Thực chất về “t́nh đồng chí chiến lược”, giữa Hoa Kỳ và CSVN, sau ngày 30-4-1975
Mường Giang
Suốt mấy thập niên qua, khi thế giới đi vào xu hướng toàn cầu hóa th́ chủ nghĩa khủng bố cũng thay đổi bộ mặt và là công cụ phục vụ cho bọn lănh đạo độc tài khắp năm châu, trong đó có CSVN. Tại Hoa Kỳ sau biến cố lịch sử 9-11-2001, làm sụp đổ hai ṭa cao ốc tại khu thương mại quốc tế ở New York, th́ Tổng thống W.G.Bush (con) lúc đó, luôn nói tới việc diệt trừ khủng bố, mà ai cũng đă thấy qua các cuộc chiến tại A Phú Hản, Iraq, Phi Luật Tân.. vừa giúp Hoa Kỳ trả thù tổ chức khủng bố Al-Qaeda là thủ phạm chính đă gây ra nợ máu với dân tộc Hoa Kỳ, vừa để Mỹ có cớ trở lại vùng Đông Nam Á Châu, để lập lại những căn cứ chiến lược đă bỏ trống, từ sau khi tháo chạy khỏi Nam VN, với mục đích ngăn chống sự bành trướng của Trung Cộng xuống khu vực. Trong chiến lược toàn cầu này, CSVN được Hoa Kỳ ve văn và chiếu cố v́ nằm sát nách TC.
Từ câu chuyện trên, vô t́nh đă giúp cho bộ máy tuyên truyền của Đảng có dịp nói phét, khiến cho ai nấy đều tin rằng người Mỹ hiện rất cần VN. V́ vậy CSVN muốn đ̣i hỏi bất cứ điều ǵ Hoa Kỳ cũng phải đáp ứng đầy đủ, kể cả sự hy sinh “dân chủ, nhân quyền” mà nước Mỹ luôn coi là mục tiêu tối hậu của ḿnh, qua bất kỳ tổng thống nào dù thuộc Đảng cộng ḥa hay dân chủ. Điều này cũng đă được nhiều nhà chính trị trên thế giới xác nhận, khi đem hai tập đoàn đại tư bản Mỹ đang làm ăn tại VN là Bill Gate và Intel ra chứng minh, rồi kết luận “chính quyền Mỹ bị các tập đoàn tài phiệt giựt dây nên chỉ biết phục vụ cho đại tư bản”.
Bởi vậy ở đâu Hà Nội cũng to miệng tuyên bố “cần quan hệ kinh tế nhưng không được can thiệp vào nội bộ lẫn nhau”. Làm như cùng hưởng ứng những lời xảo ngôn trên, Hoa Kỳ lại cố t́nh tung thêm những trận hỏa mù, khiến cho lănh đạo CSVN càng lúc càng “tự sướng” v́ tưởng thật là ḿnh “quan trọng và cần thiết nhất” tại Đông Nam Á, đến độ Mỹ chỉ được đóng vai tṛ bảo vệ cho Đảng CSVN mà thôi, duy nhất chỉ vậy và đó cũng là ư nghĩa của “sự quan hệ chiến lược” mà Hà Nội đă vọng tưởng, ít ra là thời kỳ Nguyễn Phú Trọng giữ chức TBT Đảng từ năm 2012 tới nay.
Thật sự, v́ không muốn VN trở thành chư hầu của Trung Cộng, để rồi như vết dầu loang nhuộm đỏ các đồng minh của ḿnh trong vùng như Thái Lan, Mă Lai Á, Tân Gia Ba, Nam Dương.. nên Hoa Kỳ qua nhiều đời Tổng Thống từ năm 1990 tới nay, mà cao điểm là thời TT W.Bush (con), hầu như đă chủ động t́m tới kết thân với Hà Nội, qua nhiều h́nh thức., Nhờ vậy đă vực dậy “một cái xác chết chưa chôn” như cố TT Nixon đă làm với “Trung Cộng nghèo đói, lạc hậu từ năm 1972”. Chính người Mỹ đă giúp VN, khai thông những bế tắc trên con đường hội nhập vào quốc tế, qua vốn đầu tư, bảo trợ vay nợ cũng như mở rộng thị trường Mỹ, để nâng đỡ hàng hóa xuất cảng của VN.
Tất cả thiện chí trên của Hoa Kỳ, chẳng những giúp VN phát triển về kinh tế, mà c̣n là một cầu chứng toà, giúp bảo đăm về chính trị của VN trong vùng, khiến cho Trung Cộng cũng phải xét lại thái độ và hành động của ḿnh, mà bớt đi phần nào sự hung hăng bắt nạt VN như trước. Nhưng sự giúp đỡ của người Mỹ đă bị Đảng phản bác chống đối như một thế lực thù nghịch. Thái độ trên, một phần v́ Đảng quá sợ Trung Cộng khi quan hệ với Mỹ, phần khác do sự lú lẫn và đần độn của những “đỉnh cao trí tuệ”. Nhưng trên hết là do tham nhũng từ trên xuống dưới, nên nếu theo Mỹ, th́ cả Đảng hết c̣n cơ hội nhận “phong b́ đỏ” của Tàu.
Nói một cách thẳng thừng, th́ VN phải nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để sống c̣n trước Trung Cộng đang có dă tâm xâm lăng nước ta. Nh́n lên bản đồ Đông Nam Á ngày nay, VN thật sự không chiếm giữ một vai tṛ chiến lược nào, ngoài việc có chung biên giới và lănh hải với Tàu đỏ. Những bài học địa lư chỉ có giá trị trong các thập niên 40-50 của thế kỷ XX, được Đảng thổi phồng trong các sách giáo khoa nhồi sọ trẻ em trong nước, nay đă lỗi thời trước xu hướng phát triển toàn cầu. VN cũng không phải là cửa ngơ duy nhất để vào khu vực Đông Nam Á, mà chỉ là con đường bộ để đi vào các tỉnh Nam Trung Hoa và Lào. VN cũng không phải là một vị trí chiến lược quan trọng trong hải lộ Thái B́nh Dương, nếu so với các nước Phi luật Tân, các đảo Hoàng Sa, Hải Nam, Hồng Kông (thuộc Trung Cộng) dù VN có bờ biển dài trên mấy ngàn cây số. Tóm lại, ngoài Trung Cộng cần tới VN phục vụ như một chư hầu hay các vùng tự trị, tất cả các nước khác kể cả Nga và Hoa Kỳ đều không cần dùng tới cửa ngơ VN nhưng họ vẫn vào được vùng Đông Nam Á.
Tóm lại, cái gọi là chiến lược mà Hà Nội đang huênh hoang khắp thế giới và Hoa Kỳ, chỉ để che đậy và khỏa lấp sự sống c̣n của VN trước sự bành trướng xâm lăng khốc liệt của Trung Cộng, qua sự đồng thuận đầu hàng của CSVN. Tài liệu mới nhất của Wikileaks cho biết Nguyễn Phú Trọng và CSVN đă bán cho TC Hoàn Sa, Trường Sa, Vịnh Bắc Việt, Cao Nguyên Trung Phần và miền duyên hải. Trọng c̣n ra lệnh mở cửa biên giới cho người Tàu tự do vào VN.. Riêng Biển Đông, cửa ngơ của VN hướng ra thế giới bên ngoài, thật sự ngày nay đâu có khác ǵ cái ao trong biển Thái B́nh, nên chẳng ăn nhập ǵ tới chiến lưọc xoay trục của Mỹ, như eo biển Malacca thuộc địa vực ba nước Tân Gia Ba, Nam Dương và Mă Lai Á, mới là huyết mạch trên hải lộ từ Ấn Độ Dương tới Thái B́nh Dương, dự phần quyết định trong thế chiến sắp tới.
Và nếu có chiến tranh với Trung Cộng, dù có VN hay không, Hoa Kỳ vẫn có đủ chiến lược đối đầu với Tàu, qua các vị trí tại Úc, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mă Lai Á, Tân Gia Ba.. Nhưng có một sự thật không thể chối cải được: Đó là Tàu đỏ sẽ chiếm VN ngay (dù thiệt hay giả ngộ) khi khai chiến với thế giới. Chính VN mới là nước bị đe dọa trực tiếp chứ không phải Đài Loan hay Phi Luật Tân v́ hai nước này đưọc Mỹ bảo vệ. Nói một cách khác, tất cả các nước ở Đông Nam Á trong đó có VN (dù bị Đảng phủ nhận), đều cần tới sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Như vậy trong “ván bài quan hệ chiến lược”, dù Hà Nội qua sự chỉ đạo của “con chốt Tàu” Nguyễn Phú Trọng, có hung hăng tráo trở, nhưng mọi người đều thấy rơ thực chất “CSVN hiện là đồng minh của ai ?” và chính ai mới cần tới ai trong ván cờ chiến lược toàn cầu ! Bi hài nhất trong vở kịch đồng minh chiến lược “VC - Hoa Kỳ” vẫn là “sự chống Mỹ cứu nước”. Như vậy chẳng lẽ Hoa Kỳ ngu muội đến mức phải hy sinh danh dự của một siêu cường, để bao che cho một Đảng cướp, công khai bán nước cho Tàu, khủng bố đồng bào và chà đạp nhân quyền, dân chủ trong nước ?.
Đó là thực chất của sự bang giao Mỹ-VC, khởi đầu từ lư do Hoa Kỳ đă chọn liên minh quân sự với kẻ thù VC, qua lời tuyên bố công khai của đại sứ Mỹ tại VN là Marine vào ngày 3-2-2007 và mới nhất là sự lập lại của ngoại trưởng Mỹ John Kerry (2016) khi tới thăm VN vừa qua, sau đó đă băi bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương. Đó là lư do, mà nhiều đời Tổng thống Mỹ dùng để biện minh với thế giới khi bất chấp dư luận phê phán nước Mỹ đă quên hết những lời tuyên bố mạnh mẽ trước kia, là chống các chế độ chuyên chế độc tài, nhất là các nước cộng sản.
Sự thay đổi đột ngột lập trường chính trị của chính quyền Mỹ đối với CSVN sau ngày 30-4-1975, khiến ai cũng phải bàng hoàng khựng điếng, nhất là việc ban phát bừa băi những ân huệ thừa thải không hợp lư của cựu Tổng Thống W.Bush (con), dành riêng cho Đảng CSVN (chứ không phải giúp đồng bào), từ việc bỏ tên VC ra khỏi danh sách CPC để Đảng có điều kiện tổ chức hội nghị APEC tại Hà Nội với sự hiện diện của nhiều nguyên thủ quốc tế trong đó có Mỹ. Kế tiếp là cho qui chế PNTR và sau cùng được gia nhập WTO và kế tiếp sẽ là TPP (dù hiện nay c̣n nằm ỳ trong quốc hội Mỹ, chưa biết ngày mai sẽ ra sao với tân tổng thống vào tháng 1-2017), coi như những thắng lợi vàng ṛng, giúp Đảng VC vẽ vang trên các diễn đàn ngoại giao quốc tế. V́ vậy, nên Mỹ đă làm ngơ trước sự bạo tàn của Đảng, để chúng mặc sức khủng bố đồng bào ḿnh. TT Barack Obama khi sang thăm VN vào cuối tháng 5-2016, dù không tới hiện trường nhưng chắc nghe biết về đất nước VN đang điêu tàn, dân chúng đói rách lầm than v́ đồng ruộng miền Nam bị ngập mặn do TC đă chặn hết nguồn nước trên thưọng nguồn sông Cửu Long. Tại bốn tỉnh miền Trung và nhiều địa phương khác, cảnh cá chết đầy đường, cao nguyên hạn hán, dân oan và sự giàu sang tột cùng của Đảng VC, qua những ân huệ ban phat từ các đời tổng thống Mỹ.
Ngày nay qua núi sử liệu trong và ngoài nước đă bật mí, ta mới biết được VC ngoài miệng lúc nào cũng nói chống Mỹ, Tây Phương, Nhật, Tư Bản nhưng trong tận cùng tim óc lại rất thèm thuồng sự bang giao với họ, nhất là kẻ thù không đội trời chung Hoa Kỳ. Bởi vậy khi Sài G̣n vừa bị cưởng chiếm lúc trưa 30-4-1975, th́ chỉ hai tháng sau VC đă trơ trẽn mời hai ngân hàng lớn của Mỹ trở lại VN, để bàn thảo phát triển kinh tế và thương mại.
Tháng 9-1976, VC được nhận vào Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund - IMF). V́ là nước cọng sản đầu tiên được vào tổ chức này, nên Hà Nội đă bị Nga và cả khối cộng sản quốc tế phản đối dữ dội v́ bị cho là đi lệch hướng, khi chia xẽ bí mật quốc gia cho kẻ thù. Ngoài ra v́ đang đi dây giữa nhiều thế lực để kiếm lợi, nên VC đă từ chối không gia nhập Khối Kinh Tế Đông Âu (Comecon), nên bị Mạc Tư Khoa hủy bỏ nhiều dự án hứa giúp VN lẫn quân viện, kể cả gạo viện trợ của Trung Cộng cũng bị cúp luôn. Tóm lại bắt đầu năm 1977, VC hoàn toàn bị cô lập trước thế giới, đồng thời cũng kẹt cứng trong mối liên hệ an ninh quốc gia, giữa Khmer Đỏ và Trung Cộng.
Với người Mỹ sau khi chiến tranh Đông Dương lần 2 kết thúc, đă mệt mơi thất vọng v́ sự tháo chạy nhục nhă tại Nami VN của TT Nixon, lại thêm vụ nghe trộm Watergate của đương sự, nên đă bầu Jimmy Carter, điền chủ trồng đậu phụng ở miền Nam, thuộc Đảng Dân Chủ làm tổng thống. Lúc đó Carter nghĩ rằng muốn xóa bỏ hội chứng VN trong ḷng người Mỹ, th́ phải thiết lập ngoại giao và b́nh thường hóa quan hệ giữa hai nước. Hơn nửa giữa hai cưụ thù cọng sản là Trung Cộng và VC, th́ Hà Nội được Mỹ chấp nhận dễ dàng hơn v́ sau ngày hai phía kư hiệp định ngưng bắn 27/1/1973, thực chất đă là đ̣ng minh (chứ không phải VNCH), nên không có một vấn đề ǵ nhiêu khê, như vụ Đài Loan đối với Bắc Kinh.
Nhưng ư tưởng khôi hài và khờ khạo trên của Tổng thống Carter, đă làm cho Lê Duẩn và bộ chính trị lúc đó hiểu lầm và tăng thêm sự kiêu căng phách lối trong những bộ óc đặc sệt bùn đất và rác rưởi, nên cho là Mỹ đă gục ngă trước chiến thắng thần thánh siêu nhân của các đỉnh cao, cùng với sự ưu việt của chủ nghĩa xă hội, qua ba ḍng thác cách mạng, đă đánh gục ba đại cường Pháp-Nhật-Mỹ, khiến cho tư bản giẫy chết. Bởi vậy Hà Nội cần ǵ liên hệ với tên đầu sỏ tư bản là Mỹ, đang cầu cạnh tới làm quen.
Chính sự chủ quan thiển cận đó, đă làm cho Mỹ quay mặt với VN và quyết tâm kết thân với TC, đẩy Hà Nội vào con đường tận tuyệt phải chạy theo Liên Xô, gây nên cuộc chiến long trời lở đất giữa Hoa-Việt tại biên giới hai nước vào tháng 2-1979. Kết quả 5 tỉnh thượng du Bắc Việt bị giặc Tàu tàn phá bằng bom đạn, thành những đống gạch vụn, nhiều vạn đồng bào và bộ đội thương vong thảm thiết và kinh hoàng nhất là cả nước từ nam ra bắc, đắm ch́m trong ngục tù thù hận, địa ngục đói nghèo, hơn 10 năm dài v́ bị cả loài người quay lưng nguyền rũa, khi đối mặt với hàng triệu thuyền nhân VN, liều chết bỏ quê hương ra biển t́m tự do trong nổi chết chực chờ.
Bị căn bệnh hoang tưởng không c̣n thuốc chữa, thêm vào đó các lănh tụ cọng sản vĩ đại của Bắc Bộ Phủ, từ Lê Duẩn - Trường Chinh - Phạm Văn Đồng tới Lê Đức Thọ.., lại quá tham lam không bút mực, nên lúc nào cũng tin là Mỹ phải trả nợ số tiền 3,25 tỷ Mỹ kim viện trợ + 1,5 tỷ tái thiết, theo lời hứa mà Tổng Thống Richard Nixon đă viết trong một lá thư mật gửi choThủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng, khi hai bên kư kết Hiệp Định ngưng bắn Paris 1973.
Ngày 16-3-1977, một phái đoàn Hoa Kỳ lần đầu tiên trỏ lại Hà Nội, sau khi người Mỹ bỏ chạy khỏi VNCH vào sáng ngày 30-4-1975 trên nóc nhà ṭa đại sứ Mỹ tại Sài G̣n. Mục đích của chuyến đi, nói là tới t́m kiếm người Mỹ mất tích (MIA) tại Đông Dương. Dịp này, ngoài đại sứ lưu động Leonard Woodcock được Carter cử làm trưởng phái đoàn, c̣n có rất nhiều thương lái quan trọng khác tháp tùng, gồm đại diện của hai hảng xe Mỹ General Motors và Chrysler, các nghị sĩ quốc hội Mike Mansfield, đại sứ Charles Yost, dân biểu Sonny Montgomery, nhà hoạt động nhân quyền Marian Edelman với vài kư giả săn tin.
Nhưng tất cả đều xấu hổ v́ đă trở thành tṛ hề vô duyên, lố bịch trước bệnh tưởng tượng vĩ đại của các đỉnh cao trí tuệ loài người, đang ngất ngưởng ngự trên chiếc ngai vàng được xây bằng máu xương Việt từ năm 1930 tới nay. C̣n ǵ trắng trợn và tàn nhẩn hơn, qua cuộc đối thoại đầu tiên giữa Woodcock “Tôi hy vọng cuộc viếng thăm này, sẽ tạo được căn bản cho mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước” và được từ miệng Nguyễn Duy Trinh tới Phan Hiền.. trả lời theo lệnh của Lê Duẩn “không có tiền, th́ không có tin tức ǵ về lính cả”. Tóm lại theo VC, th́ Hoa Kỳ ‘phải bồi thường chiến tranh trước như đă kư trong hiệp đinh Paris 1973, rồi mới nói tới chuyện kiếm xác lính Mỹ mất tích’ . Nhưng Woodcock lúc đó là đại diện cho nước Mỹ, đă thẳng thắng trả lời với các chóp bu vc “HIỆP ĐINH PARIS ĐĂ BỊ BỨC TỬ NHƯ MỘT TỜ GIẤY LỘN TRONG SỌT RÁC. VẤN ĐỀ C̉N LẠI CỦA VN HÔM NAY CHỈ ĐƯỢC GIẢI QUYÊT BẰNG L̉NG NHÂN ĐẠO MÀ THÔI”.
Thế là trận mưa đô la Mỹ sẽ vĩnh viển chẳng bao giờ đổ xuống cung đ́nh Hà Nội như ḷng ham muốn vô đáy của các chóp bu luôn bệnh hoạn tưởng tượng. Nhưng vốn là những kẻ ĺ lợm tráo trở, nên vừa “thua me đă vội bày bài cào” để gở bằng cách lại sử dụng những bộ xương khô của lính Mỹ mất tích trong cuộc chiến vừa qua, để làm “mồi câu cá mập” đồng thời c̣n hứa hẹn sẽ trao cho Hoa Kỳ tất cả những tin tức và dử kiện về xác Mỹ càng sớm càng tốt, nếu có tiền bồi thường chiến tranh.
Sau này qua các tài liệu mật được công bố, cho biết lúc đó TT Jimmy Carter rất chú trọng tới VN, không phải do “ḷng thương lính Mỹ mất tích” mà v́ các tiềm lực tài nguyên thiên nhiên, trong đó có dầu hỏa đă được phát hiện ngoài thềm lục địa VNCH từ trước tháng 4-1975. Riêng đối với bọn tài phiệt tư bản lái buôn lái súng, th́ chỉ biết có tiền, phần lớn là chủ ngân hàng, hảng xe, các cơ sở thương mại, hảng dầu của Hoa Kỳ.. nên mờ mắt trước lời rao hàng của VC về “lao động rẽ, tài nguyên nhiều..” đă gây áp lực chính phủ Hoa Kỳ băi bỏ lệnh cấm vận giao thương với VC, v́ sợ món hàng quí trên lọt vào tay tư bản Nhật và Âu Châu.
Để tỏ thiên chí và cũng cám ơn về 12 bộ xương khô do Woodcock mang về Mỹ, nên Carter vào tháng 5-1977, đă chấp thuận giúp VC nhiều vấn đề, từ ngân khoản 5 triệu mỹ kim nhân đạo, cho tới sự đồng t́nh với Liên Hiệp Quốc, qua chương tŕnh cho vay tiền phát triển VN.
Giữa lúc hai phái đoàn Mỹ (Holbrooke) và VC (Phan Hiền) đang thương thảo tại Ba Lê, th́ vào ngày 19-12-1977, một vụ án gián điệp ngay trên đất Mỹ được FBI khám phá. Đó là vụ Ronald Humphrey và David Trương (con trai Trương Đ́nh Dzu, một tên thân cộng từng bị chính phủ VNCH câu lưu trước năm 1975). Thế là qua áp lực của quốc hội, bắt buộc TT Carter hủy bỏ việc giao thương giữa hai nước, đồng thời chấm dứt luôn việc LHQ cho vay tiền và các dự án đầu tư tại VN. Tới lúc đó từ Lê Duẩn tới Phạm văn Đồng, Lê Đức Thọ, Trường Chinh cả Vơ Nguyên Giáp.. mới sáng mắt th́ đă trể. Cũng từ đó, cả lũ lại lặn lội sang Trung Cộng, Liên Xô, Ấn Độ, Tây Âu.. để cầu viện, nhưng ở đâu cũng bị từ chối v́ thái độ kiêu căng phách lối của các đỉnh cao, dù đang đi ăn mày cầu nhờ thiên hạ giúp đỡ.
Do đó VC phải đổi chiêu, mới mặn nồng trở lại với Liên Xô. Cuối tháng 5-1977 gia nhập khối Comecon do Nga làm chủ. Ngày 6-6-1977 Phạm Văn Đồng gặp tổng bí thư LX là Leonid Brezhnev, để kư hiệp ước liên kết hữu nghị Việt-Xô. Đây là một thành tựu vĩ đại của Đảng ta, v́ Nga hứa là sẽ giúp VC từ A-Z, trong đó có 40 công tŕnh xây dựng. Cuối tháng 7-1977, một phái đoàn quân sự Nga gồm 21 nhân vật quan trọng của Đảng, bí mật tới các hải cảng Đà Nẳng, Nha Trang, Cam Ranh, Vũng Tàu và rồi tháng 10-1977, VC kư một thỏa ước đặc biệt với Nga, để nước này “chở các chiến lợi phẩm thu được của VNCH” như thiết giáp, máy bay.. sang bán cho Ethiopia (Châu Phi), để mua lại những quân dụng cụ của Nga, gồm 2 tàu ngầm, một khu trục hạm, một số tuần duyên hạm và một phi đội chiến đấu cơ Mig-21. Từ đó VC theo hẵn LX, mở màn cho hai cuộc chiến biên giới Việt-Khmer đỏ (12-1978) và Việt-Hoa (2/1979-1990).
Tháng 1-1979, Carter cùng Đặng Tiểu B́nh lúc đó đang nắm quyền Trung Cộng b́nh thường hóa bang giao, c̣n Nga và VC thiết lập liên minh quân sự. Không phải nhờ lịch sử đă vô t́nh xếp đăt, mà thực sự chính Brzezinski kẻ có khuynh hướng thân Tàu, khi đó được cơ quan Vance đưa lên nắm quyền Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ, đă ngụy tạo bức tranh chính sách mập mờ giữa Hoa Kỳ-Đài Loan, để Đặng vin vào đó mà có cớ hợp tác với Mỹ.
Thời gian trên, Đặng sang thăm Carter tại Hoa Thịnh Đốn, đồng lúc Mỹ-Nga đang thương thuyết kư hiệp ước SALT II tại Jerusalem (Do Thái) và cao điểm là lúc Hoa Kỳ đang bán vũ khí chiến lược cho Đài Bắc. Nhưng Đặng vẫn điềm tĩnh che lấp sự gượng ép bên trong, để kư kết liên minh với Mỹ v́ không c̣n con đường nào lựa chọn. Sáng ngày 30-1-1979, tại Ṭa Bạch Ốc ở Hoa thịnh Đốn, Carter riêng rẽ gặp Đặng và nhờ viên thông dịch duy nhất, dịch ngay tại chổ bức thơ ứng khẩu có nội dung “CẢM TƯỞNG CỦA TÔI LÀ QUYẾT ĐỊNH NÀY ĐĂ CÓ SẲN TỪ LÂU. ĐÓ LÀ VC PHẢI BỊ TRỪNG PHẠT”. Tóm lạị tổng thống Carter rất quỷ quyệt dùng bức thơ miệng không phổ biến, để vừa đồng thuận với Tàu đỏ tấn công VN, gián tiếp dằn mặt những đỉnh cao trí tuệ kiêu căng phách lối tại Bắc Bộ Phủ, đồng thời chạy được tội trước nhân loại sau này, khi dư luận thế giới lên án Trung Cộng bá quyền, tấn công VN tại diễn đàn LHQ.
Rốt cục chỉ có dân lành ba nước Việt-Miên-Tàu lănh chịu nổi đau bom đạn, cùng với sự tàn phá kinh khiếp của chiến tranh. Hưởng lợi nhiều nhất trong cảnh “trai c̣ tương tranh”, là Mỹ, quốc gia Tây Phương duy nhất “ca tụng việc Trung Cộng tấn công VN” giữa muôn ngàn thóa mạ của cả thế giới. Nhưng ghê tởm nhất là trong buổi họp của Đại Hội Đồng LHQ vào tháng 9-1979, Hoa Kỳ đă trân tráo theo Trung Cộng, bỏ phiếu thuận cho Khmer đỏ, tiếp tục đại diện Kampuchia trong tổ chức này. Bài học lịch sử muôn đời vẫn c̣n đó, cho thấy Người Mỹ hay bất cứ người nào, cũng chỉ biết có quyền lợi của quốc gia ḿnh mà thôi (ngoại trừ người VC). Ngoài ra không bao giờ cần biết tới mặt mũi, danh dự, đạo đức hay dư luận ǵ hết. Giản dị như vậy, thế mà người Việt (Quốc Gia cũng như Cọng Sản), chẳng bao giờ thấu triệt, khi quan hệ chính trị với các siêu cường.
Từ năm 1978-1986, v́ tranh chấp với Trung Cộng và Khmer Đỏ, lại căm thù Mỹ hắt hũi, nên Hà Nội đă rước Nga vào VN, mặc dù trong trận chiến đẳm máu tại biên giới Hoa Việt vào tháng 2-1979 sau đó kéo dài tới đầu thập niên 90, LX chỉ phản ứng bằng nước bọt, khi hai nước đă kư liên minh quân sự. Chính sự hiện diện của Nga tại Đông Dương và trên hết là sự gia tăng lực lượng Hải quân, kể cả Tiềm Thủy Đỉnh trong vịnh Cam Ranh, đă làm Hoa Kỳ phải xét lại chiến lược ‘đỡ lưng’ cho Trung Cộng, khi Ronald Reagan của Đảng Cộng Ḥa thắng cử lên làm tổng thống Mỹ, thay Carter của Đảng Dân Chủ. Người Mỹ qua Reagan, lại tái xác nhận liên hệ với Đài Loan, để tiếp tục bán vũ khí lên tới hàng chục tỷ đô la. Để trả đủa, Trung Cộng lại quay về với Liên Xô từ 24-3-1982. Hai nước bắt đầu nối lại sự phát triển thương mại, kinh tế, văn hóa và cao điểm vào tháng 5-1985, Mạc Tư Khoa đồng ư giúp Bắc Kinh canh tân 17 xưởng kỹ nghệ cũ và xây dựng thêm 7 cơ xưởng mới, đồng thời kư hiệp ước gia tăng thương mại giữa hai nước lên 12 lần.
Trước t́nh trạng công khai trở mặt của các đàn anh, Hà Nội chỉ c̣n cách muối mặt, t́m đủ mọi cách quay về làm chư hầu cho Trung Cộng, từ cuối tháng 12-1985 cho tới nay vẫn không thay đổi, nhất là khi Nguyễn Phú Trọng làm Đảng trưởng từ năm 2012.. Mục đích cũng chỉ để mong giữ Đảng và quyền lực xiết cổ họng đồng bào nô lệ cả nước với một cổ ba tṛng ‘VC, TC và tư bản thế giới’.
Tháng 1-1985 gần đúng 10 năm người Mỹ tháo chạy nhục nhă tại Nam Vang và Sài G̣n, Hoa Kỳ quay lại Đông Nam Á , nói là để ngăn chận sự bành trướng của Nga lẩn Tàu. Đây cũng là thời điểm đánh dấu nổ lực mới của Việt Cộng, trong canh bạc mời gọi Hoa Kỳ trở lại VN, trước tiên bằng các phái đoàn t́m kiếm xương khô lính Mỹ mất tích. Rồi giấc mộng theo Mỹ chính thức trở thành sự thật vào tháng 4-1991, khi Tổng thống G.Bush (cha) ‘Bải bỏ lệnh cấm vận VN’. Kế tiếp Tổng thống Bill Clinton ‘B́nh Thường Quan Hệ Ngoại Giao’ giữa hai nước vào năm 1995 và kư ‘Hiệp ước Thương Mại Song Phuơng Việt-Mỹ’ năm 2001.
Cuối cùng mới có cuộc thăm viếng Hoa Kỳ của Thủ Tướng VC Phan Văn Khải, từ ngày 19-6-2005 tới 25-6-2005, nói là tới nhờ Mỹ giúp vào WTO, rồi Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng., Trương tấn Sang.. kể luôn Nguyễn Phú Trọng liên tiếp qua Mỹ như đi chợ, để cầu thân mua bán.. nhưng mặt thật sang để cam kết làm hết những điều khoản bí mật chưa làm theo lời hứa. Tất cả chỉ có trời biết, đất biết, chóp bu giữa Mỹ và CSVN biết mà thôi. Nhưng chắc chắn có một điều mà mọi người đều rơ, đó là VC đang đồng thuận với Mỹ trong vở kịch ‘VC sẽ chống Tàu đỏ cứu nước’ như trước đây Hồ Chí Minh đă diễn với Pháp trong vở tuồng ‘chín năm chống thực dân Pháp cứu nước’ Có như vậy, TT Barack Obama qua chuyến thăm VN trong tháng 5-2016, mới có lư do để hơp thức hóa dùm ‘bốn trự Trọng, Quáng, Phúc, Ngân’ trong cái gọi là chính phủ vừa mới đưọc bầu bán cấp tốc trong tháng 3 cùng năm. Cùng lúc trong dịp này, tổng thống Mỹ cũng tuyên bố băi bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Hà Nội, để CSVN có phương tiện chống Tàu cứu nước.
Nhưng bang giao giữa hai bên, đâu phải chỉ có thế ? và người Mỹ chắc là đă biết hết hành động của Nguyễn Phú Trọng công khai theo Tàu chống lại Hoa Kỳ, kể cả tin đồn cho Tàu đỏ thuê Cam Ranh trong 10 năm.
Cuối cùng th́ những con bài trong canh bạc “biển Đông” cùng lật ngữa, sau khi Ṭa Trọng Tài Thường Trực LaHaye (PCA) công bố phán quyết vào ngày 12-7-2016 là “Trung Cộng không có bất cứ chủ quyền ǵ trên biển Đông”. Và cũng từ đó, mặc cho TC múa may quay cuồng, Hoa Kỳ vẫn cương quyết thực thi phán quyết của Ṭa Án Quốc Tế, bảo vệ tự do lưu thông hàng hải và hàng không trong khu vực Thái B́nh Dương bằng quân sự, qua sự hiện diện thường trực của các Hạm Đội được tăng cương phóng pháo cơ B1 và B2 tại Guam. Và chiến lược coi VN như một be bờ của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á vẫn tiếp tục, người Mỹ coi như không biết chuyện Nguyễn Phú Trọng đă đâm sau lưng ḿnh, kể cả câu chuyện khôi hài CSVN đem hỏa tiển di động (với tầm bắn 150 km) ra Trường Sa để hù cá.
Xóm Cồn Hạ Uy DiTháng 8-2016
Mường Giang