Kư ức về những bài học thuộc ḷng thời Tiểu Học

 

Phan Văn Phước

 

 

Dân miền Nam, những ai bây giờ chừng 55 tuổi trở lên, chắc đều nhớ rơ cách tổ chức độc đáo ở các lớp bậc Tiểu Học cách đây hơn bốn thập niên. Hồi đó, cách gọi tên các lớp học ngược lại với bây giờ, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Lớp Năm là lớp Một ngày nay, rồi đến lớp Tư, lớp Ba, lớp Nh́, trên cùng là lớp Nhứt. Lớp Năm, tức là lớp thấp nhất, thường do các Thầy Cô giỏi nhất hoặc cao niên, dồi dào kinh nghiệm nhất phụ trách. 

 

Sở dĩ như vậy là v́ bậc học này được xem là vô cùng quan trọng, dạy học tṛ từ chỗ chưa biết ǵ đến chỗ biết đọc, biết viết, biết những kiến thức cơ bản đầu tiên, nghĩa là biến từ chỗ không có ǵ đến chỗ bắt đầu có. 

 

 

Học tṛ, không phân biệt giàu nghèo, khi đến lớp, chỉ được dùng một thứ bút duy nhất là bút ng̣i lá tre. Gọi là lá tre bởi v́ bút có cái ng̣i có thể tháo rời ra được, giống h́nh lá tre nho nhỏ, khi viết th́ chấm vào b́nh mực. B́nh mực thường là mực tím, có một cái khoen nơi nắp để móc vào ngón tay cho tiện. Thân b́nh bên trong gắn liền với một ống nhựa h́nh phểu, dưới nhỏ, trên to để mực khỏi sánh ra theo nhịp bước của học tṛ. 

 

Khi vào lớp th́ học tṛ đặt b́nh mực vào một cái lỗ tṛn vừa vặn, khoét sẵn trên bàn học cho b́nh mực khỏi ngă, đổ. Bút bi thời đó đă có, gọi là bút nguyên tử, là thứ đầy hấp dẫn đối với học tṛ ngày ấy, nhưng bị triệt để cấm dùng. 

 

Các Thầy Cô quan niệm rằng rèn chữ là rèn người, nên nếu cho phép học tṛ lớp nhỏ sử dụng bút bi sớm th́ sợ khi học tṛ lớn lên, chúng sẽ dễ sinh ra lười biếng và cẩu thả trong tính cách chăng. Mỗi lớp học chỉ có một Thầy hoặc một Cô duy nhất phụ trách tất cả các môn. 

 

Thầy gọi tṛ bằng con, và tṛ cũng xưng con, chứ không xưng em với Thầy. Về việc dạy dỗ, không Thầy nào dạy giống Thầy nào, nhưng mục tiêu kiến thức sau khi học xong các cấp lớp phải bảo đảm như nhau. Thí dụ như học xong lớp Năm th́ phải đọc thông, viết thạo, nắm vững hai phép toán cộng, trừ; lớp Tư th́ bắt đầu tập làm văn, thuộc bảng cửu chương để làm các bài toán nhân, chia… Sách giáo khoa cũng không nhất thiết phải thống nhất, nên không có lớp học nào giống lớp nào về nội dung cụ thể từng bài giảng. 

 

 

Cứ mỗi năm lại có các Ban Tu Thư, có thể là do tư nhân tổ chức, soạn ra những sách giáo khoa mới, giấy trắng tinh, rồi đem phân phối khắp các nhà sách lớn nhỏ từ thành thị cho chí nông thôn. Các Thầy Cô được trọn quyền lựa chọn các sách giáo khoa ấy để làm tài liệu giảng dạy, miễn sao hợp với nội dung chung của Bộ Giáo Dục là được. 

 

Tuyệt nhiên không thấy có chuyện dạy thêm, học thêm ở bậc học này nên, khi mùa hè đến, học tṛ cứ vui chơi thoải mái suốt cả mấy tháng dài. Các môn học ngày trước đại khái cũng giống như bây giờ, chỉ có các bài học thuộc ḷng trong sách Việt Văn, theo tôi, là gây ấn tượng hơn nhiều. 

 

Đó là những bài thơ, những bài văn vần dễ nhớ, rất sâu sắc về t́nh cảm gia đ́nh, t́nh yêu thương loài vật, t́nh cảm bạn bè, t́nh nhân loại, đặc biệt là ḷng tự tôn Dân Tộc Việt. 

 

Tôi c̣n nhớ rơ trong sách Tân Việt Văn lớp Năm có bài học thuộc ḷng thật hay về đá bóng mà hồi đó gọi bằng từ rất hoa mỹ là túc cầu: 

 

 

TRẬN CẦU QUỐC TẾ


Chiều chưa ngă, nắng c̣n gay gắt lắm

Hai đội cầu hăng hái tiến ra sân

Tiếng hoan hô thêm dũng mănh bội phần

Để cổ vơ cho trận cầu quốc tế.

Đoàn tuyển thủ nước nhà hơi nhỏ bé

Nếu so cùng cầu tướng ở phương xa

C̣i xuất quân vừa lanh lảnh ban ra

Th́ trận đấu đă vô cùng sôi nổi.

Tiền đạo ta như sóng cồn tiến tới

Khi tạt ngang, khi nhồi bóng, làm bàn

Khiến đối phương thành rối loạn, hoang mang

Hậu vệ yếu phải lui về thế thủ

Thiếu b́nh tỉnh, một vài người chơi dữ

Nên trọng tài cảnh cáo đuổi ra sân

Quả bóng da lăn lộn biết bao lần

Hết hai hiệp và…đội nhà đă thắng

Ta tuy bé, nhưng đồng ḷng cố gắng

Biết nêu cao gương đoàn kết đấu tranh

Khi giao banh, khi phá lưới, hăm thành

Nên đoạt giải dù địch to gấp bội…

 

Bài học thuộc ḷng này, về sau tôi được biết là lấy cảm hứng từ chiếc cúp vô địch đầu tiên và duy nhất cho đến bây giờ của Việt Nam tại Đông Á Vận Hội trên sân Merdeka của Malaysia vào cuối thập niên 50, với những tên tuổi vang bóng một thời như Tam Lang, Ngôn, Cù Sinh, Vinh “đầu sói”, Cù Hè, Rạng “tay nhựa”… 

 

Tuy không biết chơi đá bonǵ, nhưng thằng bé là tôi lúc đó rất thích bài học thuộc ḷng này nên tự nhiên…thuộc ḷng luôn. 

 

Càng đọc, càng ngẫm nghĩ đó đâu phải là bài thơ chỉ nói về đá bonǵ mà thôi. Nó là bài học đoàn kết của một Dân Tộc tuy nhỏ bé, nhưng gan lỳ, bất khuất khiến cho cả thế giới phải ngước nh́n bằng đôi mắt khâm phục! 

 

Bạn thấy lạ lùng chưa, chỉ một bài thơ ngắn nói về một thứ tṛ chơi thôi, mà lại chứa đựng biết bao nhiêu điều vĩ đại, c̣n những lời ”đao to, búa lớn ồn ào” chắc chi đă làm được việc. 

 

Nói về môn Lịch Sử, hồi đó gọi là Quốc Sử, đă có sẵn bài học thuộc ḷng như sau: 

 

GIỜ QUỐC SỬ.


Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu

Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê,

Chúng tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe

Tiếng thầy giảng khắp trong giờ Quốc Sử.

Thầy tôi bảo:

“Các con nên nhớ rơ,

Nước chúng ta là một nước vinh quang.

Bao anh hùng thưở trước của Giang San,

Đă đổ máu v́ lợi quyền Dân tộc.

Các con nên đêm ngày chăm chỉ học,

Để sau này mong nối chí Tiền Nhân.

Ta tin rằng, sau một cuộc xoay vần,

Dân Tộc Việt vẫn là dân hùng liệt.

Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt,

Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam.

Bên những trang lịch sử bốn ngàn năm,

Đầy chiến thắng, vinh quang và hạnh phúc!”

 

H́nh ảnh ông Thầy dạy Sử trong bài học thuộc ḷng hiện lên, nghiêm nghị nhưng lại thân thương quá chừng, và bài Sử của Thầy, tuy không nói về một trận đánh, một chiến công hay một sự kiện quá khứ hào hùng nào, nhưng lại có sức lay động mănh liệt với đám học tṛ chúng tôi ngày ấy, đến nỗi mấy chục năm sau, chúng tôi vẫn nhớ như in.

 

Anh hùng vô danh.

 

Họ là những anh hùng không tên tuổi,

Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông.

Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,

Nhưng can đảm và tận t́nh giúp nước.

Họ là kẻ tự ngh́n muôn thuở trước,

Đă phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu.

Và làm cho những đất cát hoang vu,

Biến thành một dăy sơn hà gấm vóc!

 

Lại có bài song thất lục bát về ông Thầy dạy Địa lư, không nhớ tác giả là ai, nhưng chắc chắn tựa đề là “Tập vẽ bản đồ”, phía lề trái c̣n in cả h́nh minh họa Quần Đảo Trường Sa và Hoàng Sa:

 

Hôm qua tập vẽ bản đồ,

Thầy em lên bảng kẻ ô rơ ràng.

Ranh giới vẽ phấn vàng dễ kiếm,

Từ Nam Quan cho đến Cà Mau.

Từng nơi, Thầy thuộc làu làu,

Đây sen Đồng Tháp,

đây cầu Hiền Lương, Biển Đông,

trùng dương xanh thẳm,

Núi cheo leo Thầy chấm màu nâu.

Tay đưa mềm mại đến đâu,

Sông xanh uốn khúc, rừng sâu chập chùng…

Rồi với giọng trầm hùng, Thầy giảng:

“Giống Rồng Tiên chói rạng núi rừng,

Trải bao thăng giáng, phế hưng,

Đem gịng máu thắm, bón từng gốc cây.

Làn không khí giờ đây ta thở,

Đường ta đi, nhà ở nơi này,

Tổ tiên từng chịu đắng cay,

Mới lưu truyền lại đêm ngày cho ta.

Là con cháu muôn nhà ǵn giữ,

Đùm bọc nhau, sinh tử cùng nhau.

Tóc Thầy hai thứ từ lâu,

Mà tài chưa đủ làm giàu núi sông!

Nay chỉ biết ra công dạy dỗ,

Đàn trẻ thơ mong ở ngày mai.

Bao nhiêu hy vọng lâu dài,

Dồn vào tất cả trí tài các con …”

 

Giờ đây, mấy chục năm đă trôi qua, tóc trên đầu tôi cũng bắt đầu hai thứ như ông thầy già dạy Địa trong bài học thuộc ḷng ngày ấy, nhưng có một điều mà tôi nghĩ măi vẫn chưa ra. Ông thầy đang dạy Địa, hay ông thầy đang âm thầm truyền thụ ḷng yêu nước, ḷng tự tôn dân tộc cho đàn trẻ thơ qua mấy nét vẽ bản đồ? 

 

Lời của Thầy thật là nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng cũng thật là tha thiết, chạm vào được chỗ thiêng liêng nhất trong tâm hồn những đứa trẻ ngây thơ vào những ngày đầu tiên cắp sách đến trường, nơi chúng được dạy rằng ngoài ngôi nhà nhỏ bé của ḿnh với ông bà, cha mẹ, anh em ruột thịt, chúng c̣n có một ngôi nhà nữa, rộng lớn hơn nhiều, nguy nga tráng lệ, thiêng liêng, vĩ đại hơn nhiều, một ngôi nhà mà chúng phải thương yêu và có bổn phận phải vun đắp. 

 

 

Phan Văn Phước

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính