số những nhân vật đă góp tấm ḷng và bàn tay cứu độ ấy. Tôi cũng lại băn khoăn về một cử chỉ biết ơn đối với họ, nhưng tôi chưa thấy ai làm. Tôi viết những ḍng này để thấy ḷng ḿnh một chút thanh thản khi bày tỏ được đôi lời về những băn khoăn ấy.



3. Lần đầu tiên khi hai con chữ H.O được phổ biến trên báo Công An ở Sài G̣n, trong một lần gặp gỡ nhiều bạn tù tại nhà anh Lê Đ́nh Khôi ở đường Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ), Quận Mười, khi bàn đến hai chữ H.O, một anh trong đám nói: “đó là viết tắt của hai tiếng Humanitanian Organization”. Tôi, do đă t́m hiểu và suy luận trước nên “cải chính”: “không phải organization mà là operation. Không phải ‘tổ chức nhân đạo’ mà là ‘chiến dịch nhân đạo’.


Trong nhiều năm tôi vẫn cho rằng tôi suy nghĩ đúng, lập luận vững, nhưng măi cho đến khi đọc được bài viết của Luật sư Lâm Lễ Trinh trên tờ Việt Báo San Jose (số 77 ngày 31-01-1997) th́ tôi lại nghĩ rằng tôi cũng chỉ đoán ṃ. Bài báo của LS Lâm Lễ Trinh có đoạn: “Thế giới đă áp lực chính quyền Hà Nội chấm dứt những vụ ra đi “bán chính thức” bằng đường biển và chấp nhận một chương tŕnh “xuất ngoại có trật tự, orderly departure hay ODP” cùng với kế hoạch cho ra đi “v́ nhân đạo, humanitarian organization, HO”. Theo tôi, những nhóm chữ LS Trinh để trong dấu ngoặc kép là chữ trích từ văn bản hay tài liệu mà người viết tham khảo, chứ không phải do người viết đặt ra nên tôi tin cụm từ “humanitarian organization, HO”.


Hai chương tŕnh “xuất ngoại có trật tự, Orderly Departure” và cho ra đi “v́ nhân đạo, Humanitarian Organization” đă được Liên Hiệp Quốc và đại diện 46 quốc gia đưa ra thảo luận cùng đại diện Việt Nam tại Geneve, đưa tới thỏa hiệp kư kết ngày 20-7-1979, mở đầu cho hai chương tŕnh xuất cảnh ồ ạt mười năm sau đó.


Như vậy, căn nguyên h́nh thành hai chữ H.O bắt nguồn từ Liên Hiệp Quốc, từ Geneve, từ năm 1979, chứ không phải từ... trên trời rơi xuống, từ những suy luận, đoán ṃ của nhiều người. Tuy nhiên, những ai suy luận H.O do viết tắt của hai chữ Humanitarian Operation có cơ sở hơn, bởi nó có nghĩa tích cực, mạnh mẽ hơn và cuối cùng đă được giới chức thẩm quyền, tướng John W. Vessey xác nhận đúng.

H.O, như vậy không phải là “Huyền Thoại H.O” như tựa đề một bài viết của tác giả Hạ Bá Chung do nhà báo Yên Mô giới thiệu trên mục Tạp Ghi của Việt Nam Thời Báo (số 2131, ngày 21-10-1997). Bài báo đó, trong phần mở đầu, người giới thiệu đồng ư với tác giả mà cho rằng: “Bài Tạp Ghi là của một HO viết về huyền thoại HO” là một bài viết đă tra cứu sâu rộng để biết rằng HO chỉ là tên gọi do sự t́nh cờ nhưng đă trở thành hữu danh một cách rất có lịch sử.....”. Điều này cần xem lại, như tôi đă nói ở trên.


Tôi xin nêu những dẫn chứng sau đây về sự nhất quán của con chữ HO trong Hành tŕnh HO, nhưng trước hết xin được nói thêm về một nhóm chữ khác - re-education - tôi muốn được nói thêm, ông Yên Mô cho rằng tên gọi re- education “hoàn toàn có ư nghĩa hành chánh chứ không nhằm miệt thị”. Chúng ta, phần đông hiểu nghĩa của từ education là “giáo dục” nên khi nh́n thấy re-education th́ liên tưởng ngay nghĩa của từ này là “giáo dục lại, dạy dỗ lại”. Thực ra re-education nghĩa đen là cải đổi, là sửa sang lại, là tập luyện để trở lại như cũ, theo ư muốn của ḿnh. Người HO đă từng trải một thời gian dài “sửa sang, tập luyện lại để trở lại như cũ”, để sau khi ra trại vẫn là con người cũ VNCH!!


Khi ở trại tù Quảng Ninh ngoài Bắc, một số anh em chúng tôi đă có bàn luận với nhau “tiếng Anh ‘cải tạo’ gọi là ǵ th́ vài ba anh em, trong đó có anh Lâm Văn Hữu, gốc Cảnh Sát Quốc Tế (Inter-Pol) của VNCH đồng ư với nhau ‘cải tạo’ là re-education, v́ nghĩa đen của từ này là... ‘cải tạo’. Cộng sản đă dùng thuật ngữ Cải Tạo để thay thế cho chữ tù, nhằm đánh lừa dư luận. Lúc mới tập trung vào trại, họ bảo “Các anh là Học Viên”, ai nói “tù” là xuyên tạc, phản động. Ít lâu sau họ nói “Các anh là Cải Tạo Viên”, hơn một năm sau có người thắc mắc, hỏi cán bộ th́ họ xẳng giọng nói thẳng ra: “Học viên hay cải tạo viên ǵ cũng là tù cả”.


Trở lại bài báo “Huyền Thoại H.O” của ông Hạ Bá Chung, tác giả bài báo cho biết nhà văn Trà Lũ tỏ ra thắc mắc về nguồn gốc hai chữ H.O lắm nên đă viết trong “Lá thư Canada”: “Chẳng nhẽ ḿnh phải hỏi VC việc này sao?”


Tác giả bài báo đặt câu hỏi “Vậy H.O. có phải là chữ viết tắt của Humanitarian Operation không?” Rồi tác giả bàn tiếp: “Cụm từ này tôi đă đọc nhiều lần trên các báo chí mấy năm nay rồi, và ngay cả vị giáo sư khả kính Lê Bá Kông viết trên Đặc san Đa Hiệu cũng cho là như vậy, v́ ai cũng nghĩ là chuyện Mỹ can thiệp với VC để đưa các cựu sĩ quan Quân Lực VNCH sang định cư tại Hoa Kỳ là vấn đề mang tính nhân đạo”. Tác giả cho rằng nghĩ như vậy là “sỉ nhục”.


Tôi không bàn đến khía cạnh “tự ái dân tộc” mà tác giả bài báo nêu ra. Sự luận bàn như vậy chỉ có tính cách mua vui. Theo ông Hạ Bá Chung, “chữ H là humanitarian nghe hữu lư nhưng chữ O là Operation quá gượng ép, v́ cùng là chương tŕnh định cư mà di dân (immigrant) dùng chữ progam (orderly Program) hay P.I.P (public Interest Program), c̣n người tỵ nạn (refugee) hà tất phải đổi là Operation”.

Lư luận cách này của ông HBC là cách suy luận cảm tính. Tuy cùng là di dân, nhưng mỗi diện là một loại, đặt tên gọi khác nhau là một điều hợp lư. Diện đoàn tụ gia đ́nh Orderly Departure Program, diện “đi theo” là Public Interest Parole (không phải program như ông HBC đă ghi), cho nên diện tù cải tạo là Humanitarian Operation, cũng như diện thuyền nhân hồi hương là ROVR.


Những năm đang ở tù ngoài Bắc, chúng tôi thường “mơ mộng” về một operation bằng viễn ảnh một cuộc chuyển dời từ trại tù đến “tập kết” tại một địa điểm nào đó ở một sân bay, hay một băi biển, để mà tha hồ hít thở khí trời tự do. Mơ mộng đó không đến với người tù bằng những operation mà bằng những tổ chức nhân đạo Humantarian organization như thực tế đă diễn ra.


Tác giả Hạ Bá Chung khẳng định “Vậy chữ H.O. không phải xuất phát từ phía Hoa Kỳ”, và theo ông “chỉ c̣n cách hỏi Sở Ngoại Vụ VC”. Ông không cho biết Sở Ngoại vụ VC trả lời thế nào. Tác giả lại đă nhờ một kỹ sư Nông nghiệp học lớp phiên dịch mà ông là giảng viên, “liên lạc với ṭa soạn báo Công An TPHCM đầy thẩm quyền, yêu cầu giải thích về các quy định của chương tŕnh H.O. và chữ viết tắt của nó...”.


Tác giả viết tiếp “Vào cuối năm 1990, tuần báo Công An TPHCM đăng bài về chương tŕnh H.O. và giải thích chữ viết tắt như sau” (??!!). Đoạn văn chấm dứt ở đó, và một lần nữa, ông HBC lại không cho biết báo Công An giải thích hai chữ H.O. ra sao!! Theo ông HBC, “để đáp ứng yêu cầu của Mỹ, danh sách các cựu quân cán chính VNCH được thiết lập riêng để được ưu tiên phỏng vấn và ưu tiên có chuyến bay (SN nhấn mạnh), nên Sở Ngoại Vụ VC lập danh sách bắt đầu bằng chữ H, rồi thông báo cho phái đoàn phỏng vấn Mỹ...”


Để được ‘ưu tiên phỏng vấn và ưu tiên có chuyến bay” nên Sở Ngoại Vụ VC lập danh sách bắt đầu bằng chữ H” nghĩa là sao? Chữ H là biểu trưng cho ư nghĩa “Ưu Tiên”? Nếu biểu trưng cho ư nghĩa Ưu Tiên, sao không là chữ P (Priority)??


Theo tôi, lập luận này cũng chỉ là một sự suy đoán mà thôi. Tại sao danh sách tù cải tạo lại bắt đầu bằng chữ H mà không là chữ K, chữ X, chữ Y? C̣n chữ O, tác giả bài báo đồng ư với ông Trà Lũ là khi làm danh sách “VC thường viết 01, 02... Vậy chữ O không có nghĩa ǵ hết. Đến danh sách H10 trở đi không c̣n chữ O nữa”. Quả là từ danh sách H10 trở đi không c̣n chữ O nữa, nhưng tất cả giấy tờ của phía VN từ các cơ quan đến báo chí luôn luôn ghi rơ diện tù cải tạo xuất cảnh là H.O.


Thông cáo của Sở Ngoại Vụ TPHCM phổ biến trên tờ SGGP ngày 1-12-1992 có đoạn ghi rơ: “Ta trao tiếp cho phía Mỹ các danh sách HO21 đến HO28 và sẽ trao toàn bộ danh sách HO c̣n lại trong ṿng 3 tháng tới...”


Trong một văn bản mang kư hiệu (FVPPA: July, 1996), của phía Hoa Kỳ có tiêu đề như sau: [OVERVIEW OF FAMILY ELIGIBILITY IN THE PROCESSING OF THE FORMER POLITICAL PRISONERS BY THE HO SUBPROGRAM OF THE ORDERLY DEPARTURE PROGRAM (ODP)]

 

- When the Oderly Departue Program (ODP) began the “HO” subprogram of ODP to resettle former political prisoners and their family members..., (chữ HO trong câu này để trong dấu ngoặc kép).


Xin tạm dịch:

[“Văn Bản xem xét lại những người hội đủ tiêu chuẩn trong gia đ́nh cựu tù nhân chính trị được ra đi theo chương tŕnh phụ HO thuộc chương tŕnh ra đi trong trật tự (ODP)]

 

Đoạn mở đầu viết:

- “Khi chương tŕnh ra đi trong trật tự (ODP) bắt đầu chương tŕnh phụ “HO” của ODP để tái định cư những cựu tù nhân chính trị và các thành viên trong gia đ́nh của họ...,”


Năm 1990 nhân dịp ra Hà Nội, tôi đi với một người bà con là Việt kiều ở Pháp đến trụ sở Công an ở phố Hàng Bài, tôi hỏi một nữ Trung úy CA về hồ sơ H.O của một người bạn (chết trong tù), người nữ công an này trả lời tôi với câu mở đầu “Chỉ có H, không có HO nào cả. Nói gia đ́nh chị ấy làm tại địa phương”. Hẳn là người nữ công an ấy cũng chỉ là một nhân viên thừa hành, thấy sao nói vậy, họ có biết ǵ về tính sâu sắc của chữ nghĩa như người trong cuộc hằng quan tâm. Hơn nữa người miền Bắc luôn luôn đọc chữ cái theo âm Việt. Chữ O là O chứ không đọc âm ô như người trong Nam, cũng vậy thường chúng ta đọc ô-đê-pê (ODP), nhưng người miền Bắc th́ đọc o-dê-pê.


Tôi không nghĩ “HO chỉ là tên gọi do sự t́nh cờ” như ư kiến của ông Yên Mô. Đối với người cộng sản họ rất tủn mủn trong mọi lời nói, mọi việc làm, đôi khi dùng thủ đoạn vặt lộ liễu đến trẻ con. Trong thời kỳ diễn ra ḥa đàm Paris, có lần Bộ trưởng Ngoại Giao Miền Bắc Nguyễn Duy Trinh gặp phái đoàn Mỹ do ông Harriman dẫn đầu. Ông Trinh bắt tay Hariman xong, liền thọc tay vào túi quần móc ra cái khăn mouchoir lau bàn tay rồi vứt cái khăn xuống đất để tỏ ư ra điều tay ông ta bị dơ v́ bắt tay đế quốc. Báo chí quốc tế ngày đó đă nh́n Nguyễn Duy Trinh làm tṛ con nít, rẻ tiền.


Ở trại tù Quảng Ninh Tết Năm Đinh Tỵ 1977 pḥng giam số 8 làm một số báo xuân, dĩ nhiên là báo chép tay, lấy tên là Giai Phẩm Xuân Đinh Tỵ, đă bị viên thiếu úy công an, quản giáo hạch hỏi điều tra tại sao lại lấy tên là “Giai Phẩm”. Cái tên này đă trở thành một thứ húy kỵ sau vụ Nhân Văn, Giai Phẩm. Rồi quay sang nh́n cái lọ cắm mấy bông hoa dại trên cái bàn, quản giáo lại hỏi “tại sao các anh hái loại hoa cứt lợn cắm vào đây”? Nhiều người không hiểu tại sao anh cán bộ quản giáo lại hỏi “tại sao”? Tại sao là tại sao? Người tù chỉ đơn giản ra khoảnh vườn hoang nhỏ sau pḥng giam thấy hoa ǵ hái thứ đó vào cắm để biết hôm đó là ngày Tết. Nhưng người cộng sản lại nhớ măi về hai mươi năm trước đảng vui mừng tuyên bố khi về tiếp thu Hà Nội “trăm hoa đua nở, nhà nhà đua tiếng”, mấy năm sau bị Nhân Văn, Giai Phẩm nói lại “trăm hoa đua nở, nhưng toàn là hoa cứt lợn”.

Trong những lời tuyên bố hay trong các văn bản của phía Việt Nam thảo luận với phía Hoa kỳ về việc cho xuất cảnh, họ luôn luôn nhắc tới, lặp đi lặp lại hai tiếng “nhân đạo”. Từ ngữ này do Liên Hiệp Quốc đưa ra trong cuộc họp tại Geneve với 46 quốc gia khác, có Việt Nam tham dự. Phía Việt Nam đă chộp lấy từ ngữ này để làm ra điều ta đây v́ nhân đạo mà cho ra đi, chứ thực tâm đấy là cơ hội để họ tuồn hết những thứ “không xài được” ra khỏi nước. Tôi được một sĩ quan cấp tá Công An thời đó cho biết t́nh h́nh chung trong nội bộ tỏ ra thắc mắc, hoang mang khi thấy đảng làm cái việc “thả hổ về rừng”, th́ chính Mai Chí Thọ đă nói với toàn thể cán bộ trong ngành công an rằng việc giải quyết cho hết đám tù cải tạo ra đi là để “làm sạch địa bàn”. Trong nội bộ riêng tư, nhân viên, cán bộ các ban sở, các ngành đều được giải thích theo lập luận ấy. Về mặt công khai, bộ máy tuyên truyền, báo, đài khi đăng tải chủ trương của nhà nước phải theo đúng từng câu, từng chữ.


Báo Tuổi Trẻ số 53 tháng 8 -1988 đăng thông báo của Pḥng Quản Lư Người Nước Ngoài Và Xuất Cảnh, Nhập Cảnh do Phó trưởng pḥng Đặng Chí Thành kư đă nhấn mạnh đến tính cách “nhân đạo” ấy như sau:


“... Những người được tha từ các trung tâm cải tạo cùng với thân nhân có thể được phép di cư ra nước ngoài nếu họ muốn... Đó là do tính nhân đạo, chứ không phải như một số dư luận hiện nay cho là nhà nước Việt Nam xua đuổi số ngụy quân, ngụy quyền hoặc không khả năng tạo điều kiện cho số này làm ăn sinh sống b́nh thường, nên khuyến khích ra đi v.v.”


Báo Sài G̣n Giải Phóng số ra ngày 14.10.1988 cũng loan một bản tin của Thông Tấn Xă VN, dưới tựa đề “Đồng Chí Trần Quang Cơ Gặp Giôn Vét-Xi Bàn Về Các Vấn Đề Nhân Đạo”. Đoạn văn như sau: “.... tại phái đoàn Mỹ ở LHQ, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Trần Quang Cơ đă gặp ông Giôn Vét-xi, đặc phái viên tổng thống Mỹ về vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA) và các vấn đề nhân đạo khác để thảo luận các vấn đề nhân đạo mà hai bên cùng quan tâm như... vấn đề MIA, trẻ lai Mỹ, những nổ lực của Mỹ để giải quyết các vấn đề nhân đạo của Việt Nam như nguời tàn tật trong chiến tranh, trẻ lai và trẻ mồ côi tàn tật và vấn đề người trong các trại cải tạo”.


Chỉ một đoạn văn ngắn, bài báo lặp lại nhiều lần từ ngữ “nhân đạo”, với chủ ư nhấn mạnh chứ không phải là một sự t́nh cờ.


Trong một văn thư Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch gửi cho tướng John Vessey, đặc phái viên của tổng thống Mỹ, ông Thạch cũng không quên hai tiếng “kinh điển” ấy: “Trước sau chúng tôi vẫn coi việc giải quyết các vấn đề nhân đạo cần được tách khỏi các vấn đề chính trị”. C̣n rất nhiều văn bản khác nữa hai tiếng “nhân đạo” được phía Việt Nam nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc.



4. Tướng John Vessey với xác nhận con chữ H.O:

Humanitarian Operation


 

Sau hết, tôi được nhà thơ Thanh Thanh gửi cho lá thư của cựu Đại Tướng John Vessey gửi ông Nguyễn Xuân Huấn, Chủ tịch Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị tiểu bang Minnesota. Qua lá thư này, Tướng John Vessey đă khẳng định với chúng ta lư lịch con chữ H.O một cách minh bạch. Lá thư được cô Nguyễn T. Ngọc Châu phiên dịch sang Việt ngữ cùng với nguyên bản Anh ngữ như sau:


John W. Vessey, General USA (retired). June 10, 1997
To Mr. Nguyen Xuan Huan

President, Association of Former Political

etainees in Minnesota.

1030 University Avenue. 270, ST. Paul, MN 55104.


Dear Mr. Huan.

Because I am unable to attend your important meeting on Saturday, June 21, I ask that this letter be read on my behalf to your members and guests.


It is important to honor all those who served the cause of freedom in Vietnam and Indochina. It is also important to recognize and assist those who suffered under Communist rule for their prior service to the Republic of Vietnam. Political detainees under the Communist regime after 1975 had served their country and their people in the honorable and esteemed tradition of patriotism, putting service to country above self during a long and arduous war. The sacrifices of all who served and fought in the Vietnam war, Vietnamese, Americans, and other Allies, made a difference for the important human ideals of freedom and personal dignity. The world was changed through a collective effort. The spread of Communism in Asia was harted by the sacrifices in Vietnam, Laos, and Cambodia, and with the help of other nations of Southeast Asia. All who participated in that effort can be proud of their contributions.


When President Reagan calls me back from military retirement in 1987 to be his Presidential Emissary to Hanoi, one of the highest priority tasks he assigned me was to seek the release of our former South Vietnamese comrades who had been detained in the, so-called, “reeducation camps”. I was authorized to assure the Hanoi government that the United States would accept and welcome those detainees and their families in this country.


Because, at the time of the original negotiations, there was no hope of any immediate political resolution between the two nations, all actions taken in furtherance of the agreements reached were termed “humanitarian operations”. Consequently, the term H.O. has been used within the Vietnamese-American community to refer to former political detainees who are now residents in the United States.


To me, the term H.O. is a badge of courage, service and sacrifice, and all those who fall within that context of the term are among the true heroes of our time.
My very best wishes to all attending your event.


Sincerely yours.

John W. Vessey.



Bản dịch:

 

“Vinh danh những người đă phụng sự cho chính nghĩa tự do ở Việt Nam và Đông Dương, là một điều quan trọng. Việc công nhận và trợ giúp những người đă bị chế độ cộng sản ngược đăi v́ đă phục vụ cho chế độ tự do tại các quốc gia đó, lại càng quan trọng hơn. Những tù nhân chính trị dưới chế độ cộng sản sau năm 1975, là những người đă từng phục vụ quê hương và đồng bào với truyền thống yêu nước cao cả và đáng kính, đă v́ nước quên ḿnh trong suốt cuộc chiến tranh lâu dài và ác liệt. Ḷng hy sinh của tất cả những ai đă từng phục vụ và chiến đấu trong chiến tranh Việt Nam, người Việt, người Mỹ, và những đồng minh khác, đă đem lại một ư nghĩa đặc biệt hơn cho lư tưởng của con người về tự do và nhân phẩm. Thế giới đă thay đổi nhờ một nỗ lực tập thể. Sự bành trướng của cộng sản ở Á Châu đă bị ngăn chận bởi những sự hy sinh ở Việt Nam, ở Lào, và Cam Bốt, cùng với sự hỗ trợ của các nước Đông Nam Á. Tất cả những ai đă tham gia vào nỗ lực đó, có thể tự hào về những đóng góp của ḿnh”.


“Năm 1987, khi đang hồi hưu, tôi được Tổng Thống Reagan cử làm Đặc Phái Viên đi Hà Nội thương thuyết. Một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu mà Tổng Thống giao phó cho tôi, là phải t́m cách giải thoát những cựu chiến hữu Việt Nam đang bị giam giữ trong những cái trại gọi là “trại cải tạo”. Tôi được quyền bảo đảm với chánh phủ Hà Nội rằng, Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận và đón tiếp những người tù cải tạo cùng với gia đ́nh họ sang Hoa Kỳ.


Trong những cuộc thương thuyết sơ khởi, v́ chúng tôi không hy vọng hai bên sẽ có ngay những giải pháp chính trị, cho nên tất cả những hành động mở đường cho những thỏa ước tương lai đều được mang danh “Humanitarian Operation” (chiến dịch nhân đạo), gọi tắt là H.O. Do đó, danh từ H.O. được Cộng Đồng Việt Mỹ sử dụng để nói về những cựu tù nhân chính trị Việt Nam đang sống trên đất Hoa Kỳ”.


“Riêng đối với tôi, danh từ H.O. là biểu tượng của ḷng dũng cảm, tinh thần phục vụ, và ḷng hy sinh của người H.O. Tất cả những ai thuộc diện H.O. đều là những anh hùng thật sự trong thời đại chúng ta”


(Bản hiệu chính tháng 7/2009)

 

 

Song Nhị

 

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính