Kissinger và “Ḥa B́nh” Giả Mạo cho Chiến Tranh Việt Nam
Mường Giang
Tỉnh Quảng Trị nằm ngay
địa đầu giới tuyến ngăn đôi đất nước, bởi con sông Bến Hải. Đây là một
con sông nhỏ, phát nguyên từ dăy Trường Sơn, chảy ra Đông Hải tại cửa
Tùng. Tỉnh bắc giáp quận Vĩnh Linh phía bên kia giới tuyền, phía tây
giáp nước Lào, phiá nam là tỉnh Thừa Thiên và phía đông là biển. Trước
khi xăy ra trận mùa hè năm 1972, tỉnh Quảng Trị có diện tích 3966 km2,
dân số 270.984 người. Sau khi kết thúc trận chiến mùa hè vào tháng
9-1972, diện tích Quảng Trị chỉ c̣n có 1649 km2, với ba quận Triệu
Phong, Mai lĩnh và Hải Lăng nhưng dân số tới 202.338 người. Điều này cho
thấy, Bắc Việt gây chiến tranh, chỉ chiếm được đất chứ không bao giờ thu
phục được nhân tâm, bởi sự tàn ác dă man của bộ đội miền bắc, đi tới
tâu, th́ đồng bào đều phải bỏ của để chạy lấy mạng.
Rừng núi Trường Sơn
chiếm 2/3 lănh thổ tỉnh, chạy dài từ bắc tới nam. Tỉnh có ba con sông
chính là Bến Hải, Thạch Hản, Mỹ Chánh vô t́nh qua sự sắp xép của lịch
sử, trở thành ba con sông biên giới, trong các giai đoạn chiến tranh VN.
Tỉnh c̣n có hai quốc lộ 1 và 9, cũng là hai chứng tích lịch sử, về việc
đồng bào chiến nạn tỉnh Quảng Trị bị VC thảm sát dă man.
Quảng Trị du nhập vào Mẹ
VN, từ năm 1069 khi vua Lư Thánh Tôn, thân chinh đánh Chiêm Thành, bắt
được vua Chàm là Chế Củ. Để chuộc mạng, vua dâng ba châu Địa Lư, Ma Linh
và Bố Chánh (từ Quảng B́nh và một phần Quảng Trị ngày nay ). Sau đó, vào
năm 1306, Huyền Trân Công Chúa v́ nước quên ḿnh, chịu gă cho vua Chế
Mân, để đem về cho Đại Việt hai châu Ô và Lư. Hai châu này sau đó được
vua Trần Nhân Tông, đổi thành đất Thuận-Hóa vào năm 1307. Các quận Triệu
Phong, Mai Lĩnh và Hải Lặng ngày nay là đất Hóa thời nhà Trần. Quảng Trị
cũng là đất khởi nghiệp của Họ Nguyễn, khi Chúa Nguyễn Ḥang được vào
trấn thủ Thuận Hóa, vào tháng 10 năm Mậu Ngọ (1588). Ông lập dinh ở tại
Ái Tử, quận Triệu Phong. V́ là đất cổ của Đại Việt, nên Quảng Trị có
nhiều di tích lịch sử như đền thờ Trần Nhật Duật, thành Tân Sở nơi vua
Hàm Nghi xuất bôn xuống hịch Cần Vương chống Pháp vào năm 1885, Vương
Cung Thánh Đường La Vang (Mai Lĩnh), cổ thành Đinh Công Tráng.
Thành cổ Đinh Cộng
Tráng, được xây dựng từ năm 1823 đời vua Minh Mạng, thời nhà Nguyễn. Đó
là thành được đắp bằng đất. Năm 1838, thành được xây lại bằng đá gạch,
với chu vi 481 trượng 6 thước, cao 1 trượng, dày 3 trượng. Thành có 4
cửa, chung quanh được bao bọc bởi ṿng hào, rộng 4 thước, sâu 8 thước.
Trước năm 1972, thành cổ là doanh trại của sư đoàn 101 không kỵ Hoa Kỳ.
Vào năm 1972, trong cổ thành có Tiểu Khu Quảng Trị và Bộ Tư Lệnh của Sư
đoàn 3 bộ binh.
Sông Bến Hải phát nguồn
từ rặng Trường Sơn chảy ngang qua tỉnh Quảng Trị tại vĩ tuyến 17. Phía
trên nguồn có tên sông Bảo Thánh, c̣n khúc chảy ra biển ở cửa Tùng th́
gọi là sông cửa Tùng. Cây cầu bắc ngang sông trên được gọi là Hiền
Lương, phía bên Bắc Việt thuộc quân Vĩnh Linh c̣n phần VNCH nằm trong
quận Trung Lương. Cầu gồm 7 nhịp dài 178m, được người Pháp làm năm 1950
trên quốc lộ số 1 tại cây số 735 tính từ bắc vào nam. V́ năm đó chiến
tranh giữa Việt-Pháp bộc phát dữ dội, nên việc xây dựng cầu giao cho
công binh làm theo kiểu dă chiến, bằng các vật liệu tạp nhạp như sắt của
Anh, c̣n ván lót cầu nhập từ miền Virginia của Mỹ (894 miếng).
Cầu được chia hai cho
Nam và Bắc Việt mà vạch ngăn đôi bất khả xâm phạm nằm trong 6 miếng ván
ép ở giữa, được hai phía tu bổ và sơn phết theo ư ḿnh. Suốt cuộc chiến
từ 1955-1975 cầu bị bom đạn tàn phá gảy đổ nhiều lần vào năm 1969 và tái
thiết lại nhưng tới năm 1972 thị bị phá hủy hoàn toàn phải sử dụng cầu
phao. Năm 1976 cầu sắt mới được xây dựng nằm cách cầu cũ chừng 50m. Từ
năm 1995-2003 cầu mới được làm, trụ đúc bằng bê tông, gồm 7 nhịp thép
lót ván, dài 182,97m chỉ dành cho người đi bộ. Cuối sông Bến Hải gần cửa
Tùng c̣n có một cầu mới bắc ngang sông nôi liền hai quân Vĩnh Linh và
Gio Linh. Cầu khánh thành ngày 27-1-2007 dài 471m.
Nhắc tới con sông Vĩ
tuyến Bến Hải không ai quên được cái chết tức tưởi của nhà văn kháng
Pháp gốc B́nh Thuận là Vũ Anh Khanh, đă bị CS Bắc Việt thủ tiêu bằng tên
tẩm thuốc độc năm1956, khi ông trốn chạy thiên đường xă nghĩa miền bắc
để về Nam t́m tự do. Nhạc sĩ Chung Quân trước niềm đau này đă sáng tác
bản nhạc nổi tiếng ‘Hận Bến Hải’ mà thế hệ trước 1975 ai cũng thuộc như
bài; Làng Tôi; của ông.
Đây cũng là nơi mà hai
phía đấu tranh dai dẳng từ 1954-1972 về sự hiện diện của Hai lá cờ tượng
trưng cho chính nghĩa Quốc Gia VN và Chủ nghĩa Cộng sản đệ tam quốc tế.
Hơn 75 năm qua, CSVN lúc nào cũng t́m đủ mọi cách để trương ngọn cờ máu
trên lănh thổ Hồng Lạc. Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai
miền riêng biệt tại vỹ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới.
Theo quy định, mỗi một miền được đặt hai đồn canh, dọc theo bờ sông giới
tuyến: Đồn Hiền Lương và Cửa Tùng (Bắc Việt), Xuân Ḥa và Cát Sơn
(VNCH), cả hai phía đều có treo cờ hằng ngày. Và đó là nguyên nhân đă
làm hai phía đổ máu nhiều lần v́ ‘Lá Cờ’ được treo ở hai đầu cầu Hiền
Lương.
Thời gian đầu thi hành
Hiệp định (1954-1956) c̣n có sự hiện diện của các toán kiểm soát đ́nh
chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cở lá cờ được qui định 3,2x 4,8m.
Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân Ḥa luôn thay đổi khổ
lá cờ Vang ba Sọc Đỏ, theo lệnh của các đơn vị trưởng trấn đóng miền
giới tuyến. Thế là trận giặc ‘Chọi Cờ’ bùng nổ hai bên bờ sông Bến Hải,
mà phần thắng luôn về phía VNCH v́ có đủ phương tiện và được tự do quyết
định hơn phía CSBV. Theo các tài liệu c̣n lưu trữ cho biết suốt 20 năm
chia cắt, cả hai phía đă thay đổi cở ‘cờ’ tới 267 lần để ăn thua, trong
đó nhiều lần cột cờ phía bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng nhất vào năm
1967, cả cột cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về phía CS bị bom đánh xập
- KISSINGER VÀ HIỆP
ƯỚC H̉A B̀NH GIẢ MẠO:
Cái khôi hài cười ra
nước mắt của người Mỹ là ngay trong lúc một mặt đổ quân ào ạt vào nam VN
năm 1965, cũng đồng thời bí mật đi đêm với Bắc Việt gọi là. mưu t́m một
giải pháp ḥa b́nh. Chính Pháp và Ṭa Thánh La Mă khởi động đầu tiên dàn
xếp để hai phiá ngồi vào bàn hội nghị bàn chuyện ngưng bắn theo kế hoạch
Mayflower nhưng bất thành.
Ngày 17-6-1965, Anh và
Liên Xô nhập cuộc, mở hội nghị 4 nước Anh-Ghana-Nigeria-Tobago với sự
ủng hộ công khai của hai nghị sĩ dân chủ là Mike Mansfield và
Fullbright, muốn Mỹ ngưng oanh tạc Hà Nội và ngược lại Bắc Việt ngừng
chuyển bộ đội vào nam nhưng bị cọng sản bác bỏ v́ lập trường đối nghịch
của hai đàn anh Nga-Tàu. Tháng 7/1965 tổng thư kư LHQ là U Thant muốn mở
lại hội nghị Geneve 1954. Tháng 10/1965 ngoại trưởng Ư là Amintore
Fanfani và Giáo Hoàng Paul VI cũng nhập cuộc, bằng cách liên lạc thẳng
với Hà Nội, Mặt Trận GPMN và Tổng Thống Johnson nhưng cũng bất thành v́
Hồ đ̣i công nhận Mặt trận GPMN là một chánh phủ giống như VNCH.
Tóm lại những kế hoạch
kể trên đều khởi động nhịp nhàng theo các phong trào phản chiến tại nội
địa Mỹ do Luther King, Hoffman, Larson xách động, biến các trường đại
học Mỹ thành căn cứ du kích Bắc Việt ngay trên lănh thổ Hoa Kỳ. Chiến
tranh dữ dội khắp VNCH nhịp nhàng với các biến động chính trị tại
Huế-Sài G̣n. Hoa Kỳ tiếp tục oanh tạc miền bắc nhưng Hồ vẫn không nhượng
bộ v́ đang leo dây giữa Nga-Tàu, nên chỉ biết ậm ờ trước các đề nghị ḥa
b́nh. Tại Mỹ, ngày 20-2-1966, Robert F.Kennedy công khai đ̣i cho MT/GPMN
tham gia chính phủ nhưng bị chống đối kịch liệt.
U Thant và De Gaulle là
hai nhân vật hung hăng nhất trong việc kêu gào phải ḥa b́nh tức khắc
tại VN bằng cách ngưng oanh tạc miền bắc, Mỹ rút quân và để MT/GPMN tham
chính. Sở dĩ cả hai làm như vậy v́ U Thant tuy là tổng thư kư LHQ nhưng
lại thân cộng ra mặt, c̣n De Gaulle với dụng tâm đạo đức giả, thù Mỹ đă
phỏng tay trên Đông Dương, nên nhỏ mọn trả thù vặt. Rốt cục cả thế giới
lẫn Vatican đều trúng kế Hồ Chí Minh, càng lúc càng chia rẽ và phân hóa
trầm trọng.
Năm 1967 phong trào phản
chiến lên cao tại Hoa Kỳ làm phân hoá đảng dân chủ v́ là mùa bầu cử, nên
tổng thống Johnson tuyên bố trong cuộc hội nghi với TT Nguyễn văn Thiệu
tại Guam, là sẽ thương thuyết thẳng với Bắc Việt.Tất cả chỉ là màn hỏa
mù ngoại giao v́ Mỹ và Hà Nội đă đi đêm từ cuối năm 1966, do sự dàn xếp
của Thụy Điển nhưng phải đợi tới ngày 31/3/1968 khi Johnson tuyên bố
không tái tranh cử và bộ đội của Bắc Việt cũng như VC bị tan nát tại
miền nam trong trận Têt1 Mậu Thân (1968), cọng sản mới chính thức ngồi
lại với Mỹ. Rồi Nixon thắng cử tống thống, Kissinger được giao trách
nhiệm đi đêm với Lê Đức Thọ, tự quyết định số phận của VNCH, mà không
cần đếm xỉa ǵ tới chủ quyền của miền nam lúc đó.
Theo giáo sư tiến sĩ
Stephen Young, từng phục vụ nhiều năm trong bộ ngoại giao Hoa Kỳ, th́
Kissinger, trưởng phái đoàn thương thuyết Mỹ đă bán đứng VNCH cho Bắc
Việt khi chấp thuận cho Hà Nội được lưu giữ đạo quân xâm lăng ở miền nam
VN. Hậu quả tạo ưu thế quân sự cho địch cưỡng chiếm VNCH khi Hoa Kỳ rút
toàn bộ quân lực về nước và cắt giảm quân viện năm 1973 rồi cắt đứt năm
1975. Tổng thống Nixon ngay khi làm TT năm 1969 đă tuyên bố sẽ chấm dứt
chiến tranh, đem hết quân Mỹ về bằng một kế hoạch bí mật.
Vấn đề chính là NVN
chẳng hề biết tới kế hoạch đó là ǵ và nói là VN hóa chiến tranh nhưng
QLVNCH tới đầu năm 1972 mới được cải tiến trang bị, trong lúc bộ đội
miền bắc đă sử dụng những vũ khí cá nhân và cộng đồng tối tân của khối
cộng từ khi Mỹ c̣n hiện diện. Năm 1972 Nixon đă đạt được những thỏa uớc
lịch sử với Nga lẫn Trung Cộng. Chính điểm này để Nixon thắng Mc.Govern
làm TT nhiệm kỳ 2. Tuy nhiên việc oanh kích Hà Nội trong 12 ngày liên
tiếp và thả ḿn phong tỏa Hải Pḥng, suưt làm Bắc Việt đầu hàng vô điều
kiện, nếu không bị đảng dân chủ và phe phản chiến chống đối dữ dội.
Giữa lúc TT Nixon trong
t́nh thế khó xử, th́ Kissinger đưa sáng kiến phản bội VNCH để đổi lấy sự
ủng hộ của quốc hội Mỹ, trong việc làm thăng bằng cán cân chiến tranh
lạnh, nói thẳng là giúp Do Thái đương đầu với khối Ả Rập. Do nhận thức
sai lầm trên, đă khiến Kissinger thành kẻ chủ bại, hèn nhát, bất nhân
đẩy VN vào định mệnh oan nghiệt. Thực tế c̣n gian ác hơn ta nghĩ, v́
Kissinger chẳng những muốn Hoa Kỳ rút khỏi VN mà c̣n làm cho dân chúng
Mỹ không c̣n nhớ tới cuộc chiến đó trong tiềm thức. Hậu quả cay nghiệt
này khiến cho các quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại VN trở về bị đối xử
tàn tệ, tẻ nhạt cho tới mấy năm sau này mới được hồi phục lại danh dự.
Trong thâm tâm của
Kissinger, đưa quân đội Mỹ về chưa đủ, mà phải làm sao thọc quốc hội cắt
đứt mọi nguồn viện trợ cần thiết, th́ mới chấm dứt được chế độ miền nam.
Do trên ông ta tự đẻ ra sáng kiến riêng, chủ đích làm hỏng chương tŕnh
VN hoá của Nixon. Theo tài liệu của đại sứ Bunker, th́ bí mật lớn nhất
của Kissiger là sự xuống thang chiến tranh. Đây là sáng kiến tàn nhẫn
nhất v́ để đổi một thắng lợi ngoại giao cho Mỹ và VNCH, Kissinger cho
lại Bắc Việt MỘT CHIẾN THẮNG QUÂN SỰ, tức là Y đă tiết lộ bí mật quốc
pḥng cho địch. Nhưng sự kiện này không bao giờ Kissinger dám nhận và
chính trong hồi kư của TT. Nixon đă viết là chẳng bao giờ ông cho phép
làm chuyện đó khi thương thuyết với Hà Nội.
Tóm lại để kết thúc chến
tranh VN theo ư ḿnh, Kissinger không bao giờ tŕnh bày sự thật khi
thương thuyết với Hà Nội, cho TT.Nixon biết. Từ ngày 13-4-1971,
Kissinger đă manh nha tṛ phản bội và lộng quyền, khi tự sử dụng đường
dây nóng đặc biệt không qua Bộ Ngoại Giao và Tổng Thống Mỹ, để ra lệnh
cho Đại Sứ Bunker và Bắc Việt. Theo các tài liệu lịch sử đă giải mật,
những lộ đồ đề nghị ḥa b́nh VN của các giới chức Mỹ từ tổng thống Nixon
tới đại sứ Baunker hoàn toàn trái ngược với ư riêng của Kissinger.
Theo bản dự thảo chiến
lược chính thống, th́ sự kư kết ḥa b́nh chỉ xảy ra sau khi QLVNCH đạt
được chiến thắng tại Hạ Lào qua cuộc hành quân Lam Sơn 719, phá vỡ toàn
bộ các căn cứ hậu cần của Bắc Việt tại đây nhằm cắt đứt đường tiếp vận
cho bộ đội miền bắc qua đường ṃn Hồ chí Minh. Về rút quân th́ bắt đầu
năm 1971-1972, bộ binh về trước khi đă chứng thật rằng QLVNCH được VN
hoá chiến tranh, đủ mạnh để thay thế quân lực Hoa Kỳ đương đầu với Bắc
Việt. Riêng Không quân-Hải quân vẫn duy tŕ cho tới khi thấy Hà Nội thật
sự tôn trọng ḥa b́nh của Nam VN. Một điều quan trọng nhất mà đại sứ Hoa
Kỳ tại Sài G̣n là Bunker, mong muốn Hoa Thịnh Đốn phải chứng tỏ vai tṛ
hợp hiên của CHÍNH PHỦ VNCH tại bàn hội nghị và cái sự Hoa Kỳ ngồi nói
chuyện với Hà Nội đă là một nhượng bộ, v́ rơ ràng lúc đó Bắc Việt đang
thảm bại quân sự trên khắp các chiến trường, chiến dịch ở miền nam. Một
sự kiện khác cũng không kém phần quan trọng tại Hoa Kỳ, là mặc dù bị
đảng dân chủ đánh phá kịch liệt, đ̣i rút quân về tức khắc để đổi tù binh
nhưng TT Nixon lúc đó, vẫn cương quyết không tiết lộ lộ tŕnh triệt
thoái và giữ nguyên ư định không giải kết với VNCH v́ quyền lợi Mỹ.
Theo các sử gia, nếu
Kissinger thật sự là một nhà thương thuyết giỏi và có lương tâm, ông ta
đă vượt qua được những sóng gío trùng trùng lúc đó, mang lại vinh dự cho
nước Mỹ và công lư cho VNCH. Lịch sử đă chúng nhận điều này chỉ mới đây
trong việc Tổng thống G.W.Bush trước khi tiến quân đánh Iraq. Nhưng
Kissiger chỉ là một học giả chứ không phải là một nhà ngoại giao, một
người Do Thái thuần tuư nên không hề biết tới quyền lợi và danh dự của
Hoa Kỳ. Trước tiên, về việc cho phép BỘ ĐỘI BẮC VIỆT ở lại miền nam,
Kampuchia, Lào.
Đây là điều kiện tiên
quyết để quân Mỹ rút quân thế nhưng Kissinger nơi trang 1488 đă tự sửa
lại la: “người VN và các dân tộc khác ở Đông Dương, sẽ tự thảo luận để
tất cả quân đội ngoại nhập rút ra khỏi Đông Dương”. Như vậy muốn Hoa Kỳ
ngưng oanh kích rút quân, mà không có một đ̣i hỏi ǵ cho đối phương,
thậm chí c̣n cho chúng ở lại để tiếp tục làm giặc, th́ thương thuyết để
làm ǵ, cho nên sau này Hà Nội và thế giới khinh khi, cười chê Hoa Kỳ là
vậy. Ngoài ra chẳng bao giờ Kissinger coi VNCH là một quốc gia độc lập
có chủ quyền, nên ông ta đă có cái nh́n là chỉ có Hà Nội mới đại diện để
thương thuyết với Mỹ. Đây là một sự phản bội trắng trợn của lời cam kết
từ các chính quyền Hoa Kỳ như TT.Kennedy, Johnson, Nixon.. luôn tuyên bố
tôn trọng nền độc lập của quốc gia đồng minh.
Tóm lại với luận điệu
lừng khừng, chủ bại, đầu óc lắt léo.. Kissinger đi phó hội trong một tư
thế hèn yếu, rẻ mạt, nên chỉ c̣n bán đứng VNCH mới mong lấy lại tù binh
về. Ngày 25-5-1971, để tránh bị thưa gởi vào phút chót, Kissinger đă
điện thoại gạt Bunker là chương tŕnh nghị sự sẽ theo đúng bản dự thảo
của TT. Nixon và ṭa đại sứ Mỹ-Sài G̣n.
Cũng do ḷng tin tưởng
trên, nên ngày 3-6-1971, Đại sứ Bunker đă tường tŕnh với TT.Nguyễn văn
Thiệu có Kissiger hiện diện, kết quả thương thuyết theo bản dự thảo của
TT.Nixon và Toà đại sứ. Trong khi tŕnh bày, Bunker xác quyết là BỘ ĐỘI
BẮC VIỆT cùng rút về Bắc khi Quân Mỹ Hoa Kỳ triệt thoái. Việc tréo cẳng
ngổng này cho thấy, TT Thiệu và Chính phủ VNCH hoàn toàn không được Hoa
Kỳ cũng như Kissiger hỏi han hay cho biết một chút ǵ về vận mệnh tương
lai của xứ sở ḿnh. Trước sự kiện trên, Kissinger chẳng những không đính
chính mà c̣n lợi dụng sự không biết ǵ, để ép TT Thiệu không được tiếp
tục đ̣i hỏi ông ta, khi việc BỘ ĐỘI MIỀN BẮC đă được giải quyết.
Tháng 10/1972 giai đoạn
cuối cùng trong bàn hội nghị, Kissinger thay v́ cố gắng đạt được những
ưu thế cho HoaKỳ và đồng minh Nam VN, Kissinger lại tấn công tới tấp TT
Nguyễn văn Thiệu và gọi đó là lư do chính trở ngại cho cuộc hoà đàm.
Ngày nay dựa vào những tài liệu mật và ngay chính hồi kư của Kissiger,
chúng ta mới thấu hiệu sự dối trá và bất lương của ông ta đối với VNCH.
Đó là sự hiểu biết quá kém cỏi về lịch sử VN dù ông ta luôn tự hào về
cái trường đại học luật khoa danh tiếng Havard nay chỉ c̣n là cái mốt
thời thượng. Hèn nhát trước phong trào phản chiến do cọng sản quốc tế
dàn dựng, Kissinger đă đánh mất sự thông minh của một nhà ngoại giao,
qua mặt dân chúng và chính quyền Hoa Kỳ, phản bội đồng minh đang chiến
đấu dũng liệt trước làn sóng đỏ.
Ngày 1-8-1972, trong
cuộc họp mật, Hà Nội bảo với Kissinger là ngoài việc BỘ ĐỘi Ở LẠI, TT
Thiệu phải từ chức để thay thế bằng chính phủ liên hiệp. Từ tháng
8-1972, sự chống đối từ chính phủ VNCH đă lên tới cao điểm như không cần
đếm xỉa tới thời hạn mà Kissinger ấn định, TT Thiệu không tiếp chuyện
với TT.Nixon gọi từ Honolulu cũng như tuyên bố là sẽ không bao giờ từ
chức, Chính phủ liên hiệp không bao giờ có.
Ngày 20-9-1972 sau
chuyến thanh sát tại Quảng Trị điêu tàn đổ nát, vừa được QLVNCH chiếm
lại, TT Thiệu về Sài G̣n tuyên bố “vận mệnh của DÂN TỘC VN phải do đồng
bào VN quyết định” và ông đả tố cáo Kissinger chỉ biết tự ḿnh quyết
định tất cả mà không coi VNCH ra ǵ.
Ngày 19-10-1972,
Kissinger, Bunker họp với TT Thiệu, PTT Hương và HD/ANQG. Theo các tài
liệu ghi nhận, cuộc họp đầy căng thẳng và thái độ cuả TT.Thiệu khinh bỉ
Kissinger ai cũng thấy rơ khi tuyên bố ông ta chỉ là một người trung
gian không hơn không kém, quyết định ḥa hay chiến là của Sài G̣n-Hà
Nội, chứ không phải Hoa Kỳ. Phiên họp chấm dứt nhưng phút chót TT.Thiệu
không biết v́ một lư do nào đó, lại tin lời Kissinger là BỘ ĐỘI MIỀN BẮC
phải rút nên ông kư nhận hiệp định.
Một bí mật khác vô cùng
quan trọng cũng vừa được đem ra ánh sáng, là khi biết được TT.Thiệu thà
mất quyền chứ không để cho Hoa Kỳ qua Kissinger thao túng, uy tín chính
phủ VNCH lại lên cao. Dân chúng miền nam hài ḷng, Hạ Viện ủng hộ, các
vị lănh đạo Phật Giáo trong phong trào tranh đấu tuyên bố chấm dứt đem
chính trị vào chùa chiền nhưng quan trọng nhất là tuyệt đại phật tử
tuyên bố dù không đồng ư cá nhân TT.Thiệu, họ vẫn hợp tác với chính phủ
để đạt được nền ḥa b́nh thật sự cho miền nam độc lập, tự do. Tại Thượng
Viện, ngoài 4 phiếu chống, số nghị sĩ c̣n lại ủng hộ kế hoạch ḥa b́nh
của chính phủ VNCH. Từ đó khắp nơi, kể cả Đà Nẳng biểu t́nh ủng hộ,
chống lại sự thống trị của cọng sản.
Ngày 26-11-1972, Bunker
chuyển một lá thơ của Nixon, cho biết nếu VNCH cưỡng lại Hoa Kỳ th́ VIỆN
TRỢ sẽ bị cúp ngay và tánh mạng tổng thống Thiệu nếu muốn giữ, phải KƯ
KẾT. Để tấn tuồng kết thúc trọn vẹn, bất ngờ ngày 18-12-1972, Nixon ra
lệnh oanh tạc THẬT Hà Nội-Hải Pḥng và các căn cứ quân sự tại Bắc Việt
một cách sấm sét dă man, bất chấp Dân Chủ và phản chiến kêu gào la ó.
Đến lúc này, th́ TT Thiệu không tin cũng phải tin là Hoa Kỳ qua lời hứa
của Nixon trong mấy chục bức thơ riêng, sẽ dội B52 và can thiệp ngay
bằng quân sự nếu Hà Nội phản thùng, tấn công VNCH. Ngày 30-4-1975, Miền
nam bị bức tử v́ Kissinger, một tên trí thức xuẩn động ngây thơ, có đầu
óc thực dân kiêu căng thời Trung cổ. Ông ta v́ muốn thoả măn nhu cầu cho
bọn siêu quyền lực mà phần lớn gốc Do Thái đang thao túng nước Mỹ và thế
giới, cho lũ phản chiến đa số bị bệnh tâm thần v́ đồng t́nh luyến ái,
hút sách, ảo vọng, nên đă hại không biết bao nhiêu mạng người đă chết,
tan nhà, mất nước trong suốt mấy chục năm qua, tới nay càng điêu đứng
khổ nhục hơn trước v́ sự tàn bạo của đảng CSVN.
Trước khi vào Sài G̣n
trưa ngày 30-4-1975, Hà Nội đă soạn thảo một kế hoạch tấm máu VNCH như
Polpot đă làm tại xứ Chùa Tháp, do Đỗ Mười cùng các cán bộ trung kiên
miền bắc (không có thân nhân tại miền nam) phụ trách như sau: TQLC, BDQ
(ám số VCA) tử h́nh không bịt mắt. Cán bộ xă ấp, XDNT, chiêu hồi (ám số
VDA) tử h́nh ngay. Không quân, An ninh QD (ám số VAA) tử h́nh. Cảnh sát,
t́nh báo, Nhảy Dù, cán bộ Phượng Hoàng (ám số VBA) tử h́nh, tước đoạt
quyền sống của luôn vợ con. SD trưởng, Trung Đoàn, Tiểu Đoàn (ám số VEA)
tử h́nh. Tỉnh, quận, xă trưởng (ám số VFA) tử h́nh. Trưởng Ty sở (ám số
VGA) lao động khổ sai chung thân. Tóm lại Quân, công, cán, cảnh VNCH các
cấp nếu không tử h́nh th́ chung thân, kể luôn vợ con, gia đ́nh liên hệ.
Tuy nhiên sau đó v́
không dám làm càn trước khí thế miền nam, nên cọng sản thay đổi chính
sách, thay v́ tắm máu, VC đổi bằng thủ đoạn học tập cải tạo, để giết dần
ṃn quân dân miền nam. Cũng từ đó, cọng sản mở nhà tù khắp nước, 36 tỉnh
và thành phố có 193 khám đường và trại lao động khổ sai., 17 khám mang
bí số AOI-HT 150-166, 35 trại cải tạo nằm trong rừng sâu núi cao mang bí
số B-15 HT 6321-6389. Tại miền bắc có 17 trại tù lao động khổ sai mang
bí số A20HTZC7340-7372 tại Lai Châu, Sơn La, Hà Tuyên, Hoàng Liên
Sơn,Cao Lạng, Bắc Thái, Quảng Ninh, Vĩnh Phú,Hà Sơn B́nh, Hải Hưng,Hà
Nam Ninh, Thanh Hoá,Nghệ Tĩnh và B́nh trị Thiên.
Cuộc chiến Đông Dương
lần thứ ba 1955-1975 kết thúc là thế đó, hơn 60.000 quân nhân Mỹ và Đồng
Minh bỏ mạng, nhiều người khác bị thương, một trăm năm mươi tỷ mỹ kim
tiền thuế của dân chúng Mỹ, đổi lấy sự sụp đổ của VNCH bằng một hiệp
định chẳng danh dự, do chính Kissinger đạt được. Trưa 30-4-1975 tên phản
tặc nằm vùng VC Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Sài G̣n ngạo nghễ đ̣i
“Nối Ṿng Tay Lớn:
“.. Rừng núi dang tay nối lại biển xa
ta đi ṿng tay lớn măi
để nối sơn hà
từ bắc vô nam nối liền
nắm tay...”
trong lúc cả Miền Nam
đang ch́m ngập trong máu lệ, trước gót sắt xâm lăng của đế quốc Cộng
sản.
Xóm
Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2016
Mường Giang