Nhà Ngô thứ nh́ nằm xuống, loạn lạc nổi lên

 

Nguyễn Tiến Hưng

 

 

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỉ Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH từ năm 1973 đến 1975, Phụ tá về tái thiết của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đă xuất bản các cuốn sách “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” (2005) và “Khi Đồng Minh Nhảy Vào” (2016).

 

 

Lăng Ngô Quyền ở Đường Lâm: con trai ông là Ngô Xương Văn, tức Nam Tấn Vương đă cầm quyền được 15 năm rồi bị bắn chết ở vùng nay là Sơn Tây

 

Năm 963 khi vua Ngô Xương Văn (tự là Nam tấn Vương) bị sát hại, Việt Nam rơi vào cảnh hỗn loạn Thập Nhị Sứ Quân.

 

Trong cuốn Việt Nam Sử Lược, nhà sử học Trần Trọng Kim viết: ”Thế lực nhà Ngô bấy giờ mỗi ngày một kém, giặc giă nổi lên khắp mọi nơi. Nam Tấn Vương phải thân chinh đi đánh dẹp. Khi đi đánh giặc ở hai thôn Thái-B́nh, không may bị tên bắn chết.”

 

Sau khi vua Ngô Xương Văn chết đi th́ ”Lúc bấy giờ trong nước có cả thảy 12 sứ quân, gây ra cảnh nội loạn kéo dài đến hơn 20 năm… Trong số này có Tướng của thời nhà Ngô tên là Đỗ Cảnh Thạc cũng giữ một chỗ, xưng là Sứ quân.”

 

Năm 1963 – đúng 1,000 năm sau, một nhà Ngô nữa bị sát hại và cảnh Thập Nhị Sứ Quân lại tái diễn.

 

Tướng Charles de Gaulle đă từng nói “Après moi le deluge” (Sau ta là hồng thủy).

 

Tuy không nói ra nhưng chắc Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cũng đă nghĩ ‘Sau ta là băo tố.’

 

Cơn lốc chính trị, quân sự, xă hội tại Miền Nam sau ngày đảo chính đă tàn phá Miền Nam đến mức nào th́ nhiều độc giả (cao niên) c̣n nhớ.

 

T́nh trạng rối ren ở Sàig̣n đă ảnh hưởng sâu xa tới t́nh h́nh quân sự. Trong một điện tín gửi về Washington, Đại sứ Henry Cabot Lodge đă kèm theo luôn một báo cáo của đại diện USOM ở tỉnh Long An (ngày 7 tháng 12, 1963) nói về t́nh h́nh an ninh suy giảm quá mạnh.

 

Rồi ông phàn nàn: “Tôi thật bối rối v́ thấy thiếu quyết tâm chiến đấu: các hội viên của tập đoàn tướng lănh cho tôi những câu trả lời thật tuyệt vời và rơ ràng, và nói cái ǵ cũng hay hết, nhưng những việc ǵ đang xảy ra th́ chẳng có là bao nhiêu.”

 

Cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo! Chỉ một tháng trước đó, vài ngày sau đảo chánh, ông Lodge đă báo cáo về Washington: ”Chúng ta không nên bỏ qua mà không để ư tới ư nghĩa của cuộc đảo chánh, đó là nó sẽ có thể giúp rút ngắn cuộc chiến này để cho người Mỹ được sớm trở về nuớc ḿnh.”

 

Nếu như t́nh h́nh ở Miền Nam bất ổn th́ vào thời điểm này, t́nh h́nh chính trị tại Hoa Kỳ cũng trở nên phức tạp.

 

Đúng ba tuần sau cái chết của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm th́ Tổng Thống Kennedy bị ám sát ở Dallas. Phó Tổng Thống Lyndon Johnson lên kế vị.

 

 

 

Cơn khói lửa bùng lên

 

Ngay từ lúc c̣n làm Phó cho Tổng Thống, ông Johnson đă cố vấn cho Tổng Thống Kennedy rằng ”Nếu chúng ta buông xuôi tại vùng Đông Nam Á th́ phải rút tuyến quốc pḥng của Hoa Kỳ về tận San Francisco.”

 

Lên chức Tổng Thống, việc đầu tiên ông làm là tham khảo Đại sứ Cabot Lodge về Việt Nam. Ông Lodge báo cáo về t́nh h́nh đen tối tại Sàig̣n.

 

Sau đảo chính, bây giờ lại khó khăn, rối ren hơn nhiều, và lănh đạo ở Sàig̣n lại đang có khuynh hướng đi về hướng chính sách ‘trung lập.’

 

Ông Lodge kết luận là cần phải có ngay những quyết định hết sức khó khăn “và Ngài phải lấy những quyết định ấy. “Tổng Thống Johnson tuyên bố không lưỡng lự: Tôi sẽ không để mất Việt Nam, tôi sẽ không là người Tổng Thống đầu tiên để cho Đông Nam Á sụp đổ giống như Trung Quốc đă sụp đổ.”

 

Ngày 8 tháng 3, 1965 - Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng.

 

Cuộc chiến khói lửa bắt đầu bùng nổ.

 

Các góc cạnh của đảo chính

Về bối cảnh đưa tới đảo chính th́ chúng tôi đă đề cập trong cuốn “Khi Đồng Minh Nhảy Vào” (KĐMNV) dựa trên các chứng cớ là các văn kiện được giải mật ngày 13 tháng 6, 2011. Nơi đây chúng tôi chỉ nhắc lại vài nét đại cương.

 

1960 – Bước ngoặt của bang giao Việt – Mỹ

 

Sau năm năm vàng son vừa phát triển vừa ḥa b́nh (1955-1960), t́nh h́nh quân sự và chính trị Miền Nam bắt đầu chuyển hướng vào năm 1960.

 

Về quân sự th́ lực lượng cộng sản đă bắt đầu tấn công vùng đồng bằng với những trận đánh vào dịp Tết tại Bến Tre và Tây Ninh ở Tây Bắc Sàig̣n. Về chính trị th́ chính phủ Diệm càng ngày càng bị chỉ trích là độc tài, phe đảng và tham nhũng.

 

Cuối mùa Xuân 1960 một nhóm nhân sĩ họp ở Khách sạn Caravelle nhau kiến nghị Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm phải cải tổ toàn bộ chính phủ và chính sách (“Tuyên ngôn Caravelle”), nhưng ông Diệm cho rằng có Mỹ đứng đàng sau giật giây v́ khuyến nghị này lại giống y như những lời cố vấn của Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow.

 

Sau này, ông Durbrow đă xác nhận là chuyện này có thật.

 

Tới mùa Thu 1960 th́ có đảo chính: đạn bắn vào ngay pḥng ngủ của Tổng Thống Diệm. Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow cố vấn ông nên điều đ́nh với phe đảo chính. Sau khi đảo chính thất bại, Durbrow lại khuyên ông nên khoan hồng cho những sĩ quan liên quan.

 

Thế là từ bấy giờ giữa Dinh Độc Lập và Ṭa Đại sứ Mỹ th́ cơm chẳng c̣n lành và canh cũng chẳng c̣n ngọt.

 

1961 – Thuở ban đầu với tân Tổng Thống John F. Kennedy

 

Mối giây liên lạc Việt – Mỹ đang căng thẳng cuối năm 1960 bỗng đổi chiều vào đầu năm 1961 khi Hoa Kỳ có Tổng Thống mới.

 

Nghị sĩ John F. Kennedy lên kế vị TT Dwight Eisenhower. Ở tuổi 42, ông là Tổng Thống Mỹ trẻ nhất. Ngày đăng quang ông hùng biện tuyên bố một lập trường hết sức cứng rắn ‘để bảo đảm sự sống c̣n và sự thành công của tự do.’

 

Tổng Thống Diệm nhận được bức thư đầu tiên của Tổng Thống Kennedy đề nghị Hoa Kỳ tiếp tay với ông để ‘tăng cường nỗ lực chiến thắng và đẩy mạnh sự tiến bộ kinh tế và xă hội của Việt Nam.’

 

Ông Diệm hân hoan đáp ứng lời đề nghị này, nhưng đặt trên căn bản là “v́ quyền lợi chung của cả hai nước” (chứ không phải chỉ v́ quyền lợi của VNCH). T́nh nghĩa hai bên thật nồng nàn, thắm thiết vào thuở ban đầu của nhiệm kỳ Kennedy.

 

1962 – Mỹ quyết định bỏ Lào

 

Mặc dù đă tuyên bố một lập trường rất cứng rắn, Tổng Thống Kennedy đă quyết định bỏ Lào. Ông Diệm hết sức lo ngại: liệu những hành động quyết liệt của ông Kennedy có bền vững hay không?

 

Lúc ấy th́ t́nh trạng Lào đă tác động mạnh mẽ vào tâm lư của các lănh đạo ở Đông Nam Á. Chính phủ Diệm rất nghi ngờ về ư chí của Hoa Kỳ.

 

 

 

Chính t́nh báo Mỹ NIE đă thẩm định rằng: “đă có những cảm nghĩ hết sức sâu đậm ở Đông Nam Á về những biến chuyển mới đây về khủng hoảng ở Lào. Các chính phủ nơi đây có khuynh hướng cho rằng cuộc khủng hoảng Lào là một thử thách tượng trưng giữa sức mạnh của Tây phương và Khối Cộng sản. Liệu Hoa kỳ có tiếp tục bảo vể vùng này hay không? Thử thách rơ ràng nhất là khả năng bền vững của chính sách Hoa kỳ tại Việt Nam.”

 

Ngày 21 tháng 4, trong một báo cáo, ông Edward Landsdale (CIA) nhận xét về Việt Nam:

 

“Về tâm lư – Việt Nam luôn nghĩ ḿnh mới là đối tượng chính – và họ tự hỏi ‘khi tới lần chúng tôi, liệu sẽ có bị đối xử giống như Lào không.’ Chính sách của Mỹ đă biến Lào thành nước ‘trung lập’ với một chính phủ liên hiệp, làm cho Tổng Thống Diệm hết sức lo âu v́ nghĩ rằng sau Lào th́ Mỹ sẽ tính đến việc trung lập hóa Việt Nam và áp đặt một chính phủ liên hiệp với Cộng sản. Bởi vậy, Landsdale cho rằng việc chính là phải làm sao cho chính phủ Miền Nam tin tưởng rằng việc rút lui ở Lào không có nghĩa là sẽ rút khỏi Việt Nam.”

 

Để làm tăng thêm sự tin tưởng vào Hoa Kỳ, Phó Tổng Thống Lyndon Johnson được gửi sang thăm viếng Tổng thống Diệm với sứ mệnh của Tổng Thống Kennedy là phải ‘tuyên bố sự ủng hộ mănh liệt của Hoa Kỳ và ḷng tin tưởng vào Tổng Thống Diệm.” Ông Johnson trao cho ông Diệm bức thư của tân Tổng Thống Hoa Kỳ. Bức thư thuở ban đầu thật nồng nàn, thắm thiết.

 

Tuy nhiên, Tổng Thống Diệm không hoàn toàn tin tưởng. Trong bức thư phúc đáp ông nói tới sự lo ngại về Lào:

 

“Những biến chuyển gần đây tại Lào đă làm nổi bật mối quan ngại trầm trọng của chúng tôi về nền an ninh của (VNCH) với những đường biên giới kéo dài và dễ bị tấn công…”

 

Để biết rơ sự suy nghĩ của Tổng Thống Diệm, Đại sứ Nolting gặp Bộ Trưởng Nguyễn Đ́nh Thuần (Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống) để tham khảo. Ông Thuần tiết lộ là đề nghị của Hoa Kỳ đă làm cho Ông Diệm hết sức ưu phiền, “hay là Hoa Kỳ đang sửa soạn để bỏ rơi Việt Nam…như là đă bỏ rơi Lào?”

 

Đi t́m giải pháp ḥa b́nh

 

1963 – Mùa Xuân: yêu cầu Mỹ rút cố vấn

 

 

Số cố vấn Mỹ vào Miền Nam ngày một tăng nhanh. Tháng 4/1963: thêm 4,500 cố vấn và binh sĩ nữa.

 

Trạm trưởng CIA là ông William Colby sau này nhận xét: ”Ngay từ đầu 1962 cơ quan CIA đă có những mối liên lạc và ảnh hưởng trên toàn lănh thổ Miền Nam, từ cổng trước và cổng sau Dinh Độc Lập tới những xóm làng ở thôn quê…”

 

Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Washington Post vào tháng 5 ông Nhu tuyên bố Mỹ có thể rút đi một nửa số cố vấn. Báo chí thổi phồng lên, Tổng thống Kennedy phật ḷng, tuyên bố sẵn sàng rút đi.

 

Suy nghĩ lại về giai đoạn này, Đại sứ Pháp Lalouette, người đă chứng kiến và tham gia vào nhiều biến cố tại Việt Nam đă cho rằng “quyết định của ông Nhu vào hồi tháng 4 yêu cầu rút cố vấn cấp tỉnh đă là lư do chính để người Mỹ quyết định lật đổ ông Diệm.”

 

 

Giờ cầu nguyện của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trên băi biển gần Đà Nẵng

 

 

1963 – Mùa Hè: khủng hoảng Phật Giáo

 

Vào chính lúc Washington đang nhắm vào ông Nhu th́ một cơn băo tố nữa lại ập tới: khủng hoảng Phật Giáo, bắt đầu vào Lễ Phật Đản ngày 8 tháng 5. Xáo trộn leo thang rất nhanh. Viên chức Bộ Ngoại giao buộc tội chính phủ Diệm đă ‘phá nát chùa chiền.’

 

Để đánh giá lại chính phủ Diệm, một phái đoàn Quốc Hội Hoa Kỳ do Dân biểu Clement Zablocki (Wisconsin) hướng dẫn gồm 8 hội viên đi Sàig̣n để thẩm định t́nh h́nh. Phái đoàn tiếp xúc với rất nhiều thành phần chống Tổng thống Diệm cũng như với ĐS Lodge và các quan chức Mỹ và báo chí ở Việt Nam. Trở về Washington, ông Zablocki đă nộp bản báo cáo bênh vực Tổng thống Diệm là người – tuy có nhiều khuyết điểm, chuyên quyền, và khoan dung cho hối lộ, áp bức, nhưng ông ta có khả năng bền bỉ và đang chiến thắng.

 

Mà cũng không ai thay thế được ông ta. Zablocki đặt nặng trách nhiệm của báo chí: “báo chí đă ngạo mạn, dễ bị kích động, thiếu khách quan, và không có những thông tin trung thực” trong những tin tức, b́nh luận về biến cố Phật Giáo cũng như về Tổng Thống Diệm.

 

 

Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm thăm Đài Loan và được Thống Chế Tưởng Giới Thạch đón

 

 

Mặc dù phái đoàn nhận xét như vậy, nhưng giới truyền thông vẫn tiếp tục tấn công. Cho nên t́nh h́nh Việt – Mỹ vào cuối hè 1963 đă trở nên căng thẳng tới mức có tin đồn là Nhà Ngô định ám sát tân Đại sứ Lodge.

 

1963 – Sang Thu: khả năng ông Nhu định điều đ́nh với Bắc Việt.

 

Trong t́nh huống sôi động ấy lại có tin ông Nhu định điều đ́nh với Bắc Việt. Đại sứ Lodge (vừa tới Sàig̣n được một tuần) thông báo ngay về Washington rằng chính ông cũng có nghe như vậy.

 

Về sự việc này th́ ngày nay ta đă có thêm tài liệu để soi sáng cho rơ hơn về ư định của hai ông Diệm và Nhu muốn đi t́m một giải pháp ḥa b́nh v́ biết trước sau rồi Mỹ cũng bỏ Miền Nam.

 

Nhưng vào lúc ấy th́ sau điện tín của ông Lodge, ông Roger Hilsman (Giám đốc T́nh Báo và Nghiên Cứu Bộ Ngoại Giao) đă b́nh luận về mục tiêu tối thiểu và tối đa của ông Nhu rồi đi tới kết luận:

 

“Ông Nhu đă quyết định dấn thân vào một cuộc mạo hiểm, cho nên ta không thể nào tiếp tục con đường ḥa giải với ông ta được nữa.”

 

Tới đây, ông Nhu trở thành mục tiêu duy nhất của Hoa Kỳ

 

Trong một điện tín gửi cho ĐS Lodge (công điện số 272), Ṭa Bạch Ốc nói về việc có nên thử nói với ông Diệm hăy loại bỏ ông bà Nhu hay không, đă kết luận rằng “sẽ không thành công nếu chỉ thuyết phục suông,” trừ phi “đưa ra một lời răn đe dọa cắt viện trợ.”

 

Thế nhưng nếu răn đe như vậy th́ “có nguy cơ rất cao là ông Diệm sẽ coi đó là chỉ dấu sắp có hành động chống lại ông và ông bà Nhu đến nơi rồi, và tối thiểu rất có thể ông ta sẽ có biện pháp mạnh đối với các Tướng lănh hay thậm chí có hành động quái đản thí dụ như kêu gọi Bắc Việt yểm trợ để trục xuất người Mỹ đi.”

 

Quá là nhanh, chiều ngày 31 tháng 8, ông Lodge báo cáo Washington ngay về việc này rằng chính ông ta cũng đă “có nghe tin ông Nhu đă bí mật giao thiệp với Hà Nội và Việt cộng qua Đại sứ Pháp (Lalouette) và Ba Lan (Maneli), cả hai chính phủ các nước này đều tán thành một giải pháp trung lập giữa Bắc và Nam Việt Nam.” Như vậy là đă trật đường ray!

 

Về việc điều đ́nh hiệp thương Nam – Bắc, theo sự nghiên cứu của chúng tôi th́ có hai nhân chứng khả tín là ông Mieczyslaw Maneli (Trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Kiểm Soát Đ́nh Chiến), người trực tiếp làm môi giới giữa Bắc – Nam và ông Cao Xuân Vỹ (Đặc trách Đoàn Thanh Niên Cộng Ḥa) là người đă cùng đi với ông Ngô Đ́nh Nhu gặp ông Phạm Hùng. Bởi vậy, ta nên xem hai ông đă thuật lại như thế nào?

 

Ông Cao Xuân Vỹ:

 

Đại cương: theo tác giả Minh Vơ th́ ông Vỹ đă kể lại trong một cuộc phỏng vấn như sau:

 

“Về các điều kiện để hiệp thương th́ nhiều lần Tổng Thống Diệm đă nói, phải có 6 giai đoạn,

 

Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.

 

Rồi cho dân qua lại tự do.

 

Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn định cư sang bên kia nếu muốn.

 

Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn.

 

Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.

 

Và sau cùng là tổng tuyển cử (để thống nhất trong ḥa b́nh)”.

 

Ông Mieczyslaw Maneli nói ǵ?

 

Ngày 15 tháng 2, 1975 (hai năm sau khi Ḥa Đàm Paris kư kết) ông đă viết một bài tên tờ Washington Post với tựa đề: ‘Vietnam: 63 and Now’ và nói rằng giải pháp ḥa b́nh do ông làm môi giới năm 1963 nếu thành công th́ đă thuận lợi cho Miền Nam và Thế giới Tự Do hơn Hiệp định Paris đầu năm 1975 rất nhiều. Ông kể lại:

 

“Mùa Xuân năm 1963, Đại sứ Pháp Lolouette nói với tôi là Tổng thống Diệm và bào đệ của ông có nhờ tôi t́m hiểu với Chính Phủ Hà Nội xem có khả năng nào để giải quyết cuộc chiến bằng phương tiện ḥa b́nh hay không. Trong mấy tháng sau đó tôi đă thảo luận nhiều với giới lănh đạo cao cấp nhất kể cả Chủ tịch HCM và Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Câu hỏi căn bản tôi đặt ra cho họ là: trong trường hợp Mỹ rút khỏi Miền Nam, những bảo đảm thực sự nào Miền Bắc có thể đem ra để chứng tỏ rằng một Việt Nam thống nhất sẽ không phải là một nước của thế giới Cộng sản? Lănh đạo Miền Bắc thảo luận nhiều lần và dần dần đi tới một kế hoạch mà tôi đă dựa vào đó để thảo luận với một nhóm các đại sứ Tây phương. Theo như kế hoạch này, hai Miền Bắc – Nam sẽ từ từ đi từng bước bắt đầu từ liên lạc bưu chính, kinh tế, văn hóa. Sản phẩm kỹ nghệ Miền Bắc sẽ được dùng để mua thóc gạo Miền Nam.

 

“Miền Bắc sẽ không đ̣i hỏi phải thống nhất nhanh chóng, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập tại Miền Nam. Tôi hỏi liệu ông Diệm có thể là lănh đạo của chính phủ này hay không? Tới mùa hè 1963 th́ câu trả lời sau cùng là có. Sau đó, tôi lại hỏi thêm: nhưng làm sao phía Thế giới Tự do có thể tin rằng Hà Nội sẽ giữ lời hứa? Câu trả lời là nếu Mỹ đồng ư rút, Miền Bắc sẽ sẵn sàng đưa ra những bảo đảm có thực chất, gồm cả việc Mỹ tham dự vào việc giám sát giải pháp ḥa b́nh… ngoài ra Miền bắc cũng sẽ có quan hệ ngoại giao và thương mại với thế giới Tự do, và sau cùng nhưng rất quan trọng, là quyền lực về kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ sẽ vẫn c̣n nguyên, không bị bớt đi v́ cuộc chiến (cũng sẽ là một bảo đảm nữa).”

 

Chúng tôi cho rằng về phía Miền Bắc, rất có thể động cơ chính để điều đ́nh là yếu tố kinh tế: đó là khủng hoảng thực phẩm năm 1963 tại miền Bắc. T́nh h́nh thiếu hụt thực phẩm năm ấy đă trở nên khủng hoảng sau những cơn hạn hán rất nặng và băo tố kéo dài từ mùa Xuân 1961 tới mùa Đông 1962. Như chúng tôi đă có dịp phân tích trong cuốn Economic Development in Socialist Vietnam, 1955-1975 (New York: Praeger Publisher, 1977): trong những năm không bị thiên tai như lụt lội, băo tố, hay hạn hán, Miền Bắc cũng vẫn phải dựa vào thóc gạo của Miền Nam th́ mới đủ ăn.

 

Như vậy th́ đại cương về những bước liên lạc hiệp thương, lập trường trung lập để đi tới thống nhất th́ đại cương, điều ông Maneli viết cũng giống như những ǵ ông Vỹ kể lại.

 

Ông Roger Hilsman b́nh luận về hai mục tiêu của ông Nhu

Ngày 16 tháng 9, ông Hilsman viết một Bản Ghi Nhớ, b́nh luận về mục tiêu tối thiểu và tối đa của ông Nhu:

 

- tối thiểu là sẽ “giảm mạnh số người Mỹ đang giữ những chức vụ chính yếu tại các tỉnh và trong chương tŕnh ấp Chiến Lược,” và

 

- tối đa là ông ta sẽ “điều đ́nh với Bắc Việt để ngưng chiến, rồi chấm dứt sự có mặt của Mỹ, đi tới một Miền Nam trung lập hoặc theo kiểu Tito (ở Nam Tư) nhưng vẫn là một phần đất riêng biệt.”

 

 

Quân Mỹ giao tranh với lực lượng Bắc Việt ở Nam Việt Nam

 

Hilsman kết luận rằng “ông Nhu đă quyết định dấn thân vào một cuộc mạo hiểm, và bởi vậy, không thể nào tiếp tục con đường ḥa giải với ông ta bằng cách dùng ngoại giao và thuyết phục được nữa, mà phải theo con đường dùng áp lực.

 

Tướng Taylor và Bộ Trưởng McNamara đổ thêm dầu vào lửa

Tiếp theo đó là chuyến viếng thăm Sàig̣n từ ngày 23 tháng 9 tới 2 tháng 10 của phái đoàn Taylor-McNamara. Khi trở về Washington hai ông báo cáo t́nh h́nh quân sự là tốt, bênh ông Diệm và cho rằng Hoa kỳ không nên đôn đốc một cuộc đảo chính, và chỉ nên dùng áp lực viện trợ. Tuy nhiên, trong báo cáo, hai ông lại thêm một nhận xét là “Sự ve văn của ông Nhu với ư định điều đ́nh (với Hà Nội) – cho dù là nghiêm chỉnh hay không đi nữa – cũng đă cho thấy có sự bất tương phùng căn bản đối với những mục tiêu của Hoa Kỳ.”

 

Ngày 5 tháng 10, ngày định mệnh của Tổng thống Diệm

Sau báo cáo Taylor-McNamara, th́ có tới 7 sự việc không may xảy ra cho Tổng Thống Diệm vào ngày này (xem KĐMNV, Chương 21).

 

Thí dụ như lần đầu tiên trong nhiều tuần lễ, một nhà sư nữa tự thiêu tại bùng binh Chợ Bến Thành lúc 12 giờ 25 trưa. Đó là Đại Đức Thích Quảng Hương. Đây là vụ tự thiêu thứ sáu kể từ Ḥa thượng Thích Quảng Đức. Washington cực lực phản đối về việc chính phủ Sàig̣n cấm cản báo chí chụp ảnh về vụ này. [Chúng tôi c̣n nhớ vào thời điểm ấy, báo chí và tivi Mỹ phổ biến rất rộng răi những vụ tự thiêu, dân chúng hết sức xúc động. Câu chuyện ở Washington lúc ấy chỉ xoay quanh vụ này].

 

Thêm vào đó là áp lực chính phủ Diệm phải đặt những cuộc di chuyển của Lực Lượng Đặc Biệt Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống do Đại tá Tung chỉ huy dưới quyền của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội. Như vậy là lực lượng này bị bó tay để hết ngăn chận đảo chính.

 

Tổng Thống Diệm đă gặp nhiều sự may mắn vào tháng 10 trong những năm trước:

 

- Tháng 10, 1954: vào lúc khủng hoảng chính trị đang nóng bỏng ở Sàig̣n và Pháp đang âm mưu loại bỏ Thủ Tướng Diệm, Tổng Thống Eisenhower đă viết bức thư đầu tiên, thông báo quyết định của Hoa Kỳ viện trợ thẳng cho Việt Nam thay v́ qua chính phủ Pháp: ”Tôi đă chỉ thị cho Đại sứ Mỹ ở Việt Nam để xem xét với Ngài, với tư cách Ngài là Lănh đạo của Chính phủ, làm sao để một chương tŕnh của Hoa Kỳ viện trợ thẳng cho Chính phủ của Ngài có thể yểm trợ được nước Việt Nam trong giờ phút thử thách này…”

 

- Tháng 10, 1955: Việt Nam Cộng Ḥa khai sinh và ông Diệm trở nên Tổng Thống đầu tiên.

 

- Tháng 10, 1956: cột trụ của chính thể mới là Hiến Pháp của nền Cộng Ḥa bắt đầu có hiệu lực.

 

- Tháng 10, 1960: Tổng Thống Eisenhower viết thư cho Tổng Thống Diệm ca ngợi thành quả của ông Diệm và nhân dân Miền Nam: “Chúng tôi đă chứng kiến sự can đảm và táo bạo mà Ngài và nhân dân Việt Nam đă biểu dương để đạt tới độc lập trong một t́nh huống nguy hiểm đến độ nhiều người đă coi như là vô vọng. Chúng tôi c̣n ngưỡng mộ khi t́nh trạng hỗn loạn ở Miền Nam đă nhường chỗ cho trật tự, và tiến bộ đă thay thế cho tuyệt vọng, tất cả với một tốc độ thật nhanh chóng.”

 

- Tháng 10, 1961, nhân dịp kỷ niệm sáu năm thành lập VNCH, Tổng Thống Kennedy viết cho Tổng Thống Diệm: ”Thành tích mà Ngài đă đạt được để đem lại niềm hy vọng mới, nơi cư trú và sự an ninh cho gần một triệu người lánh nạn cộng sản từ Miền Bắc đă nổi bật như một trong những nỗ lực đáng được tán dương nhất và được điều hành tốt nhất trong thời hiện đại.”

 

Thế nhưng tháng 10 năm 1963 th́ những sự khuyến khích và cơ may ấy đă không c̣n nữa: Tổng Thống Diệm sửa soạn hành tŕnh để đi về thế giới bên kia khi tháng 11 bắt đầu.

 

 

Ngày ám sát Tổng Thống

 

Buổi sáng hôm ấy, ngày 2/11/1963, khi tiếng chuông nhà thờ ngân vang khắp nơi, báo hiệu đă tới giờ đại lễ, các tín đồ Công giáo cầu xin Thiên Chúa xá tội để những người đă quá cố được sớm về cơi trường sinh. Lúc ấy, trong số những vong linh được cầu nguyện, đă có thêm hai linh hồn nữa. Họ vừa mới thoát khỏi chốn trần gian này mấy phút trước đó.

 

Kinh cầu ở các thánh đường vang lên: “Requiescat in pace” xin Thiên Chúa cho tất cả được an nghỉ.

 

Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chọn ngày 1 tháng 11 là ngày Quốc Khánh.

 

 

 

 

Hằng năm, khi tới ngày này, với tư cách Tổng Thống, ông Nguyễn Văn Thiệu, người đă tham gia đảo chính, mở tiệc khoản đăi ngoại giao đoàn và quan khách theo thủ tục ngoại giao.

 

Nhưng cùng ngày đó, trong ngôi nhà nguyện bé nhỏ tại Dinh Độc Lập, hai vợ chồng ông dự thánh lễ để tưởng niệm và cầu nguyện cho Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm.

 

Vị linh mục làm lễ, Cha Khổng Minh Giác hỏi về ư chỉ trong buổi lễ, và ông Thiệu đáp: “Xin cho linh hồn Người sớm được về nơi Diễm Phúc, và xin người cầu cho chúng tôi trong giờ phút nguy khốn này.”

 

Ông Thiệu an ủi ông Diệm nơi thế giới bên kia – nhưng ông cũng đang cầu nguyện vừa cho Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm vừa cho chính ḿnh.

 

Tổng Thống Diệm ra đi đă mang theo với ông viễn tượng ḥa b́nh cho Việt Nam. Trong cuốn ‘A Death in November’ tác giả Ellen Hammer thuật lại lời của Đại sứ Pháp Lalouette nói với Đại sứ Maneli, người môi giới hiệp thương giữa Nam-Bắc:

 

Nếu Mỹ lật đổ ông Diệm, cơ hội cuối cùng về ḥa b́nh ở Việt Nam sẽ bị phá hủy. V́ bất cứ ai lên thay ông ta cũng sẽ phải lệ thuộc vào Mỹ. Chỉ ḿnh ông Diệm là người độc lập đủ để may ra có thể văn hồi được ḥa b́nh”.

 

Lịch sử miền Nam Việt Nam sau đó diễn ra thế nào th́ chúng ta đă biết.

 

 

Nguyễn Tiến Hưng

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính