Nguồn Gốc Văn Hóa Việt Nam

Giải minh Truyện Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam Chích Quái của Vũ Quỳnh (1492)

*

 

Bài thuyết tŕnh của  Nguyễn Đăng Trúc ngày 30 tháng 09 năm 2017 tại Đức Quốc

Xem 2 You Tube dưới đây

https://www.youtube.com/watch?v=8NXjwD9p7sM

https://www.youtube.com/watch?v=i6MYmuwptc4&feature=em-share_video_user

 

 

 

Trích, trong cuốn

Văn Hiến Nền Tảng của Minh Triết

Nguyễn Đăng Trúc, Reichstett, Pháp

 

 

Bản văn

 

Cháu ba đời Viêm-Đế họ Thần-Nông tên là Đế-Minh, sinh ra Đế-Nghi, rồi đi nam-tuần đến Ngũ-Lĩnh, gặp được nàng con gái Vụ-Tiên đem ḷng yêu-mến mới cưới đem về, sinh ra Lộc-Tục, dung-mạo đoan-chính, thông-minh túc-thành; Đế-Minh lấy làm lạ, cho nối ngôi vua; Lộc-Tục cố nhường cho anh. Đế-Minh lập Đế-Nghi làm tự-quân cai-trị phương Bắc, phong Lộc-Tục làm Kinh-Dương-Vương cai-trị phương Nam, đặt quốc-hiệu là Xích-Quỉ-Quốc.

Kinh-Dương-Vương xuống Thủy-phủ, cưới con gái vua Động-Đ́nh là Long-Nữ, sinh ra Sùng-Lăm tức là Lạc-Long-Quân; Lạc-Long-Quân thay cha để trị nước, c̣n Kinh-Dương-Vương th́ không biết đi đâu.

Lạc-Long-Quân dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật-tự về quân-thần tôn-ty, có luân-thường về phụ-tử phu-phụ; hoặc có lúc đi về Thủy-phủ nhưng trăm họ vẫn được yên-ổn. Dân lúc nào có việc cần thời kêu Lạc-Long-Quân: "Bố đi đằng nào, không đến mà cứu chúng ta". (Người Nam gọi cha bằng Bố, gọi quân bằng vua là từ đấy), th́ Lạc-Long-Quân lập tức đến ngay, uy-linh cảm-ứng không ai có thể trắc-lượng được.

Đế-Nghi truyền ngôi cho Đế-Lai cai trị phương Bắc; nhân khi thiên-hạ vô-sự, sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế-Minh nam-tuần gặp được tiên-nữ.

Đế-Lai bèn khiến Xi-Vưu tác-chủ quốc-sự mà nam-tuần qua nước Xích-Quỉ, thấy Long-Quân đă về Thủy-phủ, trong nước không vua, mới lưu ái thê là Âu-Cơ cùng với bộ-chúng thị-thiếp ở lại hành-tại. Đế-Lai chu-lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả h́nh-thế, trông thấy kỳ-hoa dị-thảo, trân-cầm dị-thú, tê-tượng, đồi-mồi, kim-ngân, châu-ngọc, hồ-tiêu, nhũ-hương, trầm-đàn, các loại sơn-hào hải-vị không thứ nào là không có; khí-hậu bốn mùa lại không nóng không lạnh, Đế-Lai ái-mộ quá, quên cả ngày về. Nhân dân nước Nam khổ về sự phiền-nhiễu, không yên-ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Long-Quân về nên mới đem nhau kêu rằng:

- Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân-dân.

 

*

 

Lạc-Long-Quân bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu-Cơ ở một ḿnh, dung-mạo đẹp lạ-lùng, yêu quá, mới hóa ra một chàng nhi-lang phong-tư mỹ-lệ, tả-hữu thị-tùng đông-đảo, tiếng đàn ca vang đến hành-tại. Âu-Cơ trông thấy mà ḷng cũng ưng theo; Long-Quân bèn rước nàng về núi Long-Trang.

Đế-Lai về không thấy Âu-Cơ bèn sai quần-thần t́m khắp thiên-hạ. Long-Quân có thần-thuật, biến-hiện trăm cách, nào là yêu-tinh quỉ-mị, nào là long-xà hổ-tượng, kẻ đi t́m úy-cụ, không dám lục-đảo tận-cùng. Đế-Lai trở về Bắc, lại truyền ngôi cho Đế-Du, cùng với Hoàng-Đế đánh nhau ở Bản-Tuyền không hơn nên tử-trận; họ Thần-Nông bèn mất.

 

*

 

Âu-Cơ ở với Lạc-Long-Quân giáp một năm, sinh ra bọc trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai; nàng đem về nuôi-nấng, không phải cho ăn, cho bú mà tự-nhiên trường-đại, trí-dũng song-toàn, ai cũng úy-phục, bảo nhau đó là những anh em phi-thường.

Long-Quân ở lâu dưới Thủy-phủ; mẹ con ở một ḿnh, nhớ về Bắc-quốc liền đi lên biên-cảnh; Hoàng-Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân-binh trấn-ngự quan-tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long-Quân:

·  Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ.

Long-Quân hốt-nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở Tương-Dạ; Âu-Cơ nói:

- Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với quân, sinh được một trăm trai mà không có ǵ cúc-dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một ḿnh ṿ-vơ.

Long-Quân bảo:

- Ta là loài rồng, sinh-trưởng ở thủy-tộc; nàng là giống tiên, người ở trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm-dương hợp lại mà có con nhưng phương-viên bất-đồng, thủy-hỏa tương-khắc, khó mà ở cùng nhau trường-cửu. Bây giờ phải ly-biệt, ta đem năm mươi trai về Thủy-phủ phân-trị các xứ, năm mươi trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai-trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc th́ cùng nghe, không được bỏ nhau.

Trăm trai đều nghe mệnh, rồi mới từ-giă mà đi. Âu-Cơ cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong-Châu - (bây giờ là huyện Bạch-Hạc) -, tự suy-tôn người hùng-trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng-Vương, quốc-hiệu là Văn-Lang; về bờ-cơi của nước th́ Đông giáp Nam-Hải, Tây đến Ba-Thục, Bắc đến Động-Đ́nh-Hồ, Nam đến nước Hồ-Tôn-Tinh (bây giờ là nước Chiêm-Thành), chia trong nước làm mười lăm bộ là: Giao-Chỉ, Chu-Diên, Ninh-Sơn, Phúc-Lộc, Việt-Thường, Ninh-Hải, Dương-Tuyền, Quế-Dương, Vũ-Ninh, Hoài-Hoan, Cửu-Chân, Nhật-Nam, Quế-Lâm, Tượng-Quận, sai các em phân-trị, đặt em thứ làm tướng vơ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc-Hầu, tướng vơ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quang-Lang, con gái gọi là Mỵ-Nương, quan Hữu-ty gọi là Bồ-chính, thần-bộc nô-lệ gọi là nô-tỳ, xung thần là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ-đạo, thay đời truyền cho nhau đều hiệu là Hùng-Vương không đổi.

Dân ở rừng núi xuống sông ng̣i đánh đá, thường bị giao-long làm hại nên bạch với vua. Vua bảo rằng:

-  Núi và loài rồng cùng với thủy-tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm-hại.

Bèn khiến lấy mực chạm h́nh-trạng thủy-quái ở thân-thể, từ đó tránh được nạn giao-long cắn hại; cái tục văn-thân * * của Bách-Việt thực khởi-thủy từ đấy. Ban đầu, quốc-dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy gạo ngâm làm rượu, lấy cây quang-lang, cây soa-đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cày, lấy nước cấy: đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm; gác cây làm nhà để tránh nạn hổ-lang; cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; nhà có người chết th́ giă gạo để cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp; trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu dê là lễ thành-hôn, đem cơm nếp vào trong phỏng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới thương-thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.

 

*

 

Bách-Nam là thủy-tổ của Bách-Việt vậy. [1]

 

*

 

Phần minh giải

 

I- H́nh thức văn chương của bản văn

 

Về h́nh thức văn chương của toàn bản văn Lĩnh Nam Chích Quái, giáo sư Lê Hữu Mục đưa ra nhận xét như sau:

 

"Đó là một lối văn kể chuyện giản dị và nhẹ nhàng; không có một điển tích nào xa xôi, không có một từ ngữ nào mà ngày nay không có trong những Từ Điển Hán Việt; lối văn được viết theo lời nói thông thường nên không có tính cách bác cổ của trường thi, không có những câu đối ư đối chữ kéo dài từng hai vế đi đôi với nhau. Đâu cũng sáng sủa, gọn gàng, có tính cách Việt Nam đến nỗi nhiều đoạn chỉ cần phiên âm là thành một câu tiếng Việt (...)

Kỹ thuật kể chuyện cũng không kém tài t́nh. Người đọc cảm thấy có một sức lôi cuốn huyền bí. Đó là nhờ ở cách tác giả dàn xếp các t́nh tiết của câu chuyện. Các t́nh tiết ấy liên tiếp nhau, ăn khớp với nhau chặt chẽ, theo một trật tự mà chỉ có một ư thức già giặn về kỹ thuật hành văn mới có thể trực giác thấy" [2]48.

 

Nếu nhận xét trên diễn tả lối văn kể chuyện sáng sủa, nhẹ nhàng, thoát ra khỏi những kỹ thuật g̣ bó, khách sáo nơi văn chương bác cổ của trường thi, trong toàn bộ Lĩnh Nam Chích Quái, th́ truyện Hồng Bàng lại là một điển h́nh nổi bật về thiên tài văn chương của tác giả cuốn sách nầy.

 

Câu chuyện tóm kết trong không hơn ba trang sách nhỏ, nhiều đợt truyện liên tục như một gịng nước chảy qua nhiều cảnh vực, nhiều ghềnh thác. Kỹ thuật phối trí chặt chẽ, lối kể chuyện găy gọn như chỉ giữ lại những sự kiện thiết yếu nhất đồng thời vẫn diễn tả được nét linh động, hấp dẫn như một cuốn tiểu thuyết.

 

H́nh thức văn chương đó phản ảnh không những tài năng hành văn của tác giả, mà c̣n xác minh một mức độ thâu hoá nhuần nhuyễn các nội dung chất chứa trong bản văn.

 

I. a - Những kỹ thuật hành văn đặc biệt của bản văn

 

Giáo sư Lê Hữu Mục đă đưa ra nhận xét là tác giả Lĩnh Nam Chích Quái không câu nệ h́nh thức đối ư, đối chữ kéo dài từng hai vế đi đôi với nhau. Tuy nhiên khi đọc qua câu chuyện Hồng Bàng, thoạt tiên ta có cảm giác về sự liên tục của diễn biến câu chuyện, nhưng ở đây điểm đặc sắc về kỹ thuật dụng văn của tác giả là trong mạch văn hồn nhiên đó, từ toàn bộ đến từng đoạn (nghĩa là từng câu truyện nhỏ được xếp lại) luôn hàm ngụ một lối phân chia thành hai cảnh vực, hai thế giới hoặc tương quan hổ tương với nhau, hoặc đối kháng nhau:

- Từ đầu bản văn đến sự xuất hiện tên Hùng Vương là một mẩu chuyện huyền thoại; phần thứ hai lại là bản văn tŕnh bày nặng phần lịch sử, địa lư, xă hội.

- Có một câu chuyện liên tục từ Đế Minh, Lộc Tục, Sùng Lăm, Âu Cơ, song song với câu truyện Đế Minh, Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du; và chính là nhờ sự đối chiếu nầy mà tiến triển câu chuyện và sự nhất quán của bản văn tạo nên một cấu trúc đặc biệt có hệ thống. Ngoài việc vận dụng đối chiếu song hành một cách khéo léo đó, tác giả c̣n dùng một câu nói đặc biệt, một mặt vừa để chấm dứt một câu truyện và chuyển qua truyện tiếp, mặt khác để nêu lên tính cách linh hoạt của Thể ḷng vào trong Dụng, từ cấp phổ quát đến cá nhân cụ thể.

·        "Bố đi đằng nào, không đến mà cứu chúng ta": Câu nầy đặt ở cuối phần Lạc Long Quân hiện diện ẩn kín trong xă hội nói chung.

·        "Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân dân": Câu nầy đặt ở phần cuối câu truyện Đế Lai từ bên ngoài đến phá hoại cuộc sống an b́nh của nhân dân nước Nam.

·        "Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ": Câu nầy trực tiếp gọi tên Lạc Long Quân là chồng, là cha đẻ của 100 con.

 

Qua h́nh thức xếp đặt, kết dệt các yếu tố của bản văn, nếu xét về mặt lịch sử mà thôi, ta thấy có những điểm quan trọng xem ra không mấy sáng tỏ. Nơi phần đầu Lạc Long Quân xuất hiện, đă có dân, có nước. Nhưng đến phần Lạc Long Quân chiếm vợ của Đế Lai là Âu Cơ để sinh hạ được 100 con như tạo một dân mới. Như thế, dường như lúc sau nầy mới là khởi thủy của dân nước chứ không phải lúc đầu!

 

T́nh trạng mập mờ trong việc xác minh nguồn gốc dân tộc phải chăng là kết quả của một sự sắp xếp vụng về các câu truyện huyền thoại của các bộ tộc khác nhau? ; hay ở đây chỉ v́ tác giả muốn ghi lại các mẩu chuyện huyền thoại dân gian để diễn đạt ư nghĩa văn hoá một dân tộc theo nghĩa là cộng đồng nhân loại trong chân tính của con người? Nếu phải ưu tiên t́m sự nhất quán siêu lịch sử, th́ việc thẩm định giá trị văn hoá của bản văn cần dựa trên một tầm quan trọng tích cực ở một chiều kích thứ hai.

 

 

I. b - Các tên gọi trong cấu trúc của bản văn

                    

Về các tên riêng chỉ người, cũng như các địa danh trong phần đầu câu truyện (nghĩa là phần huyền thoại), chúng ta sẽ ngạc nhiên v́ hầu hết đều là danh xưng hoàn toàn Tàu, mặc dù được phát âm theo lối Hán Việt. Các nhà nghiên cứu trước đây cố t́m một số các chỉ dẫn có tính cách lịch sử để xác minh về tên gọi của một số nhân vật như Kinh Dương Vương, Âu Cơ [3] nhưng đấy cũng chỉ là những giả thiết c̣n cần nhiều nghiên cứu chính xác hơn để có thể khẳng định.

 

Ở đây, trong khung cảnh của một câu chuyện huyền thoại, với một lối tŕnh bày có tính cách tượng trưng của toàn khối bản văn, ta sẽ khám phá thấy các danh xưng hàm ngụ những ư nghĩa văn hoá cô đọng; nếu xếp các tên gọi theo bối cảnh của câu truyện, ta ngạc nhiên thấy có một sự nhất quán của một hệ thống tư tưởng kết dệt qua các ư nghĩa tượng trưng của các danh xưng nầy. Sự kiện đó thường thấy xảy ra trong các bản cổ văn của bất cứ những tác phẩm văn hoá nào trong lịch sử của các nền văn minh cổ xưa, Hy lạp, Lưỡng hà, Do thái, Trung hoa hay Ấn độ...

 

Trong nhăn quan truy nguyên văn hoá nầy, ta có thể nói tác giả Lĩnh Nam Chích Quái đă tài t́nh chọn lựa những danh xưng, hoặc từ các dấu tích xa gần của lịch sử, hoặc dựa vào một số h́nh ảnh, ngôn ngữ hay ư niệm có tính cách văn hoá mà ở mức độ nào đó dân chúng đă quen thuộc, để vừa tạo nên một câu chuyện có đầu đuôi mạch lạc, vừa hàm ngụ một ư định tŕnh bày một hệ thống Minh triết.

 

Trong cấu trúc đối đăi song hành của câu truyện ta có những cặp tên gọi đối ứng:

 

  Phần I

 

- Đoạn một

       Cháu ba đời Viêm Đế Họ Thần Nông (Thần Nông 4) 

           Đế Minh + Vụ Tiên

 

- Đế Nghi                             

- Lộc Tục

- Phương Bắc 

- Phương Nam

 

- Đoạn hai

 

- Đế Nghi 

- Lộc Tục = Kinh Dương Vương + Long Nữ

- Đế Lai+Âu Cơ 

 - Sùng Lăm = Lạc Long Quân

                                   

- Đoạn ba

 

  - Đế Lai về phương Bắc 

- Lạc Long Quân + Âu Cơ đến núi Long Trang

 

-  Đế Du đánh nhau với Hoàng Đế ở Bản tuyền 

             

- đẻ một bọc 100 trứng

- sau bảy ngày nở 100 con

- 100 con không ăn uống mà lớn lên  

 

- Đoạn bốn

          Long Quân về Thủy phủ       -        Âu Cơ lại t́m về hướng Bắc

          Long Quân đến gặp mẹ con Âu Cơ ở Tương Dạ

          50 con theo Long Quân ở Thủy phủ

          50 con theo mẹ Âu Cơ ở trên Đất.

 

 

Phần II 

 

- Đoạn năm

          Âu Cơ ở Phong Châu với 50 con

- Lănh thổ nước Văn Lang

- Cơ cấu tổ chức cộng đồng quốc gia

- Sinh hoạt, tập tục của nhân dân.

    

Kết luận  Bách Nam là Thủy tổ của Bách Việt

 

Ta thấy:

Các tên gọi ở phần đầu có tính cách tượng trưng.

Các tên gọi ở phần hai có những căn cứ lịch sử.

Bách Nam và Bách Việt là phối trí ư nghĩa hai phần trên.

 

 

II- Giải thích ư nghĩa của bản văn

 

Trong nội dung nhất quán của hệ thống tư tưởng của Lĩnh Nam Chích Quái, đặc biệt theo sự xếp đặt lại của Vũ Quỳnh nơi 10 truyện ở Quyển I, ta thấy có những chỉ dẫn về nội dung tư tưởng tổng quát soi dẫn cho việc chọn lựa các tên gọi và cách bố trí đặc biệt của bản văn họ Hồng Bàng:

- Nền tảng Vương Đạo: Trời + Đất + Người, sẽ khai triển trong câu truyện Bánh dày - Bánh chưng.

 

- Nội dung thâm sâu của đạo lư con người vượt lên trên các tập tục luân lư h́nh thức; sự kiện đó sẽ thấy rơ trong truyện Đầm Nhất Dạ nơi thái độ của Công chúa Tiên Dung và Mai An Tiêm.

 

Với những chỉ dẫn nầy, ta trở lại ư nghĩa các tên gọi phối trí đặc biệt trong truyện họ Hồng Bàng để truy t́m hệ thống tư tưởng mà tác giả Lĩnh Nam Chích Quái muốn hàm ngụ.

 

Phần I

 

- Đoạn một:  Đây là nỗ lực tŕnh bày thuyết Tam Tài (Trời - Đất - Người), tương quan nền tảng của các chiều kích nhân sinh, giềng mối của Đạo lư và tư tưởng.

 

Theo huyền thoại Trung hoa, khởi thủy là Phục Hi (chiều kích trời) tiếp đến là Thần nông (chiều kích đất) và sau đó là Hoàng đế (chiều kích người).

 

Tác giả Lĩnh Nam Chích Quái lại có một lối diễn tả đặc biệt về thuyết Tam Tài của người Việt khi đưa Thần Nông (chiều kích đất) hàm ngụ Viêm Đế (chiều kích trời= sự sống của trời - viêm là ấm) đem lại ánh sáng Đế Minh trong ḷng người (chiều kích người ).

 

Tiếp đó tác giả cho thấy qua lịch sử, nếp sinh hoạt văn hoá của Trung hoa đă đi lệch đường khi giản lược đạo người vào h́nh thức tập tục, luân lư nhân vi, cơ chế xă hội (qua tên gọi Đế Nghi).

 

Có lẽ trong tinh thần dung hợp Đạo học của Lăo giáo, đồng thời với ư muốn bảo tồn phần Thể uyên nguyên của Nho học (mà Tống Nho đă quá chú trọng phần Dụng nên lăng quên), tác giả đă chọn h́nh ảnh đạo người chân thật qua hiện thân của Lộc Tục.

 

Lộc Tục là con của Đế Minh (người) và Vụ Tiên (trời), danh hiệu Lộc Tục lại hàm ngụ sự qui hợp của Trời (Lộc) và Đất (Tục)..., những chi tiết đó rơ rệt cho thấy tác giả muốn đưa ba yếu tố của Tam Tài thành một thể duy nhất với ba chiều kích. Nói cách khác việc tŕnh bày tư tưởng trong thuyết Tam Tài nầy có tính cách tượng trưng, diễn tả các chiều kích Minh triết của nhân tính toàn diện, chứ không phải nhằm mô tả tiến tŕnh phát triển văn minh theo phạm trù bản thể và nguyên nhân hậu quả của sự hiểu biết về thế giới vật chất hay dựa vào tiến hoá của lịch sử.

 

- Đoạn haiVương đạo Tam Tài lại được diễn tả qua quan điểm Âm - Dương, h́nh thành nên con người Mẫu Cao Đẹp là Sùng Lăm.

 

Kinh Dương là những tượng trưng Thuần Dương (Trời). Kinh là nét dọc, hướng đi lên.

Thủy Phủ - Động Đ́nh - Long Nữ là những tượng trưng cho Thuần Âm (Đất).

 

Sùng Lăm (Sùng là cao trọng đáng tôn kính bên trong, Lăm là đẹp đẽ xuất hiện ra bên ngoài) tượng trưng cho bậc chí nhân. Sùng Lăm có tên Lạc Long Quân tượng trưng h́nh ảnh chí thành của nhân tính:

Lạc:    gợi lên hạnh phúc viên măn (= Mỹ).

Long:  nguồn gốc thần thánh (= Chân).

Quân: quyền năng, phong cách tuyệt vời của con người trong xă hội (= Thiện).

 

Nhưng Lạc Long Quân ở xa, giấu mặt đồng thời lại gần với dân và giúp dân. Nói cách khác đây là chiều kích thâm sâu bên trong soi dọi và điều hành cuộc sống bên ngoài.

 

Và bên ngoài đó là thực tế của cuộc sống: dân khổ v́ yếu tố phương Bắc, tức là xă hội nhân vi, ngoại lai (Đế Lai) xâm nhập và đe dọa. Thực tế bên ngoài đó cũng là một Âu Cơ (có thể là Ưu Cơ nghĩa là lo lắng, khổ đau, những toan tính khó khăn) chịu sự khống chế của một Đế Lai từ Bắc phương đến.

 

Thật kỳ lạ, tại sao Âu Cơ, mẹ của con người, lại là từ Bắc phương đến cùng Đế Lai và là vợ của người nầy?

 

V́ nặng ḷng với lễ nghi, luân lư h́nh thức, và đóng khung ư nghĩa của câu truyện trong khuôn thước nầy, nhiều nhà sử học đă chuyển lư lịch của Âu Cơ thành em gái của Đế Lai thay v́ giữ lại vị thế là vợ của Vua Phương Bắc. Thật ra, ở đây giống như trong câu chuyện nàng Công chúa Tiên Dung, tác giả không chú tâm đến việc truyền đạt một loại luân lư h́nh thức, nhưng là nêu lên một ư nghĩa minh triết thâm sâu hơn. Trong truyện nầy, tác giả cũng không lưu tâm đến nguồn gốc giống tộc hay một ưu tư luân lư xă hội nào khác hơn là nêu lên thân phận của nhân loại, của mỗi người trong cuộc sống trần thế. Thánh Kinh Do Thái giáo và Kitô giáo, trong bản văn Sáng Thế đă mô tả thân phận đó qua h́nh ảnh bùn, đất. Âu Cơ, người mẹ kỳ lạ của nhân loại, một thực thể hữu h́nh, tự căn bản là người đàn bà ngoại lai, chịu thử thách và khống chế của ảo ảnh, nhân vi, ràng buộc với Đế Lai. Đây phải chăng là con người trong cái khung của "thiên hạ" theo quan điểm của Đạo Đức Kinh, là nhân sinh mang nặng cái nghiệp chướng của Karma theo thuyết nhà Phật, là một nàng kiều gian truân của Nguyễn Du sau nầy! Và trong nỗi âu lo của nhân sinh, con người kêu đến Lạc Long Quân để cứu vớt.

 

- Đoạn ba: Sau tiếng kêu cầu, Lạc Long Quân xuất hiện và từ nơi cái nh́n của kẻ chí nhân nầy, nàng Âu Cơ trở nên đẹp đẽ để kết hợp với vị vua ẩn mặt ở núi Long Trang.

 

Long Trang tức là nơi cư ngụ của Rồng, nhà của bậc thần thánh.

 

Từ đấy Âu Cơ thoát khỏi nanh vuốt và sự khống chế của Đế Lai.

 

Qua duyên gặp gỡ nầy, Đế Lai trở về Phương Bắc. Nền văn minh giả tạo v́ hung hăng đó lưu lạc dông dài qua h́nh ảnh Đế Du để rồi chấm dứt trước nguyên lư của Trời - Đất, qua h́nh ảnh Bản Tuyền (Suối Uyên nguyên).

 

Đoạn văn tiếp theo ghi đậm trong Đại-kư-ức của dân gian qua mẩu chuyện Một Mẹ Âu Cơ với trăm con.

 

Một năm chung sống giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ tại Long Trang là tượng trưng cho một thời gian hoàn măn, thời gian nguyên thủy và cũng là thời chung điểm; các nhà nghiên cứu về văn hoá cổ xưa gọi là Một Năm Cao Cả (Grande Année); thời giao hoà lư tưởng giữa Trời - Đất - Người.

 

Bọc một trăm trứng, theo các nhà dân tộc học có thể là điển tích lấy lại từ huyền thoại của người Mường. Đó là nói đến h́nh ảnh của Cái trứng. C̣n con số trăm, dường như số nầy thường được nhắc nhở nhiều lần khi nói đến các bộ tộc về phía Nam nước Tàu. Số nầy c̣n được lặp lại ở câu kết khi nói đến Bách Nam, Bách Việt. Theo cảm nhận chung của dân gian, cái bọc được hiểu là một bào thai, gợi lên ư niệm về sự khởi thủy, nguồn gốc chung. Gốc chung nầy nối kết những khác biệt của một trăm cái trứng. Và cảm thức đó mạnh mẽ đến độ để gọi người đồng hương, ngôn ngữ Việt Nam dùng lại chữ Tàu là đồng bào, nghĩa là cùng một bọc, một nguồn, một mẹ. Từ cảm thức đó, ta quay ngược lại để hiểu rằng ưu tư nổi bật của tác giả là chọn một h́nh ảnh thi ca, huyền thoại để diễn tả tương quan gắn bó giữa các con người khác nhau, giữa các bộ tộc khác nhau phát xuất từ một nhân tính chung. Sử gia Ngô Thời Sĩ nhận xét và đánh giá rằng "việc tựa hồ lạ mà không phải lạ và cũng không nên tự cho là hẹp ḥi như con hạ trùng th́ mới phải" [4] Tuy tác giả gượng bênh vực câu truyện của Lĩnh Nam Chích Quái, qua việc đề cao gốc tích cao cả đáng tự hào của dân tộc, nhưng phải chân nhận là sử gia nầy đang bị chi phối bởi một lối truy t́m lư lịch khác với ư định của Trần Thế Pháp hay Vũ Quỳnh. Khi nói con người vốn là bùn đất trong sách Sáng Thế Kư của Thánh Kinh Do Thái, hoặc khi dùng h́nh ảnh cái bọc trăm trứng, các tác giả nầy không nhằm truy nguyên bản chất con người như các nhà vật lư học, sinh vật học hay ngay cả sử học. Đây là tượng trưng theo lối nói thi ca để diễn tả một ư nghĩa mà h́nh ảnh được dùng gợi lên, khác với đối vật của chính h́nh ảnh đó.

 

Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh viết truyện nầy vào đời Trần và đời Lê, một thời đại mà kiến thức về sự vật không thể nói là man khai. Phải chăng v́ tầm nh́n của các sử gia chúng ta về sau quá chật hẹp không biết đến một khung trời văn hoá nào ngoài kiến thức về sự vật mà thôi!

Sau chi tiết về con số một năm, tác giả c̣n dùng số bảy để chỉ thời gian từ trứng nở thành người.

 

Trong cuốn "Tự điển tượng trưng" [5] các tác giả cho thấy con số 7 được hầu hết các nền văn hoá dùng dể chỉ đến một sự tiến hoá tuyệt vời của nhân sinh.

 

"Trong các truyền thuyết và huyền thoại, só nầy có thể gọi lên bảy h́nh thái của vật chất, bảy cấp độ của ư thức, bảy giai đoạn của tiến hoá (...)  (ở cấp 7) ư thức về nhân sinh: đưa toàn bộ sinh hoạt về đời sống trường cửu và cứu độ" [6].

 

Riêng trong khung cảnh văn hoá Đông Nam Á, số bảy đi liền với chữ hoá - (thất hoá). Trong bản văn ghi: "hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai". Truyện c̣n nói thêm là một trăm con người phi thường nầy không phải cho ăn, cho uống mà tự nhiên trường đại, trí dũng song toàn. Đây là mẫu mực tượng trưng cho sự tôn trọng phẩm giá của mỗi con người, mỗi bộ tộc, từ chính việc họ là người được sinh ra đời. Một sự hoàn thành từ nguyên thủy nơi chính bản tính là người của mỗi cá nhân, không lệ thuộc các yếu tố nào bên ngoài như chủng tộc, màu da, hoàn cảnh xă hội, tuổi tác v.v... Nói cách khác, tự nơi bản chất làm người, mỗi nhân vị đă được đạt đến "thất hoá", và cần được tôn trọng trong phẩm chất cao quí nầy.

 

- Đoạn bốnLong Quân lại về Thủy Phủ và Âu Cơ cùng các con ở một ḿnh.

 

Cảnh giới địa đàng Long Trang sống chung giữa Long Quân và Âu Cơ như là một thuở ban sơ lư tưởng thời Minh triết mà Lăo Tử gọi là "Tích chi", Mạnh Tử gọi là "Nhân chi sơ", Khổng gợi lên "Thời Nghiêu Thuấn", sách Sáng-thế Do Thái giáo mô tả là thuở ban đầu con người tiếp cận với Giavê Thiên Chúa, cảnh giới đó như chỉ c̣n là h́nh ảnh lưu lại trong Đại-kư-ức.

 

Âu Cơ là thân phận nhân loại tại thế: Một mặt nhớ về Lạc Long Quân, nhưng mặt khác cũng tiếc nuối Phương Bắc, quê của Đế Lai. Nàng v́ cô đơn, khó khăn của cuộc sống, như dân Do Thái xưa, sau khi đă được giải thoát khỏi ách nô lệ của Ai Cập, vẫn gặp nguy cơ muốn quay về vùng đất cũ của Pharaon, vùng đất oan nghiệt của Đế Lai.

 

Nàng đă muốn quay về Phương Bắc, nhưng đó không phải là nơi cư ngụ thật sự của nàng và các con nàng. Và kỳ lạ thay Lạc Long Quân, niềm vui và hạnh phúc của nàng th́ ở Thủy phủ, dấu mặt. Nhưng niềm hy vọng của nàng là trong nỗi cơ cực, nàng gọi đến Lạc Long Quân, th́ chàng lại đến.

 

Trong câu truyện Hồng Bàng, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân là người ẩn kín nhưng luôn gần con người, bảo vệ cứu thoát con người. Tác giả nhấn mạnh điểm nầy qua ba lần lặp lại những lời kêu van của nhân dân cũng như của mẹ con Âu Cơ. "Bố ở phương nào...".

 

Sự hiện diện ẩn kín của nguồn Chân lư, Hạnh phúc hoàn măn, Ánh sáng dẫn đường...trong cuộc sống con người là mẫu số chung ghi khắc trong Đại-kư-ức nhân loại qua sự diễn tả của bất cứ nền văn hoá nào: Logos của Héraclite, Trung Dung trong Nho học, Đạo của Đạo đức kinh, Thiên Chúa ẩn mặt của Do Thái giáo...

 

Lạc Long Quân đến với mẹ con Âu Cơ, khi nàng kêu cầu, tại Tương Dạ.

Tương Dạ = Đêm gặp gỡ.

 

Nhưng Dạ theo tiếng Việt c̣n có âm hưởng là tâm ḷng ḿnh.

 

Cả hai nghĩa nầy phối hợp cho ta thấy là cảnh giới ẩn kín bên trong, nơi con người gặp gỡ Một Ai mà "mắt của ban ngày", của sự hiểu biết sự vật không hề thấy. Sách Thượng Thư gọi cảnh vực nầy là "Trung" hay là "Tâm Duy Vi".

 

Và cũng chính từ ư nghĩa của Lạc Long Quân ẩn kín nầy, ta hiểu được phần tiếp khi nói đến 50 con theo cha về Thủy phủ và 50 con theo mẹ về Phong châu. Theo lối giải thích thông thường, khi nói đến 50 con ở trên đất và 50 con ở dưới nước, người ta có khuynh hướng cho rằng đây là lối diễn tả t́nh huynh đệ của người miền núi và kẻ ở đồng bằng. Nhưng những giải thích có tính cách xă hội học đó dường như không nằm trong nội dung nhất quán của bản văn:

- Thủy tộc có phải gợi đến đồng bằng hay không? Nếu năm mươi con theo mẹ ở trên đất, đất ở đây có phải chỉ là vùng cao nguyên miền núi hay không? Nếu chỉ là cao nguyên miền núi, th́ Hùng Vương và nước Văn Lang được hiểu thế nào trong tương quan với những người đồng bằng? Không phải là dân cư phần lớn kết hợp nên cộng đồng nước Văn Lang là người ở đồng bằng hay sao?

 

Giữa những nhận xét quá thiên về khoa học lịch sử và những câu hỏi vừa nêu, khó ḷng t́m ra được những giải đáp thoả đáng.

 

Trong mạch văn chuyển từ phần I đến phần II, từ huyền sử (hướng đến một khung cảnh văn hoá phổ quát của nhân loại, và với lối diễn tả tượng trưng) đến sử khởi từ các tên gọi như Phong Châu, Hùng Vương, Văn Lang và các địa danh, danh xưng các vai tṛ điều hành xă hội đến những sinh hoạt cụ thể, ta thấy Âu Cơ, Lạc Long Quân, 100 con nằm ở phần I, nghĩa là phần huyền sử.

 

Lạc Long Quân là h́nh ảnh người Cha ẩn kín, chiều kích thâm sâu nơi mỗi người. Âu Cơ là h́nh ảnh Mẹ muôn người, chiều kích mở ra của cuộc sống con người trong thời gian, nơi nhân thế. Nên Âu Cơ ở đây không có tương quan ǵ với chế độ mẫu hệ theo khuôn khổ các chế độ gia đ́nh và xă hội cả. Nhận xét nầy ăn khớp với khung cảnh xă hội phụ hệ trong toàn bản văn Lạc Long Quân; và năm mươi con về Thủy phủ đúng hơn là để nói đến h́nh ảnh một thế giới khuất mặt. Có lẽ tác giả đă gợi lên mối tương quan của kẻ đă chết (50 con ở Thủy tộc với cha), với thế giới con người đang sống (50 con ở trên đất), một giả thiết ăn khớp với niền tin tưởng chung của nhân gian hơn.

 

Do từ lối nhận xét nầy qua phần II, nơi lịch sử con người tượng trưng qua h́nh ảnh Âu Cơ, Hùng Vương thực sự là vua của toàn thể cộng đồng (50 con sống trên đất, nơi dương thế) không giới hạn thuộc bộ tộc nào, không phân biệt ở đồng bằng hay trên miền núi.

 

Phần II

 

- Đoạn năm

ở phần nầy, tác giả mô tả chi tiết hơn điều đă nói ở đoạn 2 phần I.

"Lạc Long Quân thay cha để trị nước, c̣n Kinh Dương Vương th́ không biết đi đâu. Lạc Long Quân dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quân thần tôn ty, có luân thường về phụ tử phu phụ..." (đoạn 2, phần I).

 

Như thế theo ư tác giả, xă hội Việt Nam (qua h́nh ảnh Âu Cơ) cụ thể đă nghe theo lời dạy của Lạc Long Quân khuất mặt, ngụ ư rằng lịch sử của cộng đồng dân tộc Việt Nam được soi dẫn bởi đạo lư bên trong, điều hành đúng theo Cương Thường ghi khắc nơi ḷng người (xem phần dẫn nhập của Vũ Quỳnh).

 

Trước hết đó là trật tự xă hội, tiếp đó là nếp sống sinh hoạt, phong phú, hài hoà trong tương giao gắn bó của ba chiều kích Trời - Đất - Người.

 

- Câu kết: Tác giả dùng chữ Bách Nam để gọi tên nguồn gốc (Thủy tổ) của Bách Việt.

 

Nếu chữ Bách Việt thường dùng một cách quen thuộc để gán chỉ các bộ tộc ở phía nam Trung Hoa về mặt địa lư, th́ chữ Bách Nam là một từ riêng của Lĩnh Nam Chích Quái. Trong toàn bộ câu chuyện huyền thoại ở phần I, tác giả đă làm nổi bật sự dị biệt văn hoá của Phương Nam và văn hoá của Phương Bắc. Phương Nam  vừa là biểu thị một vùng địa lư, nhưng nơi câu truyện c̣n có nghĩa là nơi cư ngụ của Lộc Tục, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, và nơi ẩn náu cho Âu Cơ. Phương Nam tượng trưng nầy là Nhân đạo qui hợp Đất - Trời, nơi gặp gỡ Lạc Long Quân và Âu Cơ, đối lại với một Phương Bắc tượng trưng cho một thể chế xă hội xơ cứng, h́nh thức (Đế nghi), giả tạo và gây tai hoạ (Đế Lai, Đế Du) cho nhân phẩm. Nên Bách Nam tượng trưng nầy chính là Thủy Tổ, tức là nguồn sinh lực văn hoá điều hành nếp sinh hoạt của dân tộc Bách Việt trong lịch sử.

 

Cũng nên nhắc lại là tác giả không ưu tư cổ súy một tâm t́nh, một h́nh thức dân tộc quá khích nào để xây dựng nên câu truyện. Nếu Thánh Kinh Do Thái giáo nêu lên một Ai Cập như là vùng đất kềm hăm con người trong ṿng nô lệ, th́ Ai Cập đó là h́nh ảnh của thân phận con người sống trong tội lỗi, chứ không có một tơ vương chủ nghĩa dân tộc hẹp ḥi nào trong đó; nơi Lĩnh Nam Chích Quái, Phương Bắc chỉ là một tượng trưng cho một thế giới giả tạo, nhân vi, có thể áp dụng cho bất cứ ai, bất cứ xă hội nào vào bất cứ lúc nào trong cuộc sống nhân loại.

 

Hồng Bàng Thị, tên gọi của câu truyện nầy, cũng là tên đặt cho Phương Nam, tức là Bách Nam thủy thổ cho Bách Việt. Nay từ nội dung chung của toàn bộ bản văn tên gọi đó có thể được giải minh như sau:

- Thị, không phải là một họ, nghĩa là tên gọi của một gia đ́nh như Lê, Lư, Trần, Nguyễn. Thị  ở đây được hiểu là một ḍng giống, một dân theo nghĩa văn hoá, như ta thường nói ḍng giống anh hùng, dân tộc thần thánh...

 

- Hồng Bàng: V́ tính cách khá bất ngờ chỉ xuất hiện trong Lĩnh Nam Chích Quái, danh hiệu Hồng Bàng hầu như là sáng tác riêng của tác giả cuốn sách nầy. Sáng tác dựa trên cơ sở dân tộc học (như mô típ chim được thấy nơi dấu tích của các Trống đồng, hay dựa vào các huyền thoại người Mường về Totem chim....) hay dựa vào một nguồn hứng khởi nào khác, tất cả đều c̣n là giả thiết.

 

Theo quan điểm của chúng tôi, những khám phá trong khuôn khổ của việc truy cứu lịch sử, với những tên như đất Kinh, đất Dương, đất Âu...hay những trùng hợp rất xác xuất của một số tên gọi trong Lĩnh Nam Chích Quái nơi phần huyền sử với các âm của thổ ngữ các dân tộc thiểu số, cũng như với các mô típ chim tổ, chẳng hạn...tất cả những dữ kiện đó không có ǵ mâu thuẫn với công việc sáng tác rất thư thái, tự do của một tác giả tận dụng các chất liệu nầy để xây dựng một câu chuyện hàm ngụ một sứ điệp văn hoá trong một chiều kích và ư nghĩa khác hơn. Nhưng chính việc chọn lựa một số tên, một số h́nh ảnh trong muôn ngàn yếu tố lịch sử khác để xây dựng một nội dung nhất quán theo ư ḿnh có lẽ đáng làm cho ta lưu ư hơn cả.

 

Như thế, ta có thể dựa vào ư nghĩa chung có tính cách nhất quán của bản văn để hiểu rằng Hồng Bàng là một từ Hán Việt gây nên một âm hưởng về một cái ǵ phổ quát nguyên sơ.

 

Hồng là cao cả, to lớn,

Bàng là rộng khắp.

 

Một cách nào đó, có thể hiểu Hồng Bàng Thị là một lối nói thi ca diễn tả nhân loại tính phổ quát và cao cả của con người, từ nơi bản chất uyên nguyên của nó (nhân chi sơ) và thấy được trong những tương giao đầy t́nh nghĩa, sinh hoạt phong phú tự do và nhịp nhàng của xă hội trong lịch sử. Nội dung của chính bản văn mà ta đă tŕnh bày ở phần trên xác minh cho lập luận giải minh nầy.

 


 

[1] Bản dịch ra quốc ngữ của GS Lê Hữu Mục

[2] Phần Dẫn Nhập của người dịch, tr. 30 và 33

[3] Xem quan điểm của nhà sử học Phạm Văn Sơn trong cuốn Việt Sử Toàn Thư, của các nhà dân tộc học Nông Quốc ChấnPhan Đăng Nhật trong cuốn Lịch sử Văn học Việt Nam.

[4] Ngô Thời Sĩ, Việt Sử Tiêu Án, bản dịch của Hội Việt Nam nghiên cứu liên lạc văn hoá Á châu, 1960, trang 11.

[5] Jean ChevalierAlain Gheerbrant, Dictionnaire des symboles, ed Robert Laffont/Jupiter, Paris 1982.

[6] Sđd, tr. 865.

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính