Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm một đời v́ Nước v́ Dân

 

Chương 2 Bài đọc thêm

NĂM

 

 

  

Bắc Kỳ di cư 1954

 

 

Lạp Chúc Nguyễn Huy

Posted on September 21, 2021 by Lê Thy (nguồn: http://viethocjournal.com)

 

Sau hiệp định Genève 1954, sự chia đôi nước Việt thành hai quốc gia đă tạo nên luồng sóng chạy trốn cộng sản vào miền Nam đi t́m tự do. Cuộcdi cư lịch sử này có thời hạn là 300 ngày. Sự giám sát thực thi hiệp định được trao cho Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến được thành lập theo điều 34 của hiệp định với đại diện của ba nước Ấn Độ, Ba Lan, và Canada.

 

Để tiếp nhận và định cư Bắc Kỳ di cư tỵ nạn, chính phủ Quốc Gia miền Nam tổ chức ngay:

 

Các phương tiện chuyên chở người tỵ nạn vào Nam bằng đường thủy và hàng không.

 

Lập ủy ban đón tiếp và hướng dẫn dân tỵ nạn đến tạm cư tại các trạm cư trú rải rác tại Sàig̣n và Gia Định.

 

Thành lập cơ quan lo tái định cư như Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn hoạch định một chính sách thành lập các khu định cư thường trực, lo chuyên chở nông dân và ngư dân đến định cư, giúp đỡ tiền bạc, thực phẩm và vật liệu xây cất trong thời gian đầu chưa ổn định. Các thành phần tư sản, trí thức, công tư chức và thương gia tự túc định cư tại các thành phố. Riêng các nông dân và ngư dân th́ phải trông cậy vào kế hoạch định cư và trợ giúp tài chánh của chính phủ. Đến tháng 8/1955, làn sóng di cư vào miền Nam tự do đă lên tới 887.917 người [1].

 

THỜI HẠN RÚT QUÂN VÀ DI CƯ

 

Điều 14, đoạn b, của Hiệp Định Genève được kư kết ngày 20/7/1954 quy định:“Trong thời gian kể từ khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực đến ngày hoàn thành việc chuyển quân, nếu có những thường dân ở một khu thuộc quyền kiểm soát của bên này mà muốn sang ở vùng giao cho bên kia, th́ nhà chức trách của khu trên phải cho phép và giúp đỡ sự di chuyển ấy”.

 

Sự chuyên chở người tỵ nạn hầu hết do hải quân Hoa Kỳ và Pháp phụ trách. Với trợ giúp tài chánh của Hoa Kỳ, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm tổ chức di cư như sau:

 

Thời hạn quân đội Liên Hiệp Pháp rút khỏi Bắc Việt trùng hợp với di cư là 300 ngày chia làm 3 thời hạn:

 

Khu Hà Nội: 80 ngày.

 

Khu Hải Dương: 100 ngày.

 

Khu Hải Pḥng: 300 ngày.

 

Công việc tiếp cư tại Hải Pḥng kéo dài như thế cho đến ngày 19/5/1955, nhưng v́ số người di cư quá đông, Cao uỷ Pháp đă xin gia hạn thêm ba tháng và phía Hà Nội đă thoả thuận nên ngày cuối cùng thay v́ là ngày 19/5 được đổi thành ngày 19/8. Trong thời gian gia hạn, có thêm 3.945 người đă vượt tuyến vào Nam.

 

PHƯƠNG TIỆN CHUYÊN CHỞ NGƯỜI TỲ NẠN

 

V́ không có đủ phương tiện cho những người di cư vào Nam nên chính quyền Pháp và Việt Nam phải kêu gọi các nước khác giúp chuyên chở và định cư. Các chính phủ Anh, Tây Đức, Hoa Kỳ, Nhật, Trung Hoa Dân Quốc, Úc hưởng ứng cùng các tổ chức quốc tế (UNICEF, Hồng Thập Tự, Catholic Relief Services (CRS), Church World Services (CWS), Mennonite Central Committee (MCC), International Rescue Committee (IRC), CARE).

 

Eisenhower hưởng ứng lời kêu gọi của Thủ Tướng Diệm đă ra lệnh cho chủ lực 90 của Đệ thất hạm đội Mỹ đến Việt Nam giúp đỡ việc chuyên chở người di cư.

 

Các người tỵ nạn Cộng Sản dùng đủ mọi phương tiên di chuyển để đến địa điểm tập trung di tản, thí dụ như người tỵ nạn đi từ cửa Cồn Thoi ra Hải Pḥng trên những mảnh bè tre nứa ghép lại một cách vội vă (xem h́nh). Đa số đi bằng đường thủy và đường hàng không để di cư vào miền tự do.

 

Đường thủy:

 

Tàu thủy Pháp chở được 338 chuyến, tàu Mỹ 109 chuyến, tàu Anh 2 chuyến, tàu Trung Hoa, 2 chuyến, tàu Ba Lan 4 chuyến, tổng cộng là 555.037 người. Hầu hết các tầu thủy đều cặp bến Sàig̣n.

 

Đường hàng không:

 

Theo tài liệu trong Cuộc Di Cư Lịch Sử, máy bay Pháp chở được 4.280 chuyến, tổng cộng 213.635 người. Bên cạnh máy bay của Pháp c̣n có các hăng máy bay tư giúp sức như Air France, Air-Việt Nam, Autrex, Aigle-Azur, Air-Outremer, Cat, Cosara và U.A.T. Đó là cây cầu hàng không lớn nhất nối liền giữa Hà Nội, Hải Pḥng - Sàig̣n, dài 1.174 cây số. Và một số người đi bằng phương tiện riêng là 102.861 người.

 

Cộng chung tất cả là 871.553. Một con số được coi là khá chính xác so với tài liệu chính thức trong trang 120 của cuốn “Cuộc Di Cư Lịch Sử” của Phủ Tổng Ủy di cư.

 

KHU TIẾP CƯ

 

Việc chỉ có 300 ngày để di cư trong khi số lượng người di cư rất lớn khiến chính quyền Ngô Đ́nh Diệm phải xây 42 trung tâm tạm cư. Các trạm này sử dụng các công tŕnh công cộng có sẵn như trại lính Pháp, nhà thờ, một số trường ḍng. Hàng ngàn người đă ở trong các lều tạm ở sân bay Tân Sơn Nhất và trường đua Phú Thọ.

 

Sàig̣n có 10 trung tâm tiếp cư chính là: Phú Thọ, Xuân Trường (Thủ Đức), Nhị Thiên Đường, B́nh Đông 1, B́nh Đông 2, B́nh Đông 3, Bảo Hưng Thái, Rạch Rừa, B́nh Trị Đông và B́nh Thới. Ngoài ra c̣n có những trung tâm tiếp cư lẻ tẻ như Bệnh viện B́nh Dân, Nhà Kiếng, Tân Sơn Nhất, Dạ Lữ Viện, Rạch Dừa và các trường học ở Sàig̣n, Chợ Lớn, Gia Định, Thủ Đầu Một hay ở G̣ Vấp như các trường Tôn Thọ Tường, Nguyễn Tấn Nghiệm, Pétrus Kư, Cây Gỗ lớn, Cây Gỗ nhỏ, Đỗ Hữu Phương, Phú Thọ, Đa-kao, Khánh Hội và các trạm cứu hỏa đường Trần Hưng Đạo, tỉnh Gia Định và trại tiếp cư Ḥa Khánh ở Chợ Lớn v.v... Các thành phần như sinh viên, học sinh, nhất là phái nữ th́ được ưu tiên tạm trú tại trường Gia Long, trường Pétrus Kư và 2.000 người tạm trú tại các trường học ở Gia Định v́ lúc đó các trường đang nghỉ hè.

 


Đặc biệt là trại tạm cư Phú Thọ c̣n được gọi là Phú Thọ “lều”, v́ ở trong các lều. Các lều này được chuyên chở từ Nhật về trong các kho dự trữ của chính phủ Mỹ ngày 31/7/1954. Đợt đầu tiên là 2.000 căn lều bạt đă tới Sàig̣n và trù liệu chỗ trú ẩn cho 40.000 dân di cư. Tức khoảng 4 gia đ́nh với trung b́nh 4 người trong một nhà lều.

 

CƠ QUAN ĐẶC TRÁCH DI CƯ

 

Ngày 9/8/1954: Miền Nam lập phủ “Tổng ủy phụ trách đồng bào tỵ nạn” theo NĐ 111TTP-VP, ông Nguyễn Văn Thoại làm Tổng Ủy trưởng di cư, phụ tá là kỹ sư Đinh Quang Chiêu.

 

Năm 1955, thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn để hoạch định chương tŕnh định cư dân tỵ nạn đặc biệt là các nông dân trên đồng bằng Cửu Long. Phụ trách là ông Mai Văn Hàm, Bùi Văn Lương. Ngoài ra c̣n có bốn vị đă lần lượt trông coi, chăm sóc cho người di cư là: bác sĩ Phạm Hữu Chương, ông Ngô Ngọc Đối, bác sĩ Phạm Văn Huyến và bên cạnh đó, có Đức cha Phạm Ngọc Chi được chỉ định làm Chủ tịch Ủy ban hỗ trợ định cư. Tại Hà Nội. Phủ Tổng Ủy Di Cư đặt một Nha Di Cư gồm ba người đảm nhiệm (Bác sĩ Hoàng Cơ B́nh và ông Trần Trung Dung lo về dân sự và Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vận lo chuyển vận quân đội vào Nam).

 

KẾ HOẠCH ĐỊNH CƯ

 

Kế hoạch định cư được thực hiện theo ba giai đoạn:

 

Giai đoạn 1: Từ tháng 10-12/1954.

 

Phủ Tổng Ủy Di Cư cố gắng giải quyết các vấn đề cấp bách trong các trại tạm cư như:

- Cung cấp lều tạm trú, thực phẩm (gạo, mắm muối, cá khô…).

- T́m kiếm đất cho các khu định cư.

 

Trong thời gian này, đời sống của dân tỵ nạn rất là khó khăn: sống chui rúc dưới lều vải, chia nhau từng giọt nước uống cung cấp bởi các “camion citerne”, làm bếp dưới nắng cháy da, muỗi, ruồi, bệnh tật quấy nhiễu ngày đêm. Thêm vào khổ ải đó là nhàn rỗi, nhớ thôn xóm xưa, lo lắng đến một tương lai bất định…V́ vậy một số di dân sanh ra bất măn, phiền trách sự chậm chạp t́m đất định cư cho họ.

 

Giai đoạn 2: Định cư từ tháng 1-6/1955.

 

Đây là thời kỳ thành lập các trung tâm định cư. Với sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, Phủ Tổng Ủy Di Cư quyết định chọn lựa các khu định cư, hoạch định đồ án xây cất (làm đất, chia lô...), ước tính kinh phí của chính phủ... rồi phổ biến tin tức đó trong các trại tạm cư. Sau đó một đại diện dân chính hoặc cha xứ của khu định cư tương lai sẽ đi quan sát khu định cư để lấy quyết định thay cho di dân. Tiếp theo, chính phủ sẽ lo việc chuyên chở, giúp đỡ tài chánh, thực phẩm, đồ gia dụng thiết yếu như mùng mền, đũa chén...

 

Giai đoạn 3: Kiện toàn định cư từ tháng 6/1956.

 

Sau khi di dân đă sống trong các khu định cư rồi, Phủ Tổng Ủy Di Cư làm nhiệm vụ cuối cùng là kiểm điểm và hoàn thiện một cách khoa học và hợp lư như t́m địa điểm, tài nguyên thích hợp cho từng nghề nghiệp cho từng loại dân di cư. Thí dụ, trước số di dân quá đông đảo, lại thiếu nhân viên phụ trách, Phủ Tổng Ủy Di Cư phạm một số sai lầm trong việc lựa chọn địa điểm định cư và phân chia di dân theo nghề nghiệp.

 

Năm 1955, chính phủ thành lập một Ủy Ban Cao Cấp gồm các chuyên viên nha định cư, nha kỹ thuật và phái đoàn viện trợ Mỹ. Ủy ban này duyệt xét lại các trung tâm định cư về mặt kỹ thuật và phối trí di dân theo ba nghề (nông, ngư, thủ công) cho phù hợp với mỗi trung tâm.

 

Theo tài liệu năm 1955 của Tổng Ủy Di Cư, số dân tỵ nạn do chính phủ trợ giúp được phân phối theo nghề nghiệp như sau: nông dân chiếm 80% trên tổng số, c̣n công nghiệp 10% và ngư nghiệp 10% được phân phối trong các trung tâm sau:

 

 

 

THÀNH QUẢ

 

Cuối năm 1955, Phủ Tổng Ủy Di Cư đă định cư trên đồng bằng Cửu Long 393.354 di dân trên tổng số 508.949 thôn dân di cư (Nguồn: Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn).

 

Số di dân đă định cư được phân phối như sau:

 

Theo bảng phân phối trên, hai phần ba dân tỵ nạn sống tiếp cận Sàig̣n-Gia Định để hành nghề thủ công, dịch vụ... Riêng tỉnh Biên Ḥa có 56 trung tâm định cư với 107.947 dân tỵ nạn sống nghề khai thác gỗ rừng và canh tác trên các mảng phù sa cổ. Từ 1955, các trung tâm định cư ở Gia Định và Biên Ḥa giữ vai tṛ điều ḥa dân số tỵ nạn như vừa cung cấp di dân cho các khu dinh điền và khu trù mật, vừa là nơi rút lui của những di dân gặp khó khăn về kinh tế cũng như an ninh do cộng sản gây ra.

 

KHẢO CỨU THỰC ĐỊA MỘT KHU ĐỊNH CƯ: Cái Sắn

 

Năm 1955, nhằm đi t́m đất định cư dân tỵ nạn, chính phủ thành lập một phái đoàn gồm các chuyên viên Hoa kỳ, Tây Đức và đại diện bộ canh nông và cải cách điền địa. Phái đoàn tŕnh lên chính phủ dự án Cái Sắn tổn phí 228.607.252$VN (1/4 ngân khoản Mỹ viện trợ cho 129 dự án định cư). Dự án Cái Sắn 1 (số 15), gồm bốn dự án định cư khoảng 100.000 dân tỵ nạn trên 77.000Ha đất bỏ hoang. Dự án chính là đào kênh và ba dự án phụ là cất nhà, mua nông cụ, thực phẩm và tiền trợ cấp cho di dân trong năm đầu.

 

Cái Sắn hội đủ các điều kiện về đất đai ph́ nhiêu, lư tưởng của một trại định cư kiểu mẫu và trù phú. Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm gọi vùng đất này là để “dành cho con

 

người, để nối liền Long Xuyên với Rạch Giá và qua Rạch Giá, mảnh đất đem lại yên hàn và trật tự cho vùng này”.

 

C̣n đối với người Mỹ th́ như nhận xét sau đây trong Passing the Torch: Cái Sắn was hailed by the US as a

 

symbol of South Viet Nam„s determination to shelter people who linked their future with that of the free government [2]

 

(Cái Sắn được chính quyền Mỹ chào đón như biểu tượng về ḷng quyết tâm của miền Nam Việt Nam để che chở những ai đặt tương lai của họ vào tương lai của một chính quyền tự do).

 

Nha định cư đă đưa tất cả 42.145 đồng bào tới định cư ở Cái Sắn, gồm 15 trại định cư và 8.325 căn nhà.

 

Giải đất h́nh chữ nhật, rộng đến 270.000 ngàn mẫu tây, chiều dài kênh Cái Sắn là 25 dặm, chiều ngang 16 dặm, được tưới tiêu bằng con kênh Rạch Sỏi, chạy dọc theo trại và đổ ra ḍng sông Bassac. Kênh đó nay được gọi là kênh Cái Sắn, một trong những vùng đất lư tưởng nhất cho việc định cư. Phía Bắc có 14 con kênh đào, phía Nam có 3 kênh. Thêm vào đó là 13 kênh nhỏ với chiều dài tổng cộng là 159km. Những con kênh này, bề ngang rộng 6m và sâu 4m, chiều sâu ở giữa kênh và bờ kênh th́ sâu 1.50m. Bên mỗi bờ kênh, sâu vào 20m là những căn nhà ở của dân chúng. Đất đào ở các con kênh th́ dùng để đắp nền nhà. Việc đào kênh đều làm bằng tay mà trung b́nh một người đào được khoảng 7m3/ngày.

 

Các kênh được gọi là kênh 1, kênh 2, kênh 3, kênh 4, kênh 5 rồi kênh Tân Hiệp và sau đó tiếp theo là các kênh A, B, C, D, E, F, G, và H. Cộng chung tất cả các kênh gồm 8.086 lô đất. Mỗi lô đất dành cho một gia đ́nh là 3 mẫu tây vừa là nhà ở và đất để trồng trọt. Mỗi lô đất rộng 30m tây chiều ngang và 1.000m chiều dài.

 

Nhưng để đất có thể trồng trọt được, cơ quan USOM đă dùng 110 máy ủi đất để cào xới đất, sau đó dùng máy cầy san đất. Tính chung là 1.800.000m2 đất đă được ủi và cào xới. Chính quyền có cấp phát cho các gia đ́nh trâu để cầy ruộng. Trâu mua từ Thái Lan về. Đă có 2.148 con trâu đă được cấp phát cho các trại di cư ở Nam Phần và 40 con ở Trung Phần.

 

Riêng ở Cái Sắn, cứ 4, 5 gia đ́nh chung nhau một con trâu để cầy ruộng. Sau này, nhiều người có tiền th́ có thể mỗi nhà có một con trâu để lo việc cầy bừa ruộng.

 

Trên toàn thể các trại di cư, chính phủ đă giúp đào được 5.405 cái giếng và phân phối khoảng 400 tấn phân bón.

 

Đồng thời phân phối khoảng 60 ngàn cuốc xẻng. Chính phủ cũng cho nông dân đi định cư vay một số tiền là 118.217.200 triệu đồng.

 

Hầu hết diện tích 270.000 mẫu tây dành cho người di cư và một phần dành cho người dân địa phương chưa có nhà cửa. Những cư dân địa phương, khoảng 20.000 ngàn người th́ được ở khu vực kênh Tân Hiệp vốn đă có sẵn từ trước.

 

Chính phủ Hoa Kỳ c̣n cung cấp cho dân định cư, lúc đầu là 50.000 người, dự trù thêm 50.000 nữa, một số tiền là 400 triệu đồng cùng với tất cả các dụng cụ nông nghiệp mà số tiền tính ra khoảng 1 triệu Mỹ kim.

 

Mùa gặt đầu tiên ở Cái Sắn đă thu về được 4.000 tấn gạo mà phần lớn từ mùa thu hoạch “lúa xả, hay floating rice”.

 

Cái Sắn là một tiêu biểu cho sự thành công của người di cư tỵ nạn CS.

 

THỰC HIỆN

 

Diệm kư sự vụ văn thư 133 TTP/KH ngày 17/1/ 1956 bổ nhiệm bảy công chức cao cấp trách nhiệm thực hiện dự án Cái Sắn:

 

Tổng Ủy trưởng Di Cư Tỵ Nạn và đại biểu chính phủ tại Nam Phần theo dơi thi hành huấn lệnh của Tổng Thống.

 

Tổng giám đốc kế hoạch lo phối trí kế hoạch và thanh toán viên ngân sách.

 

Đổng lư văn pḥng bộ Cải Cách Điền Địa lo việc cày đất và bảo tŕ nông cụ.

 

Giám đốc định cư thuộc Tổng Ủy trông nom việc chuyên chở di dân.

 

Tổng thư kư bộ công chánh phụ trách đào vét kênh.

 

Giám đốc nha canh nông phát lúa giống, cày cuốc...

 

Từ tháng 3/1956, bộ Công Chánh đă vét hai kênh đào cũ nối với kênh Rạch Sỏi - Bắc Sắc và kênh Rạch Giá - Long Xuyên và đào 17 kênh mới song song với nhau, cách nhau từ 2km - 2,5 km và thẳng góc với hai kênh trên. Mỗi kênh mới dài 12km, rộng 8m, sâu 1,5m. Công việc đào kênh kết thúc vào tháng 5/1956. Ngày 14/1/1956, báo chí loan tin dự án Cái Sắn. Một tuần lễ sau, Tổng Ủy Di Cư nhận được 42.850 đơn xin định cư. Trung tâm Cái Sắn 1 được chính thức thành lập ngày 27/1/1956 tại xă Thạnh Qưới trên một diện tích 27. 153Ha (16. 337Ha nằm trong địa phận tỉnh An Giang và 10. 816Ha thuộc tỉnh Kiên Giang). Trên lư thuyết, trung tâm Cái Sắn dự liệu định cư 9.000 gia đ́nh gồm khoảng 45. 000 người trong giai đoạn đầu tiên. Việc thu mua ruộng đất để cấp phát cho di dân th́ dưạ vào dụ số 7 và 57 của luật Cải Cách Điền Địa:

 

Dụ số 7 (ngày 5/2/1955) quy định dân tái canh ruộng hoang với tư cách tá điền. Chủ điền khai báo ruộng bỏ hoang và ruộng xin giữ lại, phần c̣n lại bán cho chính phủ cấp lại cho dân tỵ nạn nhưng việc thi hành dụ số 7 gặp rất nhiều khó khăn. Tổng kết ruộng Cái Sắn cấp phát cho dân qua dụ số 7 là 15.387Ha.

 

Dụ số 57 (ngày 22/10/1956). Chủ điền chỉ giữ lại 100Ha và bán số Ha c̣n lại cho chính phủ. Tổng cộng 4.845Ha (qua thỏa ước Việt Pháp) và 6.252Ha công điền, công thổ đă được cấp phát theo dụ số 57.

 

ĐÓN TIẾP DI DÂN

 

Khi tới Cái Sắn, dân di cư tỵ nạn sống tạm dưới lều nhà binh hoặc trong những lán lợp lá dừa nước cất tạm bên lộ đường. Mỗi lán dài 20m và rộng 9m, mỗi gia đ́nh ở một căn (9m2) trong lán. Chính phủ trù liệu ngân khoản 45.360. 000$VN để giúp đỡ di dân trong những ngày khó khăn đầu tiên trên vùng đất bỏ hoang từ 10 năm nay.

 

Mỗi người di dân trên 18 tuổi nhận được trợ cấp như sau:

- 244$VN để đầu tư lúc đầu vào việc định cư.

- Lănh 4$VN mỗi ngày trong 9 tháng kể từ ngày định cư.

 - 15 giạ (300 lít) hạt giống lúa, một bao lớn đựng túi hạt giống bắp, đậu, cà chua.

 

Về thực phẩm hàng ngày, di dân được cung cấp gạo, bột bắp, nước mắm, muối, cá khô và thỉnh thoảng có bơ, sữa bột của chương tŕnh viện trợ hoa kỳ dưới nhăn hiệu “Food for freedom”.

 

Chính phủ cung cấp cho mỗi gia đ́nh:

- Một chiếc ghe tam bản (dài 2,5m trên 0,5m) để di chuyển.

- Cưa, liềm gặt lúa, dao phát cỏ, cuốc và hai thùng phuy đựng nước uống rất hiếm trong vùng này.

 

Trong chương tŕnh y tế, chính phủ cho xây trường học và bệnh xá, mua 6.730 chiếc mùng đơn trị giá 750.000$ VN và 6.730 mùng đôi phí tổn 740.000$VN.

 

THIẾT KẾ VÀ QUẢN TRỊ

 

Trung tâm định cư được chia thành lô rộng 30m, dài 1.000m, chạy dài theo kênh đào tạo nên h́nh ảnh cư trú đươc hoạch định gồm những hàng nhà song song dọc theo hai bên bờ kênh và đâu mặt với nhau. Mỗi kênh dài 12km, ngang 8m, sâu 1,5m gồm hai xứ đạo, mỗi xứ có một giáo đường xây dựng trên 3 hoặc 6 lô đất, ở cây số thứ 3 và 8 để cho tiện giáo dân di chuyển.

 

Sau khi bốc thăm chọn lô đất, mỗi chủ gia đ́nh được phát 800$VN để làm nền nhà và một số vật liệu kiến trúc để dân tự cất, mướn, đổi công đắp nền. Ngoài ra chủ gia đ́nh phải tham dự đắp đường làng trải dài theo bờ kênh và vui ḷng đóng góp công sức vào việc xây cất giáo đường của xứ.

 

Về việc điều hành hành chánh, các nhà dọc theo kênh tập hợp thành nhiều trại. Mỗi trại có một ban quản trị gồm ba người (chủ tịch do Tổng Ủy bổ, thư kư và ủy viên tài chánh do dân của trại bầu). Tất cả các ủy ban quản trị đặt dưới sự điều hành của ủy ban định cư do tỉnh trưởng làmchủ tịch quản trị nội bộ, thi hành dự án. Về an ninh, 100 nhà cử 20 người vào ban tự vệ do quận trưởng điều động. Trên thực tế, các cha xứ là người nắm giữ nhiều quyền hành, nhất là về ổn định đời sống tinh thần và vật chất của di dân.

 

KHÓ KHĂN

 

Việc định cư gặp rất nhiều khó khăn trong những năm đầu.

 

Khó khăn thứ nhất là sự bất măn của 636 điền chủ bị truất hữu hoặc không hưởng được tiền bồi thường v́ không cung cấp được cho chính quyền giấy tờ chứng minh sở hữu và thừa kế.

 

Khó khăn tiếp là vấn đề kỹ thuật và tổ chức. Để sửa soạn cho mùa lúa 1956-1957, bộ Canh Nông gởi 200 máy cày, máy ủi và trâu đến cày 12.000Ha. V́ thiếu kinh nghiệm kỹ thuật (ráp nhầm, máy hư, thiếu người lái...) nên chỉ có 63 máy cày hoạt động được. Công việc cày rất là gian khổ v́ đất bỏ hoang từ 10 năm nay, đất lún, nhiều mô đất cao, cỏ dại khó ủi mọc lại ngay sau một tháng. Đến tháng 7 chỉ cày được 9.126Ha cho mùa 1956. Đầu tháng 7/1957, chính phủ gởi đến 466 con trâu mua của Thái Lan (dự trù 2.400 con mới đủ một con cho bốn gia đ́nh) nhưng trâu này nghịch phá, không thuần như trâu Việt. Tiếp theo, chính phủ cung cấp thêm 650 cày tay mua của Đài Loan nhưng cày tay loại này quá yếu ớt nên găy dễ dàng khi gặp đất thịt cứng.

 

Trong mùa lúa đầu, chính phủ cung cấp cho mỗi gia đ́nh: 15 giạ thóc giống (Một giạ bằng khoảng 20 lít), 1 bao hạt giống (bắp, đậu, bí, cà chua...), cào cỏ, liềm, xẻng, cuốc bản, b́nh xịt thuốc. Ban quản trị và cha xứ hết sức đôn thúc dân làm tập thể vụ mùa 1956 nhưng v́ nạn chuột và cỏ dại nên chỉ thu hoạch được 7.882 tấn lúa.

 

TIẾN ĐẾN THÀNH CÔNG

 

Trước khi chính thức thành lập khu định cư Cái Sắn, nhờ thông tin của chính phủ cùng với phóng sự báo chí rất là lạc quan về tương lai của miền đất hứa nên rất nhiều đơn xin đi định cư. Sau vài tháng thu hoạch thất bại vụ mùa 1956, dân tỵ nạn mất tin tưởng và ảnh hưởng đến tinh thần định cư tại Cái Sắn.

 

Các ban quản trị và các cha xứ cố gắng đốc thúc dân cải thiện điều kiện canh tác cho mùa lúa 1957 như xử dụng máy cày, vét kênh rút nước, san bằng đất gồ ghề, chăm phạt cỏ giết chuột. Kết quả sự thâu hoạch vụ mùa 1957 tăng lên 13.400 tấn lúa. Tương đối tổng số thâu hoạch chưa đủ thỏa măn nhu cầu thực phẩm của dân chúng nhưng cũng đủ để dân chúng an tâm cho thu hoạch vụ mùa tới nếu chịu cải thiện điều kiện canh tác. Cuối năm 1957, Cái Sắn được địa phương hóa.

 

Tháng 2/1958, Tổng Ủy Dinh Điền loan báo Cái Sắn phải tự túc cho những vụ mùa tới và thu lại đoàn máy cày của Quốc Gia Nông Cụ Cơ Giới Cuộc. Sợ dân bỏ đất hoang v́ tiền thuê máy cày và trả công rất cao (550$/Ha), cha xứ kênh D (Linh mục Nguyễn Đức Do) được Quốc Gia Nông Tín Cuộc cho vay 1.090.000$VN mua 4 máy cày Fiat, 350.000$VN mua hạt giống, 510.000$VN bảo tŕ máy cày. Nhờ vậy mà dân hăng hái ra đồng làm việc và dân đă bỏ đi th́ trở lại. Tới tháng 6, dân đă cày đủ 21. 000Ha ruộng. Theo gương đó, kênh G (230 gia đ́nh) cũng góp mua được 2 máy cày. Các kênh khác cũng được Quốc Gia Nông Tín Cuộc cho vay để mướn cày máy cho kịp vụ mùa. Các biện pháp tự túc trên làm cho khu định cư nhộn nhịp trở lại với đầy tin tưởng vào tương lai.

 

Vụ mùa 1958 đă nâng số sản xuất lên 21.500 tấn lúa, tăng thêm đất canh tác, trồng thêm nhiều loại hoa màu mới (thuốc lá, bắp, rau cải...) và số lượng sản xuất nông phẩm tăng đều mỗi năm.

 

Để kết luận bài khảo cứu thực địa, tôi mượn vài vần thơ nhớ về Cái Sắn của thi sĩ Thanh Huyền trong Hồi Kư Không Trọn Vẹn dưới đây.

 

NGƯỢC GỈNG (Di Cư 1954 - Cái Sắn)

 

January 24, 2016

 

Từ vàm Cái Sắn Hậu Giang

Đổ về Rạch giá đếm bằng đầu kênh...

Cuối kênh th́ giáp Thoại Giang

Thông thương đường thủy dọc ngang toàn vùng...

 

Di cư từ Bắc mới vào

Kinh qua các trại, trại nào cũng vui

 

Nhưng v́ lối sống đă quen

Ruộng đồng cấy hái hợp hơn miền rừng

 

Nồi niêu gạo thóc cá khô

Lương thực đầy đủ phát cho từng nhà

Tới khi hoàn tất kinh đào

Th́ theo thứ tự cùng vào định cư

Ruộng chia ba mẫu một lô

Ba năm cầy cấy giúp cho không ḥan

Vật liệu một bộ nhà tràm

Phương tiện đầy đủ như là “ra riêng”!

 

Ruộng sâu dầy đặc cá tôm

Lúa mùa căng sữa chĩu bông mộng vàng

Được mùa khu xóm rộn ràng

Nhà trục nhà cắt nhip nhàng gom thu

Không lâu đă trở nên quen

Vào mùa nước nổi chúng em đua thuyền

 

Khi đi chèo vội đến trường

Lúc về chia toán nhận xuồng của nhau.

 

Chú thích:

 

Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn, Cuộc di cư lịch sử tại Việt

Nam, Sàig̣n 1958, tr.7

Nguyễn Văn Lục, trích Passing the Torch, trang 141.

(H́nh ảnh ban đầu của khu định cư Cái Sắn)

 

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính