CHƯƠNG 1 - BÀI ĐỌC THÊM

 

 

Bốn & Năm

 

Ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu

 

 

Nếu nói về sự nghiệp của TT Ngô Đ́nh Diệm, mà không nói tới ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu th́ thật là một thiếu sót lớn. Bởi v́ ông Ngô Đ́nh Nhu được coi như là một Kiến Trúc Sư, đă góp phần xây dựng nền móng vững chắc cho chế độ CHVN. Là một cố vấn, ông đă giúp TT Ngô Đ́nh Diệm, giải quyết nhiều công việc khó khăn lúc ban đầu. Ông đă hoạch định và phát triển chương tŕnh Ấp Chiến Lược ở nông thôn, trong công cuộc chống CS, đă đạt được nhiều kết quả rất khả quan. Nhưng tiếc rằng, sau khi làm đảo chính, lên cầm quyền, tướng Dương Văn Minh đă ra lệnh phá hủy tất cả các Ấp Chiến Lược, thành ra Việt Cộng đă có các vùng thôn, ấp bỏ ngỏ rất an toàn để ẩn náu và hoạt động mạnh mẽ trở lại, đưa đến hậu quả góp phần mất toàn miền Nam ngày 30/4/1975, khiến Dương Văn Minh đă phải nhục nhă đọc lệnh đầu hàng Bắc Việt.

 

Ông Ngô Đ́nh Nhu sinh ngày 7/10/1910 tại Huế, nhưng nguyên quán ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng B́nh. Khác với hai người anh của ḿnh là Ngô Đ́nh Khôi và Ngô Đ́nh Diệm xuất thân Nho Học và ra làm quan cho triều Nguyễn. C̣n ông Ngô Đ́nh Nhu th́ lại theo Tây Học. Giữa thập niên 1930 khi du học tại Pháp, ông là thủ lănh sinh viên Việt Nam, ông đă phụ giúp sinh viên biểu t́nh ủng hộ Mặt Trận B́nh Dân Pháp do nhà xă hội Léon Blum cầm đầu, và về sau ông đă giúp TT Ngô Đ́nh Diệm thu nhận nhân tài tại Pháp về nước giúp xây dựng và phát triển Miền Nam VN. Sau khi đỗ Cử nhân Văn Chương tại Pháp, ông Ngô Đ́nh Nhu theo học ngành Archiviste Palégraphe tại trường Quốc gia Cổ Tự Học (École National des Chartres) là một trường rất nổi tiếng tại Paris.

 

Năm 1938, ông Ngô Đ́nh Nhu trở về VN và đảm nhận chức vụ Thống kê viên Nha Văn Khố Trung Ương Hà Nội từ năm 1938-1943. Sau đó ông làm Chủ sự Pḥng Văn Khố Ṭa Khâm Sứ Huế. Và cũng đă được ông Trần Văn Lư, Đổng Lư Ngự Tiền Văn Pḥng của Nam Triều mời giữ chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Chỉnh Đốn Châu Bản của Văn Khố nhà Nguyễn.

 

Năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, ông được chính phủ Trần Trọng Kim cử giữ chức Giám Đốc Văn Khố Trung Ương tại Hà Nội. Trong thời gian này ông có viết một tác phẩm bằng tiếng Pháp, nhan đề là “La Fête de l’ouverture du Printemps a Hanoi sous les Postérieurs”.

 

Năm 1945, khi Hồ Chí Minh cướp chính quyền tại Hà Nội, ông bị Hồ Chí Minh lùng bắt trong một đêm mưa gió, nhưng ông đă trốn thoát và đến tá túc tại Đại Chủng Viện Phát Diệm. Sau đó bộ chỉ huy pḥng thủ Phát Diệm đă dùng chiếc xe kéo tay che phủ kín, rồi cho người kéo ông đi vô Thanh Hóa, tạm trú tại nhà xứ Cha Mai, Chánh xứ Tam Tổng, và ông đă qua ngă Lào để về Sàig̣n. Người hộ tống ông lúc bấy giờ là hai ông Trần Kim Tuyến và Nguyễn văn Châu. Ông Ngô Đ́nh Nhu là người trầm lặng ít nói, không có tài hùng biện trước công chúng. Nhưng nếu ai đă có dịp tiếp xúc với ông cũng đều phải thán phục những tư tưởng và những sự phân tích khai triển công việc nhanh, gọn của ông. Từ thập niên 1950, ông Ngô Đ́nh Nhu đă bắt đầu hoạt động chống CS với sự thành lập Liên đoàn Lao động Công giáo.

 

Năm 1954, khi TT Ngô Đ́nh Diệm lên cầm quyền, ông thành lập đảng chính trị Cần Lao, dựa vào một chủ thuyết do ông khởi xướng là học thuyết Cần Lao Nhân vị để hỗ trợ chính quyền. V́ thế ông được coi như là cha đẻ của Đảng Cần Lao, dựa vào thuyết Nhân Vị (personnalisme) qua đúc kết hai xu hướng của triết gia công giáo Emmanuel Mounier và Jacques Maritain. Dưới sự giúp đỡ của người Mỹ, đảng Cần Lao phát triển nhanh chóng, thâm nhập vào hàng ngũ quân đội, công chức, trí thức và cả giới kinh doanh và trở thành chính đảng lớn nhất thời bấy giờ. Đồng thời, ông cũng cho thành lập một tổ chức có tên là “Thanh niên Cộng Ḥa”, do ông làm Tổng thủ lănh. Một tổ chức khác dành cho phụ nữ có tên là “Phụ nữ liên đới” cũng được thành lập và do vợ ông làm Tổng thủ lănh. Ông là Chủ tịch Ủy ban Liên bộ đặc trách Ấp chiến lược, tổ chức thực hiện kế hoạch quốc pḥng Ấp chiến lược từng gây khó khăn cho MTDTGP Miền Nam VN, nói chung là bọn Việt Cộng. Trên danh nghĩa, ông chỉ là một Cố Vấn Chính Trị, nhưng hầu hết các tài liệu, đều ghi nhận ông là kiến trúc sư của chế độ, là người khởi xướng mọi chủ trương chính sách cho nền Đệ Nhất Cộng Ḥa. Ông cũng cho lập nhiều cơ quan t́nh báo và mật vụ để chống lại CS nằm vùng. Câu  nói nổi tiếng của ông Nhu là “CS có ǵ hay mà ta phải học!”. Tướng Cao Văn Viên, trong một cuộc phỏng vấn cuối đời, đă có nhận định về Ngô Đ́nh Nhu, cũng như so sánh ông Ngô Đ́nh Nhu với TT Ngô Đ́nh Diệm như sau:

 

“ ... Ông (Ngô Đ́nh Diệm) chỉ là một symbol, một biểu tượng mà thôi, ông không thể làm ǵ nếu không có cố vấn Nhu bên cạnh. Tất cả các bài diễn văn của TT Diệm đều do ông Nhu soạn thảo. Khổ nỗi, Hoa Kỳ muốn tách ông Nhu khỏi ông Diệm. Ông Nhu là một trở ngại. Trở ngại lớn hơn Diệm. V́ ông Nhu có nhiều mưu lược. Ông Nhu chống Mỹ hơn chống Pháp. TT Diệm th́ trái lại”.

 

Và thực lực của đảng Cần Lao Nhân Vị, chính đảng do ông Ngô Đ́nh Nhu lập ra, cũng được tướng Cao Văn Viên nhận xét:

 

“ ... Đảng Cần Lao dựa vào thuyết Cần Lao Nhân Vị, có tổ chức quy củ hơn, với sự chỉ huy trực tiếp của hai ông Ngô Đ́nh Nhu và Ngô Đ́nh Cẩn, đi sâu vào Quân Đội với các quân ủy, như CS...”.

 

Sau ngày đảo chính, dư luận tung ra những tin đồn xấu xa, để bôi lọ TT Ngô Đ́nh Diệm và gia đ́nh. Họ nói rằng ông Nhu nghiện thuốc phiện và khi vô trong Dinh, họ đă khám phá ra được cái “dọc tẩu” hút thuốc phiện v.v... Sự thực cái “dọc tẩu” đó là do một người Pháp, nhờ kiếm hộ làm đồ sưu tầm kỷ niệm. Thực ra th́ ông Nhu là người hút thuốc lá rất nặng. Và ông chỉ hút thuốc Job Vertes, c̣n Thổng Thống th́ hút thuốc hiệu Grand Prix. Vậy mà dư luận đă độc ác bịa đặt ra chuyện ông Nhu nghiện thuốc phiện, mặc dù Đại Úy Đỗ Thọ, tùy viên của Tổng Thống đă xác nhận là ông Ngô Đ́nh Nhu không có nghiện á phiện. Chẳng những tùy viên Đỗ Thọ xác nhận, mà tất cả những người thường hầu cận bên ông Nhu, và những người thường theo ông lên Cao Nguyên săn bắn cũng chẳng bao giờ gặp thấy ông bên bàn đèn. Tệ mạt hơn nữa là sau ngày đảo chánh 1/11/63, trong cuộc họp báo, Thiếu Tướng Tôn Thất Đính đă vô liêm sỉ khi nói rằng:

 

Chủ tiệm giày ở đường Lê Thánh Tôn bị thủ tiêu cũng chỉ v́ vô t́nh đứng trên lầu nh́n sang Dinh Gia Long thấy đào đường hầm, sợ bị tiết lộ nên ông Nhu ra lệnh thủ tiêu.

 

Trong Sở Thú có hầm át xít dùng để thủ tiêu người.

 

Trong ngày đảo chánh Tổng Thống và ông Cố Vấn đă thoát ra khỏi Dinh Gia Long bằng đường hầm bí mật v.v...

 

Bây giờ tôi xin tường thuật lại từng vụ để quư vị thấy rơ là phản tướng Tôn Thất Đính đă vu cáo đê tiện:

 

1- Vụ chủ tiệm giày trên đường Lê Thánh Tôn chết, là do bà vợ tên Tống Thị Lư ngoại t́nh, bị chồng biết được nên bà ta cùng t́nh nhân đă ra tay hạ sát chồng, vụ này báo chí Sàig̣n đă đăng tải rùm beng.

 

2- Vụ hầm át-xít trong Sở Thú, th́ báo chí đă có đến Sở Thú để t́m hiểu và không thấy có hầm nào chứa át-xít cả, chỉ thấy những hầm làm từ thời Pháp, Nhật đề chứa đạn mà thôi.

 

3- Vụ thứ ba là nói Tổng Thống và ông Cố Vấn thoát khỏi Dinh Gia Long bằng hầm bí mật. Trong khi sự thật là do ông Cao Xuân Vỹ lái xe 2 chevaux (2 mă lực), đưa Tổng Thống và ông Cố Vấn ra khỏi Dinh Gia Long, chứ không phải ra bằng đường hầm nào cả. Điều này có thể hỏi ông Cao Xuân Vỹ hiện ở Califonia để xác nhận.

 

C̣n nói ông Nhu tàn ác th́ lại càng không đúng, nếu nói ông Nhu mưu lược th́ đúng hơn. Tôi xin đơn cử một vài trường hợp như sau:

 

Nếu như ông Nhu tàn ác th́ làm sao ông Phan Quang Đán có thể yên thân sống để tham gia cuộc đảo chính ngày 11/11/1960. Rồi đám Dương Quỳnh Hoa, Thanh Nghị, Trịnh Đ́nh Thảo làm sao có thể công khai cấu kết với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được, và chắc chắn không có ngày 1/11/1963 xảy ra.

 

Những vụ này tôi biết rất rơ v́ tôi nắm trong tay hồ sơ của những vụ này. Như vụ bác sĩ Phan Quang Đán lúc c̣n mở pḥng mạch tại đường Nguyễn Thái Học, ông đă bất măn với chế độ, chỉ v́ ông Đán không được chia một ghế nào trong nội các. Ông ta bèn liên lạc bắt mối với CIA mà phái bộ Michigan đặt ở đường Pasteur, để cung cấp tài liệu và những hoạt động của Chính Phủ VNCH cho CIA và nhận chỉ thị của họ. Sau nhiều ngày theo dơi, tôi đă nắm được đầy đủ tài liệu và chứng cớ về mọi hoạt động của ông ta. Tôi báo cáo về văn pḥng ông Nhu và xin lệnh tạm bắt giữ Phan Quang Đán, nhưng ông Nhu chỉ cườ́ và nói:

 

Cấm không được có hành động nào với ông Đán, cứ tiếp tục theo dơi để biết những hoạt động của ông ta thôi.

 

Đến Dương Văn Minh, sau khi dẹp được B́nh Xuyên và phạm lỗi để cho Bảy Viễn thoát được, rồi vụ Dương Văn Minh tịch thu vàng bạc và tiền của B́nh Xuyên, đă không giao nạp vô Ngân Khố Quốc Gia, khi bị triệu hồi về Tham Mưu Biệt Bộ, Tướng Minh tỏ vẻ bất măn, có ư tạo phản, móc nối các sĩ quan cùng phe. Tôi được tin này bèn báo cáo với ông Nhu th́ ông Nhu cũng chỉ cười và nói:

 

- Xếp lại! Minh th́ làm được ǵ.

 

Tiếp theo vụ Dương Quỳnh Hoa, Thanh Nghị tôi cũng có đầy đủ tài liệu và báo cáo lên ông Nhu xin tạm giữ. Nhưng ông Nhu cũng không chấp thuận, v́ thế trong một buổi chiều đă có xe của Ṭa Đại sứ Pháp đến bí mật chở bọn họ đi. Để buộc tội ông, mà nói ông độc tài, kiêu căng là không đúng. Thực ra ông Ngô Đ́nh Nhu có tính chủ quan, nên mới xảy ra cuộc chính biến ngày 1/11/1963. Nói ông nóng tính cũng không đúng, v́ ông luôn trầm tĩnh, ít nói. C̣n phê phán ông là quan liêu hách dịch th́ lại càng sai, v́ ông là người rất biết lắng nghe những lời nói chính đáng, hợp lư lẽ.

 

Dư luận c̣n gán cho ông Ngô Đ́nh Nhu đă ra lệnh hạ sát Tướng Tŕnh Minh Thế, trong khi tên Sanvani thuộc Pḥng Nh́ Pháp, đă thú nhận hắn được lệnh giết Tướng Tŕnh Minh Thế, để gây bất lợi cho Chính Phủ của Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm theo chủ ư của Pháp (sách Soldats

 

Perdus et Fous De Dieu của Jean Larteguy, trang 244-245 thuật lại).

 

Những năm 1960-1963 khi tôi giữ chức vụ TM Phó kiêm Trưởng Pḥng 2 của Lực Lượng Đặc Nhiệm An Ninh QL15, các thôn ấp nằm dọc trên quốc lộ này, ban đêm thường bị bọn VC về vơ vét lương thực, tuyên truyền, dụ đỗ và bắt đi theo. Chúng tôi đă phục kích và bắt được nhiều tên. Nhưng bọn chúng vẫn tiếp tục ṃ vào các thôn ấp tuyên truyền quấy phá, bắt dân và sách nhiễu đồng bào nộp lương thực, thuốc men cho chúng, mỗi khi vắng bóng chúng tôi, v́ lực lượng của chúng tôi th́ thường xuyên di chuyển trên cả một quốc lộ dài từ đầu cầu xa lộ Biên Ḥa ra tới Vũng Tàu.

 

Nắm vững được sinh hoạt về đêm của bọn VC, tôi bèn cho mở chiến dịch “kêu gọi cán binh về quy thuận” và soạn ra một tờ truyền đơn mang tên PHIẾU BIỆT ĐĂI đem lên cục Tâm Lư Chiến xin duyệt, th́ ở trên nói, không có lệnh của Phủ Tổng Thống họ không dám kư, hăy chờ xin lệnh... Tôi liền chạy sang Tổng Nha Thông Tin để xin kiểm duyệt, ông Tổng Nha cũng sợ trách nhiệm không dám kư, tôi bèn tŕnh bày và năn nỉ nhạc sĩ Nguyễn Hiền, sau đó ông Hiền chịu kư “thừa lệnh Trưởng Pḥng Kiểm Duyệt”. Có chữ kư rồi, tôi đưa truyền đơn qua nhà in, yêu cầu họ in gấp cho tôi mấy trăm ngàn tờ PHIẾU BIỆT ĐĂI. Có truyền đơn rồi, tôi xin trực thăng đem đi rải trong các Mật Khu Hắc Dịch và Dương Minh Châu. Đồng thời chúng tôi cũng mở các cuộc hành quân, tung truyền đơn vào các thôn ấp, cũng như phân phát cho đồng bào tại các xóm, chợ đông người.

 

Sau mấy ngày th́ bọn VC chúng cầm PHIẾU BIỆT ĐĂI ra “tŕnh diện”. Chúng tôi giải giao những hàng b́nh này cho Trung Tâm “Thẩm Vấn Tù Hàng Binh” của Pḥng Nh́ TTM để họ khai thác. Khai thác xong th́ cung từ được Pḥng Nh́ gởi về văn pḥng ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu, trong Phủ Tổng Thống và gởi cả cho chúng tôi nữa.

 

Khi nhận được cung từ của Pḥng Nh́ gởi đến, ông Cố Vấn cho gọi tôi lên từ tốn hỏi:

 

- Ai cho phép làm? Tại sao không tŕnh trước? Lấy tiền ở quỹ nào ra in?

 

Tôi bèn tŕnh bày với ông Cố Vấn:

 

- Tôi nghĩ là mới chỉ là thí điểm, trong phạm vi Lực Lượng của chúng tôi, nhưng không ngờ kết quả đạt được quá tốt đẹp. C̣n tiền in th́ tôi lấy ở quỹ đen của Lực Lượng Đặc Nhiệm.

 

Nghe xong ông Cố Vấn ngẫm nghĩ một lúc rồi nhỏ nhẹ nói với tôi:

 

- Làm việc th́ cũng phải nhớ nguyên tắc, phải tŕnh xin ư kiến và chờ được chấp thuận mới làm...

 

Cá tính trầm tĩnh, hiểu người biết việc của ông Ngô Đ́nh Nhu là thế, nên Đại Tá Lansdale rất quư mến, hàng tuần hai ông thường gặp nhau để đàm đạo. Và theo Ông Đoàn Thêm nhận xét về phương diện trí thức, tŕnh độ nhận thức của ông Ngô Đ́nh Nhu rất cao, với nền học vấn cổ điển, nhân bản rộng răi và vững chắc. Ngoài ra ông Ngô Đ́nh Nhu c̣n là người không thích phô trương, rất kín đáo, ăn mặc giản dị, đơn sơ, ít xuất hiện trước công chúng. Ông Nhu quả thật không phải là mẫu người của đám đông. Nhưng ông có khả năng giải quyết những vấn đề quốc gia đại sự đầy phức tạp khó khăn.

 

 

Ngô Đ́nh Châu

(Chính biến 1/11/1963)

 

 

Năm

 

Gian lao của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm khi đẩy người Pháp ra khỏi miền Nam

 

 

Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và nội các ngày 10 - 5 - 1955 tại Sài G̣n. 

(H́nh: Fernand Jentile/Intercontinentale/AFP via Getty Images)

 

Nguyễn Tiến Hưng

 

Tiếng hát của ca đoàn vang vang trong thánh đường buổi sáng hôm ấy. Nhà thờ Chính Ṭa Sài G̣n (c̣n gọi là nhà thờ Đức Bà) đă chật ních những giáo dân. Bầu không khí thật trang ngiêm, long trọng. Đă từ mấy tuần rồi, ca đoàn phải tập dượt cho thật kỹ một số nhạc khúc chọn lọc để hát vào một dịp lễ đặc biệt. Lần đầu tiên, một hồng y Mỹ nổi tiếng, ông Francis Spellman, tới thăm viếng Việt Nam. Ông là thượng khách của tân thủ tướng chính phủ. Phần đông ca đoàn là những thanh niên vừa được tàu Mỹ chuyên chở từ miền Bắc di cư vào Nam mùa Hè 1954, trong đó có tác giả.

 

Từ nơi băo lụt triền miên, chiến tranh loạn lạc, nay được hưởng bầu không khí thanh b́nh của miền Nam trù phú, chúng tôi hết sức lên tinh thần. Thành phố Sài G̣n văn minh, tráng lệ, đúng là “Viên Ngọc Trân Châu của Á Đông.” Hằng ngày đài phát thanh nói đến nhà chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm từ Mỹ trở về. Bây giờ lại có hồng y Tổng Giáo Phận New York tới thăm. Thấy vậy, nhóm thanh niên chúng tôi tràn đầy hứng khởi.

 

Suy nghĩ của tuổi trẻ đơn sơ là như vậy. Có ngờ đâu vào vào thời gian ấy, những sự sắp xếp trên bàn cờ chính trị tại miền Nam thật là rối ren, nguy hiểm. Trông gương mặt của Thủ Tướng Diệm, thấy ông lầm lầm, ĺ ĺ, ít cười nhưng b́nh tĩnh, khó ai biết được những khó khăn mà ông và trên thực tế, cả miền Nam, đang gặp phải.

 

Ư định “từ quan” không thành

 

Trong quá văng, Quốc Trưởng Bảo Đại đă mời ông Diệm làm thủ tướng tới ba lần. Lần thứ tư ông mới chấp nhận. Lần thứ nhất là vào năm 1949, sau khi ông Diệm đóng góp vào việc đưa ông Bảo Đại từ Hồng Kông về làm quốc trưởng, ông được mời làm thủ tướng. Hai lần sau là vào năm 1951 khi ông Diệm c̣n đang ở Mỹ. Cả ba lần ông Diệm đều từ chối v́ cho rằng ông không thể làm được việc ǵ khi người Pháp c̣n dính líu vào chính trị Việt Nam. Tới năm 1954, sau khi Quốc Hội Pháp thông qua Hiệp Ước Độc Lập (Treaty of Independence) ngày 4 Tháng Sáu, 1954, ông Diệm mới chấp nhận lời mời của ông Bảo Đại.

 

Ngày 16 Tháng Sáu, 1954 khi chỉ định ông Diệm, thoạt đầu ông từ chối. Trong cuốn hồi kư “Con Rồng Việt Nam” (1990), ông Bảo Đại ghi lại câu chuyện này như sau:

 

“Cứ mỗi khi mà tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông th́ lúc nào cũng từ chối. Nay t́nh thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lănh đạo chính phủ,” Quốc Trưởng Bảo Đại nói với ông Ngô Đ́nh Diệm.

“Thưa hoàng thượng, không thể được ạ. Tôi xin tŕnh ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đă quyết định. Tôi định đi tu…,” ông Ngô Đ́nh Diệm đáp.

 

“Tôi kính trọng ư định của ông. Nhưng hiện nay, tôi kêu gọi đến ḷng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của ḿnh. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.”

 

Sau một hồi yên lặng, cuối cùng ông Diệm đáp:

“Thưa hoàng thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng ngài trao phó.”

Như vậy, giây phút ấy ­­­- ngày 16 Tháng Sáu, 1954 – là giây phút quyết định số mệnh của ông Ngô Đ́nh Diệm. Ông muốn từ quan – không phải là để “lên non t́m động hoa vàng” – nhưng là… để đi tu. Khi Quốc Trưởng Bảo Đại nại đến sự tồn vong của đất nước và không cho ông được phép từ quan, ông Diệm mới lĩnh nhận sứ mạng, một sứ mạng đă đưa đến cho ông bao nhiêu nguy hiểm, gian lao ngay từ đầu, để rồi tiếp tục cuộc hành tŕnh chông gai đi tới cuối đường, nơi tử thần đứng sẵn chờ đợi ông.

 

Bước gian truân ban đu

 

Khi chỉ định ông Diệm, Quốc Trưởng Bảo Đại chỉ hỏi ư kiến Ngoại Trưởng Foster Dulles của Mỹ, chứ không phải là “Mỹ đưa ông Diệm về Việt Nam làm thủ tướng” như dư luận hay nói đến. V́ biết rơ uy tín của ông Diệm ở Việt Nam nên Mỹ rất ủng hộ ư kiến của ông Bảo Đại.

 

Nhưng sự ủng hộ cũng không kéo dài được bao lâu. Chỉ nội trong 10 tháng, Thủ Tướng Diệm cố gắng thành lập một chính phủ trong hoàn cảnh rối ren 1954 của Sài G̣n, Mỹ đă muốn thay thế ông. Lư do chính yếu là sự vận động thành công của Pháp để loại trừ ông v́ biết thành tích chống Pháp của gia đ́nh Ngô Đ́nh Khả.

 

Mỹ đă nghe những lời khuyến dụ của Tướng Paul Ely (tư lệnh Pháp ở Đông Dương) đánh giá ông Diệm không đủ khả năng lănh đạo và không được dân chúng miền Nam ủng hộ. Ông Ely lại là bạn đồng liêu của Tướng John Collins của Mỹ trong Thế Chiến 2. Bây giờ ông Collins là đặc ủy (rồi đại sứ) của Tổng Thống Dwight Eisenhower tại miền Nam. Đầu Tháng Tư, 1955, Tướng Collins đề nghị rơ ràng về năm bước để loại bỏ ông Diệm (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 11).

 

Và ông Collins đă thành công. Cuối Tháng Tư, 1955, Washington có chỉ thị tối mật, đó là thay thế Thủ Tướng Diệm. Nhưng nhờ cơ may, ông Diệm lật ngược được thế cờ trong khoảnh khắc và Washington đă hủy mật lệnh này như chúng tôi đă đề cập trong cuốn sách “Khi Đồng Minh Nhảy Vào.”

 

Với cái thế mạnh sau Tháng Tư, 1955, Thủ Tướng Diệm đă đẩy được người Pháp ra khỏi Việt Nam, thu hồi được độc lập cả về chính trị, quân sự lẫn kinh tế, tài chánh, hoàn thành được giấc mộng mà gia đ́nh Ngô Đ́nh Khả nuôi dưỡng từ khi c̣n làm quan triều Nguyễn.

 

Hiệp Định Geneva (Tháng Bảy, 1954) chỉ là để phân chia ranh giới rút quân. Quân đội Liên Hiệp Pháp rút về bên dưới vĩ tuyến 17 chứ không phải là rút khỏi Việt Nam.

 

Ngày 20 Tháng Năm, 1955 là cái mốc lịch sử v́ hôm đó quân đội Pháp rút khỏi khu vực Sài G̣n – Chợ Lớn. Tới Tháng Bảy, số quân đội Pháp từ 175,000 xuống chỉ c̣n 30,000. Ông Diệm yêu cầu là cả quân đội lẫn huấn luyện viên người Pháp đều bắt buộc phải rời khỏi miền Nam vào mùa Xuân, 1956.

 

Ông Diệm đă thật vất vả và chấp nhận nhiều nguy hiểm khi đi tới quyết định này. Sau cùng, vào Tháng Tám, 1955, Pháp đồng ư đóng cửa cơ quan quản lư thuộc địa, gọi là “Bộ Các Quốc Gia Liên Kết.”

 

Về phía Mỹ, Đại Sứ Collins, người nghe lời Tướng Paul Ely, vốn đă muốn lật đổ Thủ Tướng Diệm, cũng bị thuyên chuyển. Ngày 14 Tháng Năm, 1955, ông rời Việt Nam sang nhận trách nhiệm mới tại NATO. Đại Sứ G. Frederick Reinhardt sang thay Collins. Tân đại sứ liền tuyên bố ngày 27 Tháng Năm:

“Tôi tới đây với chỉ thị là thi hành chính sách của Hoa Kỳ ủng hộ chính phủ hợp pháp của Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm.”

 

Sang mùa Thu 1955, uy tín của Thủ Tướng Diệm lên cao. Đối nội, ông nối kết lại được một quốc gia đang bị phân tán nặng nề, khuất phục được sự chống đối của Tướng Nguyễn Văn Hinh, tổng tham mưu trưởng quân đội (thân Pháp), chấm dứt được sự đe dọa của cảnh sát, quân đội quốc gia đă tuân lệnh ông quét sạch lực lượng B́nh Xuyên rồi được đại hội các đoàn thể chính đảng nhất mực ủng hộ. Thêm nữa, ông có hậu thuẫn mạnh mẽ của gần 1 triệu người di cư.

 

Đối ngoại th́ ông Diệm đă cương quyết chống trả và khuất phục được mưu đồ của Pháp và kế hoạch dẹp tiệm của cặp Ely-Collins, bây giờ lại được Washington nhất mực ủng hộ. Nhiều nhà quan sát quốc tế b́nh luận: “Ông Diệm đă làm được những việc như phép lạ.”

 

Với cái thế ấy, ngày 26 Tháng Mười, 1955, Thủ Tướng Diệm tuyên bố thành lập chế độ Cộng Ḥa và trở thành tổng thống đầu tiên. Tên chính thức của nước Việt Nam đổi từ “Quốc Gia Việt Nam” sang “Việt Nam Cộng Ḥa,” nhưng bài quốc ca và quốc kỳ không thay đổi.

 

Quốc Hội đầu tiên, Tháng Ba, 1956

 

Ngày 4 Tháng Ba, 1956, cột trụ của chính thể cộng ḥa được xây dựng. Nhân dân miền Nam đi bầu một quốc hội lập hiến. Với một dân số là 12 triệu người, gần 80% số người được đi bầu đă thực sự tham gia để chọn 123 dân biểu trong số 405 ứng cử viên. Dù tới gần một phần ba số ứng cử viên được chính phủ đề cử đă không trúng cử, đa số những người được bầu là thân chính.

 

Tuy không phải là một cuộc bầu cử lư tưởng, v́ chắc chắn đă có những vận động, sắp xếp không chính đáng, hoặc gian lận, như các phe đối lập tố cáo, nó cũng là bước đi đầu tiên của một hành tŕnh lâu dài để xây dựng nền cộng ḥa. “Res Publica,” quan niệm của nhà triết học Plato từ thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, có nghĩa là “sự việc hay cơ chế của nhân dân,” chúng ta dịch là “Cộng Ḥa.” Ṇng cốt của cơ chế này là một thể chế đại diện cho nhân dân để làm ra luật pháp. Mục đích của Quốc Hội năm 1956 là soạn thảo một hiến pháp. Với sự cố vấn của ông J.A.C. Grant, một chuyên gia hiến pháp người Mỹ, một hiến pháp thành h́nh, đặt nặng nguyên tắc phân quyền giữa hành pháp, lập pháp, và tư pháp giống như Hiến Pháp Hoa Kỳ, ít nhất là về mặt lư thuyết.

 

Bầu xong Quốc Hội Lập Hiến, vào mùa Hè 1956, bộ trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ gửi một Bản Ghi Nhớ cho tổng tham mưu trưởng quân đội thông báo “ư định của Tổng Thống Dwight Eisenhower, các cơ quan có thẩm quyền về quân sự phải cổ vơ giới quân sự Việt Nam để làm một kế hoạch song song và phù hợp với kế hoạch dựa trên căn bản chính sách của Hoa Kỳ để đối phó với những tấn công của Cộng Sản. Và một cách kín đáo, phải thông báo cho họ biết rằng Hoa Kỳ sẽ yểm trợ nước Việt Nam tự do để đương đầu với bất cứ sự tấn công nào từ bên ngoài vào.”

 

Tổng Thống Eisenhower hết mực ủng hộ. Riêng đối với Ngoại Trưởng Dulles th́ sau chuyến viếng thăm Tổng Thống Diệm vào ngày 14 Tháng Năm, 1956, ông lại càng thêm tin tưởng. Điều trần tại một ủy ban Thượng Viện Hoa Kỳ sau ngày trưng cầu dân ư, ông Dulles khẳng định:

 

“Ông Diệm đă làm được một việc quá tốt đẹp, dĩ nhiên là với sự yểm trợ của chúng ta, là quét sạch được các lực lượng phe phái…và quyền bính của ông bây giờ được đại chúng chấp nhận. Ông đă được Hoa Kỳ yểm trợ để đào tạo và vơ trang một quân đội quốc gia, và quân đội ấy đă chiến đấu một cách trung thành và hữu hiệu, mang được quyền bính của trung ương tới mọi nơi trong nước tới mức độ thật ngạc nhiên…”

 

“Nhân dân miền Nam có được một cuộc trưng cầu dân ư khoáng đại. Ngày tôi rời Việt Nam, họ bắt đầu có những cuộc họp để sửa soạn bầu một quốc hội đầu tiên, như vậy nền móng đă được đặt xuống để xây dựng một chính phủ đại diện cho quốc dân.”

 

“Ông Bảo Đại đă bị loại bỏ đi rồi và nhân dân Việt Nam hiện có khả năng xây dựng một chính thể chống Cộng mạnh mẽ và hữu hiệu tại một nơi mà đă có lúc coi như sắp bị tan ră v́ hai lư do: Hậu quả của việc Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, và những điều khoản bất lợi của một hiệp định đ́nh chiến (Hiệp Định Geneva).”

Ngày 26 Tháng Mười, 1956, Quốc Hội Lập Hiến trở thành Quốc Hội Lập Pháp sau khi Hiến Pháp được ban hành (và năm 1959, Quốc Hội được bầu lại lần thứ hai).

 

“Một quốc gia tự do vừa ra đời”

 

Tháng Năm, 1957, Tổng Thống Eisenhower mời tân tổng thống nước Cộng Ḥa Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ ba tuần. Ông gửi máy bay riêng Columbine III sang tận Honolulu, Hawaii, để chở Tổng Thống Diệm tới Washington DC, một hành động rất hăn hữu. Khi máy bay hạ cánh xuống phi trường National (bây giờ là phi trường Ronald Reagan Washington National Airport) th́ chính Tổng Thống Eisenhower đă có mặt để đón chào. Đây là lần thứ hai trong suốt hai nhiệm kỳ tổng thống mà ông Eisenhower đích thân ra tận phi trường để đón quốc khách. Lần đầu là đón Quốc Vương Saud bin Abdulaziz Al Saud của Saudi Arabia.

 

Sau khi trao đổi với Tổng Thống Eisenhower và Ngoại Trưởng Dulles tại Ṭa Bạch Ốc, Tổng Thống Diệm được cả Thượng Viện và Hạ Viện Hoa Kỳ mời tới Quốc Hội để diễn thuyết. Các thượng nghị sĩ và dân biểu lưỡng đảng đều có mặt đầy đủ. Cho tới lúc ấy th́ chưa có lănh đạo Á Đông nào có cái vinh dự này. Những tràng pháo tay nổ ran khi ông Diệm nói tới “ước nguyện của nhân dân Việt Nam chỉ là được sống trong ḥa b́nh, tự do và họ sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tự do và độc lập của ḿnh, chỉ yêu cầu nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ cho họ về phương tiện và vật chất.” Một cách gián tiếp, ông muốn gửi thông điệp là chúng tôi chỉ cần sự yểm trợ vật chất, các ông chớ có mang quân vào Việt Nam.

Rồi ông nhấn mạnh đến quyền lợi hỗ tương của cả hai nước dựa trên căn bản miền Nam là tiền đồn của thế giới tự do. Ông nói thẳng bằng tiếng Anh chứ không qua thông dịch viên. Theo một người bạn chúng tôi lúc ấy làm ở đài VOA (bác Trịnh Văn Chẩn) được cử đi làm phóng sự, ông Diệm nói với âm hưởng Huế, có câu các dân biểu, thượng nghị sĩ không hiểu rơ, nhưng cứ đứng lên vỗ tay vang vang thật lâu, và đứng lên nhiều lần.

 

Tại New York, Thị Trưởng Robert F. Wagner tổ chức một cuộc diễn hành để chào mừng vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam. Ít quốc khách nào được đón tiếp như vậy. Dù ít người ở thành phố này biết ông Diệm, nhưng dân chúng đổ xô ra đường phố để hoan hô. Từ các cao ốc, những cánh hoa đủ mầu sắc được rắc xuống chiếc xe limousine mui trần chở ông Diệm đi qua. Báo chí đồng loạt ca tụng, nói đến “Một quốc gia tự do vừa ra đời.” Nhật báo The New York Times gọi Tổng Thống Diệm là “một người giải phóng Á Châu.” Tuần báo Life: “Con người cứng rắn và như phép lạ của Việt Nam” (A tough miracle man of Vietnam). Sau này Phó Tổng thống Lyndon Johnson (thời Tổng Thống John Kennedy) c̣n gọi ông Diệm là “Churchill của Á Châu.”

 

Phản ứng tại Quốc Hội Mỹ hết sức thuận lợi. Các thượng nghị sĩ, dân biểu thay nhau khen ngợi. Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits (Cộng Ḥa-New York) tuyên bố: “Ông là một trong những anh hùng của thế giới tự do.” Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield (Dân Chủ-Montana), người ủng hộ ông Diệm trong những giờ phút nguy hiểm, giờ đây hết sức vui mừng, ca ngợi Tổng Thống Diệm là con người có quyết tâm, can đảm, trong sạch và chính trực, “một người đă chứng tỏ khả năng rất cao trước những khó khăn thật là to lớn.” Thượng Nghị Sĩ John Kennedy (Dân Chủ-Massachusetts), sau này làm tổng thống, c̣n tuyên dương Việt Nam dưới sự lănh đạo của ông Diệm: “Việt Nam là nền tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á, là đỉnh ṿm của ṿng cung (keystone to the arch), là ngón tay trên con đê (finger in the dyke).”

 

Cuối màu Hè 1957, những h́nh ảnh tiếp đón Tổng Thống Diệm linh đ́nh tại thành phố New York và thủ đô Washington DC được chiếu thật lớn trên màn ảnh tại các rạp chiếu phim ở Sài G̣n cũng như các đô thị, sau phần tin tức nhộn nhịp về thể thao. Bầu không khí lúc ấy thật là phấn khởi. Sinh viên, học sinh chúng tôi hết sức vui vẻ “xuống đường” liên tục, chăng biểu ngữ đi biểu t́nh để “chào mừng tổng thống đầu tiên, ủng hộ Quốc Hội Lập Hiến.”

 

Mỗi buổi sáng, tiếng kèn trống của ban quân nhạc oang oang trên đài phát thanh cử hành lễ chào cờ, tiếp theo là bài tung hô Ngô Tổng Thống: “Bao nhiêu năm từng lê gót nơi quê người…”

 

Ngày 28 Tháng Tư, 1956, những người lính Pháp cuối cùng rời Việt Nam.

 

Sự chiếm đóng của quân lực Pháp từ Hiệp Ước Patenôtre do triều đ́nh Huế kư với Pháp năm 1884 tới đây đă hoàn toàn chấm dứt trên thực tế.

 

Buổi b́nh minh của nền Cộng Ḥa thực là huy hoàng rực rỡ.

 

 

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Gửi đến BBC từ Virginia, Hoa Kỳ) - 31/10/2022

 

Bài viết này thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch VN CH (1973-1975), phụ tá về tái thiết của TT Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đă xuất bản các cuốn sách Khi Đồng Minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng Minh nhảy vào (2016).

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính