Phản tỉnh – Phản kháng: Thực hay Hư ?

 

Minh Vơ

 

 

- Chương 9 -

 

Nhật Kư của Nguyễn Ngọc Lan (1)

 

 

Nhật kư ít khi được xuất bản lúc tác giả c̣n sống. Nhưng khi thấy ḿnh bị nhà cầm quyền Cộng Sản “quản chế” và tịch thu hàng ngàn trang tài liệu (2), nhà báo Nguyễn Ngọc Lan đă đồng ư cho nhóm Tin Nhà ở Paris in nhật kư của ông. Có lẽ ông nghĩ đă đến lúc nên cho người ngoài thấy phần nào lư do mà nhà nước Cộng Sản đă vin vào đó để có biện pháp mạnh đối với ông.

 

Thực ra từ nhiều năm trước ông đă lén lút gửi sang Pháp, qua tiến sĩ Đỗ Mạnh Tri, một trong những trụ cột của nhóm Tin Nhà, cũng là bạn học của ông tại đây từ những năm đầu thập kỷ 60, hàng ngàn trang nhật kư và tài liệu, sáng tác của ông, v́ ông đă tiên đoán được số phận mà Cộng Sản sẽ dành cho ông, khi họ thấy không lợi dụng, mua chuộc hay uốn nắn được một con người “bướng bỉnh”, thường lấy tinh thần Nguyễn Trăi làm phương châm cuộc sống: “Ung dung ta nói điều ta nghĩ, Cúi ngửa theo người quyết chẳng theo”.

 

Nhật kư được viết một cách đơn sơ giản dị, trung thực, thấy ǵ ghi nấy, nghĩ ǵ viết nấy, v́ thường là chỉ để cho ḿnh đọc hoặc một số rất ít người thân đọc mà thôi. Nhưng, cũng như hồi kư, nếu tác giả là người có tư tưởng, có sự nghiệp hay vị thế lớn trong xă hội, lại có óc nhận xét tinh tế, th́ tác phẩm của họ sẽ có thể phản ảnh tư duy của một thời đại, lối sống của một xă hội. Khác với hồi kư, nhật kư đi vào những chi tiết riêng tư hơn, sâu kín hơn của riêng tác giả hay gia đ́nh tác giả. V́ vậy đọc nhật kư người đọc có thể sẽ thấy có chỗ hơi tẻ nhạt v́ không dính dáng ǵ đến người đọc, hay kéo được chú ư của người đọc. Cuốn nhật kư đáng đọc và hấp dẫn là cuốn nói ít đến cái tư hơn cái chung, và/hoặc biết nói đến cái tư một cách độc đáo. Trong nhật kư của Nguyễn Ngọc Lan có những cái tư không tẻ nhạt mà lại duyên dáng. Chẳng hạn những khi ông nói đến cô gái cưng Lan Chi 3 tuổi của ông.

 

Sở dĩ chúng tôi chọn nhật kư của Nguyên Ngọc Lan để dựng một chương cho tập sách này là v́ đă t́m thấy trong đó khá nhiều tư liệu về xă hội “xă hội chủ nghĩa”, dưới sự lănh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam. Hơn nữa, tuy ông cũng thuộc nhóm những người trí thức phản tỉnh, nhưng Nguyễn Ngọc Lan, cùng với Chân Tín (sẽ có một chương vắn về ông này), vẫn có một thứ ǵ đó riêng biệt, mà những tác giả khác trong toàn bộ tập sách này không có. Đó là tinh thần “Tin Mừng” của Ki-Tô Giáo. Cả hai người này đều cho rằng hiện nay ḿnh chống cộng, hay trước kia chống chính quyền quốc gia ở một lănh vực nào đó, cũng chỉ là để nói lên và thể hiện cái tinh thần đó. Họ có lư không, và có lư đến chừng mực nào, độc giả tùy nghi xét định và chúng tôi cũng sẽ xin có lời bàn sau.

 

Vài nét về con người Nguyễn Ngọc Lan:

 

Nguyễn Ngọc Lan là cháu họ (bà con xa, 4 đời họ ngoại) của Nguyễn Trọng Trí tức nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ông sinh nhằm ngày quốc khánh của Pháp, 14 tháng 7 năm 1930. Ông là Linh Mục thuộc ḍng Chúa cứu thế, (thụ phong năm 1957). Năm 1959 được cử đi du học ở Pháp. Theo ông, th́ ṭa đại sứ Việt Nam tại Paris, v́ không lợi dụng được ông nên đă cúp phép chuyển ngân vào giữa năm 1963. Năm 1966, về nước với bằng tiến sĩ triết học, ông đă cùng với Linh Mục Chân Tín làm báo “Đối Diện” có lập trường “phản chiến”, nên cũng gặp nhiều khó khăn rắc rối với chính quyền, nhiều lần bị cảnh sát quốc gia thẩm vấn. Ông cũng qua mặt được mật vụ để theo Tạ Bá Ṭng vào “bưng” (ở Bến Lức) thăm căn cứ Cộng Sản. Lúc ấy, trừ Linh Mục Chân Tín, không ai biết chuyện này.

 

Sau khi Cộng Sản chiếm miền Nam, ông lại cùng với Linh Mục Chân Tín ra báo “Đứng Dậy” cũng với mục đích đấu tranh cho công b́nh xă hội theo tinh thần Phúc Âm Ki-Tô Giáo. Đầu năm 1976 ông nộp đơn xin tToà Thánh đặc cách cho ông hoàn tục, cởi bỏ áo ḍng để chính thức thành hôn với nhà báo Hùynh Thanh Vân, tốt nghiệp cử nhân báo chí trường đại học Vạn Hạnh. Nhưng ông hứa sẽ vẫn tiếp tục phục vụ giáo hội. Ông cho rằng chính v́ ông phục vụ giáo hội đắc lực cho nên tờ Đứng Dậy đă bị đóng cửa sau ba năm, và cá nhân ông bị theo dơi.

 

Năm 1988 nhân có vụ Toà Thánh Vatican quyết định phong 117 vị chân phước tử đạo thuộc giáo hội Việt Nam lên hàng hiển thánh, Nguyễn Ngọc Lan đă tích cực ủng hộ quyết định này, viết nhiều bài đả phá những luận điệu chống phong thánh của đảng Cộng Sản do một số cán bộ, trí thức Cộng Sản như các ông Nguyễn Khắc Viện, Trần Bạch Đằng, và cả một số Linh Mục “quốc doanh” hay thân Cộng như Trương Bá Cần, Thiện Cẩm…tung ra. Cuối cùng Lễ phong thánh đă diễn ra đúng như chương tŕnh ấn định và Nhà Nước bắt buộc phải đón nhận và c̣n khuyến khích giáo dân mừng lễ “trong tinh thần đoàn kết, kỷ luật.” Công việc của ông trong vụ này khiến giáo sĩ và giáo dân mến phục và ông cho đó là phần thưởng quư báu dành cho thiện chí của ông. Nhà Xuất Bản Tin ở Paris, khi giới thiệu nhật kư của ông trong năm 1988 đă viết:

“Sự đụng độ giữa nhà nước xă hội chủ nghĩa và giáo hội Công Giáo trong vụ Phong Thánh là sự đụng độ cơ bản trong chiều sâu của ḷng người. Sự thất bại của chính quyền trong vụ này có một ư nghĩa vượt hẳn tính thời cuộc. Năm 1988 thật đáng coi như một cái mốc. Nhật Kư 1988 vừa đánh dấu vừa làm nên cái mốc đó.”

 

Đối với tín đồ Công Giáo, thật không lời ca tụng nào quư giá hơn.

 

V́ thấy ông và Linh Mục Chân Tín là hai người khó lung lạc lại quyết tâm bênh vực Giáo Hội, nên nhà cầm quyền đă ŕnh mọi cơ hội để hăm hại hai ông. Nhưng hai ông lại có tín nhiệm phần nào trong giới đảng viên miền Nam v́ những hoạt động trước 1975, nhiều cán bộ có thân nhân đă từng được hai ông giúp đỡ, che chở trong khi bị chính quyền Quốc Gia giam giữ; họ thường không ngần ngại bày tỏ cảm t́nh ủng hộ. Cộng Sản vẫn nghĩ Linh Mục Chân Tín là người có uy tín trong giáo hội Công Giáo Việt Nam, lại có tài hùng biện, những bài giảng “Sám Hối” tại nhà thờ ḍng Chúa Cứu Thế vào mùa chay năm 1990 đă gây hào hứng, chấn động trong cộng đồng giáo dân Saigon, người ta rủ nhau đến nghe càng ngày càng đông. Nhiều cá nhân và tập thể đă ghi băng đem phổ biến. Cộng Sản c̣n nghĩ những tư tưởng được nói lên trong các bài giảng, bài văn của Chân Tín đều là của NNL. Một người có tài hùng biện được trợ giúp đắc lực bởi một nhà tư tưởng lư luận sắc bén th́ rất nguy hiểm đối với đảng cầm quyền. V́ vậy họ đă t́m cách tách rời hai người ra hai nơi.

 

Ngày 16 tháng 5 năm 1990 Linh Mục Chân Tín bị cấm hành đạo và đưa đi phát văng tại xă Cần Thạnh thuộc huyện Duyên Hải, cách Saigon 70 cây số. C̣n NNL th́ bị quản chế cấm ra khỏi phường (phường 6, quận 10, Saigon). Thời hạn quản chế là ba năm. Khi công an đến đọc lệnh quản chế, họ đă lục soát pḥng (LM Chân Tín) và nhà riêng (NNL) hai ông lấy đi hàng ngàn trang tài liệu và băng nhạc, trong số đó đáng kể nhất là những trang nhật kư của NNL. Cũng may là ông đă gửi trước sang Paris được một số.

 

Từ ngày bị quản chế ông thường im lặng. Có ai hỏi hồi này anh làm ǵ, NNL đáp: “làm thinh”. Nhưng đầu năm 1996 thính giả đài Pháp Quốc Tế (RFI) cũng nghe ông trả lời một cuộc phỏng vấn qua điện thoại viễn liên. Trong ṿng 20 phút ông đă phân tích và điểm lại t́nh h́nh chính trị trong nước trong năm Ất Hợi và dự kiến một số sự việc có thể xảy ra sau đại hội đảng sắp diễn ra.

 

Đầu tháng 5 năm 1998 NNL chở Linh Mục Chân Tín trên xe gắn máy tới viếng Nguyễn Văn Trấn tức Bảy Trấn vừa qua đời, th́ bị xe tông bị thương nặng, suưt chết. Theo lời tường thuật của ông sau đó ít lâu th́ rơ ràng người ta đă âm mưu ám hại ông.

 

Nhật Kư Nguyễn Ngọc Lan đă nói ǵ về chế độ “xă hội chủ nghĩa” và những người Cộng Sản?

 

Đọc toàn bộ 3 cuốn nhật kư mà Tin Nhà xuất bản gồm những năm 1988-1991, người đọc thấy rơ tác giả không ưa “xă hội chủ nghĩa” mà có chỗ ông viết tắt xhcn, rồi lại chuyển ngữ thành: “xạo hoài cha nội” (11-11-1988), hoặc “xả hết cả nước” (16-11-1990). Nhưng ông không dám ngang nhiên gọi như thế, mà đúng ra chỉ dám để đọc giả đọc giữa những hàng chữ của ông. Ví dụ như trường hợp vừa kể, ông chỉ dám nói về Vũ Ngọc Nhạ, nhiều lần tới thăm ông và Linh Mục Chân Tín, bảo anh này xạo. Nhưng v́ ông viết tắt xhcn rồi giải thích là xạo hoài cha nội, làm cho người ta liên tưởng đến ngôn ngữ dân gian lúc ấy thường hay dịch xhcn (xă hội chủ nghĩa) là: xạo hết chỗ nói, xếp hàng cả ngày, xả hết cả nước, xuống hàng chó ngựa… Cũng như khi ông nói xả hết cả nước là nói vào lúc có vấn đề nước uống chứ không phải vấn đề đất nước cụ thể nào.

 

Chính v́ không tiện (hay không dám) nói trắng ra điều ḿnh nghĩ về chế độ, mà Nhật Kư NNL đượm màu sắc châm biếm tế nhị, hóm hỉnh. Ông hay dùng lối nói bóng nói gió, chơi chữ, nói lái vân vân để thêm hương sắc cho câu văn thường vắn gọn của ông. Chẳng hạn ông gọi Ủy Ban Đoàn Kết là “Đàn Két”, Đài BBC là “Bà Bán Chè”, chính sách đổi mới ông gọi là “đồi mồi” (12-11-1990). Đông Âu th́ ông nói lái thành “Đâu Ông” để đặt ra cho đảng một loạt câu hỏi buốt óc. (27-7-1990) Nhắc đến nạn thiếu nước trong nhà mà ngoài đường ngập lụt ông viết: “Ban ngày cả nước lo việc nhà, đêm đến cả nhà lo việc nước.” Khi nói về liên hệ giữa tay trùm văn nghệ của Đảng Nguyễn Đ́nh Thi với các nhà văn nữ Ư Nhi và Lê Minh ông viết “quan hệ có thể là thi vị mà không văn chương” (10-12-1989) Có lúc ông trích dẫn nhật kư của một cán bộ, chánh văn pḥng huyện ủy nọ để nêu lên những thành ngữ quen thuộc nhưng rất chua xót như: “Ấm ức như Kiểm Tra. Ba hoa như Tuyên Giáo. Láo nháo như Văn Pḥng. Ḷng tḥng như Tổ Chức.” (28-8-88) Chỗ khác, để nói lên nhận xét của ḿnh về cuộc sống người dân đang đi xuống, đi giật lùi, ông đă ghi lại lời một người bạn nói về t́nh h́nh xă hội miền cao nguyên như sau: “Người Thượng trên đó bây giờ bảo nhau: Người Kinh bây giờ giống như người Thượng ḿnh rồi, sáng sớm cũng kéo nhau đi làm rẫy. C̣n người Thượng ḿnh vẫn giống như… khỉ.” (29-8-88)

 

Ngày 30-6-1991 nhân đọc một bài báo trên SGGP bàn về t́nh trạng “loạn sách, loạn xuất bản”: Những sách kém cỏi, đồi trụy… dễ dàng xuất hiện trong khi các sách về tôn giáo bị cấm đoán, ngay bản tin phụng vụ hàng tuần cũng gặp khó khăn, NNL đă phê b́nh người b́nh luận đặt sai vấn đề: “…Cho nên vấn đề không hẳn là “tăng cường hiệu lực quản lư”. Vấn đề là cứ quản lư như thế mà có hiệu lực được không? Khi mà trong thực tế, chủ nghĩa xă hội, như Lê-nin không c̣n sống để nói, là chế độ bàn giấy cộng với giấy ǵ cũng…bán được.” (30-6-91) Ư của ông là nếu như Lê-nin c̣n sống đến ngày nay, nh́n được thực trạng xă hội này, th́ ắt sẽ định nghĩa xă hội chủ nghĩa như vậy. Nhưng cái lối viết: “như Lê- nin không c̣n sống để nói” quả là độc đáo. Mỉa mai, châm biếm nhẹ nhàng mà dư vị th́ cay đắng.

 

Ông quen nhiều người, biết nhiều chuyện, lại chịu đọc, Việt ngữ cũng như ngoại ngữ. Nên bất cứ một lời nói hay việc làm của một ngựi nào đó cũng có thể gợi ông nghĩ tới t́nh h́nh trong xă hội và liền đưa ra những nhận xét sắc nét, nhưng kín đáo, bằng một bút pháp riêng. Chính v́ vậy người đọc thấy thích thú. Nhưng không phải ai đọc cũng hiểu hết ư của tác giả, v́ cái biết của ông bao gồm nhiều lănh vực tư tưởng phức tạp và nhắc đến nhiều tác phẩm xa lạ, nhiều khi trưng dẫn bằng ngoại ngữ, hoặc chính ông cũng b́nh luận bằng tiếng Pháp, tiếng La Tinh….

 

Thời gian 1988-1991 là thời Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư đảng, tương đối cởi mở với lời tuyên bố ban đầu:”Văn Nghệ Sĩ hăy tự cởi trói”, tuy rằng chẳng bao lâu sau đó đă lúng túng sợ sệt, lại đích thân ra tay “trói lại”… Do đó có một vài tờ báo như Tuổi Trẻ, Saigon Giải Phóng, hay ngay cả tờ Văn Nghệ lúc c̣n Nguyên Ngọc làm tổng biên tập, có đôi lúc cao hứng dám đăng những bài khéo léo chỉ trích chế độ. Nguyễn Ngọc Lan, hơn tất cả các nhà trí thức phản tỉnh khác đả nắm lấy cơ hội, xử dụng những tài liệu này trong nhật kư của ông để nói lên sự đồng t́nh của ḿnh. Những kẻ ghét ông không thể kết tội ông, v́ ông chỉ trưng dẫn báo của đảng. Báo chí lúc ấy báo nào lại chẳng phải là báo đảng.

 

Dưới đây chúng tôi sẽ chọn đăng lại một vài đoạn trong số hàng trăm đoạn trích dẫn của tác giả từ mấy tờ báo nói trên để xuyên qua đó thấy được phần nào t́nh trạng bi đát trong xă hội xhcn luôn tự xưng là chủ nghĩa xă hội khoa học. Xin nhắc lại là NNL muốn mượn những tờ báo đảng để nói lên nhận xét của chính ông về hiện trạng xă hội đương thời. Người đọc có thể coi những tài liệu đó phản ánh phần nào thái độ của ông đối với chế độ.

 

1. “Quà biếu trên mức t́nh cảm” Báo Saigon Giải Phóng, mục những điều trông thấy. Nhân báo tuổi trẻ gần đây có nói về vị nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Trang Bị Kỹ Thuật nhận hối lộ, nhưng đoàn thanh tra của bộ lại gọi đó là “quà biếu trên mức t́nh cảm”, Cung Văn viết: “Năm 1987 ngôn ngữ của chúng ta đẻ ra một cụm từ hơi rối rắm: “Trên mức t́nh cảm”. Trên, tất phải có dưới, có giữa, hoặc chính giữa, hoặc bằng mức t́nh cảm. Thế đó là cái ǵ?….Tại sao người ta phải né tránh, không dám gọi đích danh sự việc, chẳng hạn: kẻ nhận và đưa hối lộ. Phải chăng có sự bao che trong chính từ ngữ hầu làm giảm nhẹ tội phạm?” (12-1-88)

 

2. Cán bộ Cộng Sản tổ chức đám tang chó linh đ́nh, trong khi dân đói khổ: Ngày 9-4-91 NNL chép nguyên văn một đoạn của báo Tuổi Trẻ, Saigon cùng ngày, loan lại tin từ báo Nhân Dân ngày 4-4-91 như sau:

“Giữa năm 1990 nhân dân phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, Hà-nội đă chứng kiến một sự kiện hy hữu. Một cán bộ đă tổ chức đám ma cho con chó của ḿnh một cách linh đ́nh. Chiếc ôtô con đi đầu chở quan tài con chó. Chiếc xe tang thứ hai chở vợ chồng ông chủ và cuối cùng là xe ca chật ních bạn bè, nhân viên của ông. Hôm ấy “ông chủ” đă cho toàn bộ cán bộ công nhân viên đơn vị ông nghỉ để đưa đám ma con chó. Tiệc ma chay có trên mười mâm cỗ linh đ́nh…” Ông chủ nói trên là Nguyễn Lại Minh, 39 tuổi, trưởng pḥng kế toán vật tư, kiêm cửa hàng trưởng cửa hàng điện tử công nghiệp thuộc công ty Vesco (Bộ Công nghiệp nặng). Brigitte Bardot phải chào thua rồi.”

 

“Cũng trên tờ Tuổi Trẻ 4 ngày sau, Bút Bi, sau khi nhắc lại vụ đám tang chó c̣n nói tới một vụ “nhức nhối” khác: Bà Ơn ở Hải Hưng đă đánh chết mẹ ruột của ḿnh. Khi hỏi lư do bà trả lời tỉnh bơ: “Già và bẩn thỉu, không giúp ích ǵ được cho con cái th́ cần phải đánh chết”. Khi phóng viên đưa máy ảnh lên chụp, c̣n biết sửa cổ áo, cười tươi. Và Bút Bi nhận xét: “Đất nước nghèo đói rồi sẽ có ngày khá hơn; pháp luật lỏng lẻo rồi ra sẽ chỉnh đốn quy củ, nhưng luân lư đạo đức là cái giềng mối của dân tộc mà hư hỏng th́ phải nhiều thế hệ mới khôi phục ….và trong lịch sử loài ngựi đă từng có những dân tộc bị xóa sổ v́ đạo lư suy đồi.”

 

Liền sau nhận xét của Bút Bi, NNL đă nêu lên một sự kiện khác mà ông cho là nguồn gốc của mọi sự tồi tệ ở VN: …một giáo sư trường đại học tổng hợp đi công tác mang về 10 xe honda, gần 100 chiếc xe đạp …làm quà biếu. Hồ Ánh Tuyết, công nhân lao động hợp tác ở Đức gửi về 50 TV màu và 24 chiếc tủ lạnh. Nếu đạo đức có suy đồi, th́ chuyện đám tang con chó hay chuyện giết mẹ chỉ là hậu quả, triệu chứng, c̣n những chuyện “buôn lậu …đàng hoàng” như thế này mới thuộc loại căn nguyên nhức nhối hơn.”

 

3. Công Giáo, Phật Giáo trong cùng một gia đ́nh cán bộ Cộng Sản: Ăn sáng và uống cà phê với Hoàng Ngọc Biên, Cao Xuân Hạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cao Xuân Hạo:” Cha tôi trong những ngày gần chết chỉ đọc Imitation de Jésus-Christ và cầu nguyện tuy suốt đời cụ theo Lăo Trang, chê Mác, c̣n tôi th́ mác –xít (không như người ngoài nghĩ là ngược lại, ông cụ tôi mới mác- xít hơn tôi). Có lúc tôi đă đâm hoảng: Ông cụ mà xin mời Cha Cố đến rửa tội cho th́ ḿnh cũng phải chiều ư chứ biết làm sao, nhưng thiên hạ sẽ hiểu thế nào. Chưa hết, ông cụ tôi qua đời, bà cô tôi, sư bà Diệu Không, vào đây hạ lệnh không ai dám căi là phải chôn cất ông cụ theo nghi thức Phật Giáo.” (1-2-1988)

 

4. Nhà văn Cộng Sản có tầm vóc, vai vế trong hội nhà văn viết về tôn giáo: Tuần báo Văn Nghệ, số 11 (12-3-1988) tr. 3 đăng “Mấy lời nói lại và nói thêm” của Nguyễn Khải xung quanh vấn đề tôn giáo… quả là can đảm:

“…Tôi nghĩ, con người sở dĩ khác với con vật v́ nó không chỉ sống cho cái bây giờ, cái tức th́, cái trước mắt, mà c̣n dám sống cho một niềm tin cao đẹp, thiêng liêng hơn là chính bản thân nó. Hoặc là niềm tin vào một lư tưởng xă hội. Hoặc là niềm tin vào một lư tưởng tôn giáo. Viết về những con người sống cho một lư tưởng xă hội là công việc quen thuộc của chúng ta, khỏi bàn căi. Nhưng quan tâm một cách thông cảm và trân trọng những người sống cho một niềm tin tôn giáo trong sáng có phải bị chê trách là sai lệch không? Là có khuynh hướng duy tâm không? Cái thế giới tinh thần của con người là vô cùng phức tạp, v́ sự vận động của nó luôn luôn nhắm tới cái thật cao và cái thật xa. Càng có tuổi th́ cái nhu cầu hướng tới cái tận thiện tận mỹ thậm chí tới cái vô cùng nữa càng mănh liệt. Gần như là day dứt, một khắc khoải. Những day dứt và khắc khoải ấy có nhiễm chút nào cái hương vị của tôn giáo? Hoặc chỉ là một nhu cầu rất tự nhiên của con người vốn không cam chịu dừng lại trước bất kỳ một giới hạn nào? Tôi ao ước được tiếp tục phiêu lưu vào cái cơi mênh mang và đầy bí mật này, dầu biết là hết sức nguy hiểm, rất dễ trượt ngă, nhưng không sao dửng dưng nổi, v́ lời mời gọi của nó lại quá quyến dũ.” (12-3-88)

 

5. So sánh gián tiếp sự đào tạo nhân tài của chế độ cũ: Báo SGGP hôm qua đăng danh sách các bác sĩ, chuyên viên trong kíp thực hiện ca mổ Việt-Đức (song sinh dính liền, chú thích của MV). Trừ một ông đóng vai phụ xuất thân từ Hà-Nội, c̣n toàn là những người đă học y khoa Saigon, hay thành phố Hồ Chí Minh. Những vai chính lại có lư lịch phải kể là rất xấu, bác sĩ Trần Đông A, trửơng kíp mổ vốn là quân y Saigon cũ, bác sĩ trung tá, thiếu tá ǵ đó của…Nhảy Dù…đă từng tu nghiệp bên Mỹ và c̣n là người …Công Giáo. Bác sĩ Trần Thành Trai, cũng học Saigon, cũng quân y, biệt động quân cũ v.v… Âu cũng là một chuyện “Tạo Hóa nghiệt ngă” chăng?

 

6. So sánh Tư bản chủ nghĩa và xă hội chủ nghĩa: Báo Tuổi Trẻ chủ nhật số 42 ra hôm nay (22-10-88) đăng nhiều chuyện lạ. Sau “3 tuần ở Mỹ tháng 9 – 1988” (tựa đề), kỹ sư Phạm Văn Bảy, phó chủ tịch liên hiệp các hội khoa học, kỹ thuật thành phố, không tiếc lời ca ngợi nền đại học Hoa Kỳ, cách quản lư xă hội Mỹ. “Góc Người b́nh luận” đề nghị “Nhận thức lại chủ nghĩa Tư Bản để tự giác xây dựng chủ nghĩa xă hội”, nghĩa là thấy như thiên hạ đă thấy từ lâu: chủ nghĩa Tư bản không c̣n y như trong cuốn Tư Bản của Karl Marx…” Nhưng đáng chú ư nhất là những ḍng ngắn gọn sau đây của một độc giả: “Thế vận Seoul 1988 (từ 17/9 đến 2/10) đă diễn ra sôi nổi hào hứng, làm say sưa hàng tỷ con người trên hành tinh. T́m hiểu về đất nước và con ngựi Nam Triều Tiên, tôi đọc được những tư liệu như thế này:

 

“(…) Ngày nay do chính sách bần cùng hóa nông thôn và lệ thuộc vào Hoa Kỳ của chính quyền Nam Triều Tiên, sản xuất nông nghiệp bị đ́nh đốn nghiêm trọng, luôn luôn mất mùa, nhân dân thiếu ăn….”,”Công nghiệp chế biến phát triển yếu….”“Ngoại thương phản ánh t́nh trạng kinh tế lạc hậu và phiến diện của xứ này…”

 

– Tài liệu nào vậy? Và được viết vào những thập niên 50, 60 chăng? – Xin thưa đó là sách …Địa lư lớp 11 phổ thông (tập 2) do nhà xuất bản giáo dục in năm 1984, nơi trang 93, 94.

 

Tôi sững sờ v́ ngạc nhiên. Chúng ta dậy cho con em chúng ta những điều dối trá như vậy sao? “ (23-10-1988)

 

7. So sánh Nhà Nước với Nhà Thờ: Trần Bạch Đằng viết trong bài “Tạo môi trường thuận lợi cho sinh hoạt báo chí” đăng trên tuần báo Thanh Niên đề ngày 5-12-88: “…Ta hăy dùng một so sánh nhỏ: Nhà Thờ cố gắng biến các giáo điều của Chúa thành sản phẩm sinh động, c̣n chúng ta cố gắng biến chủ nghĩa Mác Lê-nin sinh động thành giáo điều.” Nh́n nhận được như thế thật là quư hóa. Nhưng có lẽ phải nh́n sâu hơn nữa…Lời Chúa vốn là “Lời Hằng Sống”, chứ không phải là giáo điều. (4-12-1988)

 

Hơn hai năm sau, một nhân vật quan trọng hơn, tướng Vơ Nguyên Giáp cũng lại so sánh tương tự và đă được Nguyễn Ngọc Lan nói đến trong một bức thư gửi Linh Mục Chân Tín: “Một anh bạn vừa kể với con: trong một buổi nói chuyện gần đây tại thành phố Hồ Chí Minh, đại tướng Vơ Nguyên Giáp có khuyên các đồng chí của ông đừng tiếp tục thói nói năng dài ḍng nữa. Ông nhận xét: Ông Yêsu đâu có nói ǵ dài ḍng. Những lời lẽ ngắn gọn. Thế mà hai ngàn năm sau thiên hạ vẫn cứ phải nhắc lại đấy.’ Cha thấy có ngộ không. Đại tướng Vơ Nguyên Giáp mà có thể cho phép ḿnh đẩy đến cùng nhận xét trên th́ hẳn c̣n phải thêm: cuốn Tư Bản của Karl Marx có lẽ v́ dài ḍng gấp trăm lần cuốn Tin Mừng theo Marcô mà xem ra đă hết thọ nổi rồi. (12-2-1991)

 

8. Đảng viên bị mắng: Đừng làm người…làm con lợn. “Bây giờ ḿnh mới để ư tới bút kư của Hoàng Hữu Cát “Ông Già Cỡi Trên Lưng Hổ” đăng trên Văn Nghệ số 36-37 ngày 3 tháng 9 năm 1988.”…Nguyễn Ngọc Lan trích gần hai trang câu chuyện của ông Phú đă từng làm giầu nhờ tài làm nước mắm Phú Hương đặc biệt thơm ngon, rồi bị sạt nghiệp v́ thuế của nhà nước XHCN. Ông có 5 người con đều là đảng viên. Khi về già, thấy chính phủ cởi mở về kinh tế, ông tính trở lại nghề cũ, th́ bị các con khuyên can, bảo ông nên dưỡng già đừng làm ǵ cho mệt. Sau một hồi tranh luận, ông mắng các con (đảng viên): “Hóa ra các anh các chị chỉ lo miếng ăn cho ḿnh! Nếu chỉ muốn ăn cho đầy bụng th́ đừng làm người – làm con lợn! “ (7-12-1988)

 

9. Nguyễn Duy nói về cởi mở báo chí của Đảng: Nhà thơ Nguyễn Duy, chủ nhiệm văn pḥng thường trực các tỉnh phía Nam của tuần báo Văn Nghệ, trả lời phóng viên báo Tuổi Trẻ Chủ nhật về việc Nguyên Ngọc bị cách chức: “…Với tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Nguyễn Duy kết luận: “…Việc đó xác nhận một sự việc đáng buồn là: Cánh cửa đổi mới báo chí vừa hé mở đă đột ngột đóng sập lại, làm cho có người bị kẹt tay và nhiều người thất vọng.” (18-12-1988)

 

10. Giáo sư sinh viên phát biểu về môn học Mác Lê-nin: Báo SGGP (Saigon Giải Phóng, bài 5 cột, trang nhất, ngày thứ sáu 23-12-1988): Trước khi có những đ̣i hỏi cụ thể, hiện giờ học môn Mac Lê-nin có thể phác họa bằng h́nh ảnh “thầy đi vô, tṛ đi ra” đôi lúc chen chúc nhau nơi khung cửa hẹp giảng đường…” Sinh viên Phạm Văn Toàn, bí thư đoàn khoa Công Nghiệp, trường đại học Kinh Tế, xem như nổi bật nhất trong cuộc thảo luận…Anh yêu cầu “dừng việc học các môn Mác Lê-nin lại v́ với nội dung của giáo tŕnh hiện tại sẽ không giúp ích ǵ được cho sinh viên mà thậm chí sẽ đào tạo nên một thế hệ xa rời cuộc sống”….

 

Ông Nguyễn Ngọc Ái, chủ nhiệm bộ môn Mác Lê-nin, đại học Sư Phạm: “Ở trường tôi có sinh viên xếp môn này ngang với môn thể dục thể thao.”

 

Sinh viên Đặng Tâm Chánh, đại học Sư Phạm: Chúng ta đă truyền đạt tư tưởng Mác Lê-nin theo nghĩa hết sức tôn giáo, phán ra một chiều và buộc mọi người phải tin, ai không tin là mất lập trường quan điểm.”

 

11. Đạo đức xuống dốc: Báo SGGP, trong một bài từ Hà-nội điện vào nhan đề: “Một kỳ họp Quốc Hội đáng ghi nhớ”: “Một đoạn trong báo cáo của ngành an ninh trật tự xă hội:Tội phạm h́nh sự tăng 27%, trọng án tăng 28%, bốn thành phố lớn chiếm tỷ lệ 40% trong tổng số vụ án h́nh sự cả nước. Hành động phạm pháp nghiêm trọng tăng 3 lần (300%) so với năm 1987…. Đáng chú ư là từ đầu năm 1988 đến nay có 81 vụ người thân trong gia đ́nh giết nhau rất tàn nhẫn biểu hiện một t́nh trạng suy thoái đạo đức rất không b́nh thường. T́nh h́nh này không chỉ là hậu quả của những khó khăn về mặt kinh tế xă hội, mà c̣n là hậu quả của sai lầm trong giáo dục tư tưởng và đạo đức.”

 

12. Nhân vụ cầu Xóm Chỉ sập làm 9 người chết ngày 5-5-91:

 

Chiếc cầu này đă dư trăm tuổi. Trong số 225 cầu của Saigon, có tới 60% cầu trong t́nh trạng sắp sập.”Với t́nh trạng 60% cầu muốn sập như thế kia th́ đâu phải là vấn đề cá nhân ông này ông nọ nữa. Mà tập thể lănh đạo tiền định không thể thay thế được th́ chỉ c̣n có mỗi một việc là các cây cầu cứ tiếp tục sụp đi thôi.(9-5-91)

 

Cũng v́ t́nh trạng cầu có nguy cơ sập và t́nh trạng cống thoát nước hư tạo nên cảnh ngập lụt trong mùa mưa, mà đă nảy sinh một số vè, thơ cười ra nước mắt.

 

“Đă hẹn nhưng anh đừng đến nhé

Bởi nhà em tít mé sông kia

Đường đi…ổ, hố cắt chia

Qua cầu sợ gẫy chia ĺa t́nh ta”

 

Hoặc:

 

Nhà anh gần Bà Chiểu

Nhà em bên Dakao

Cách nhau cây cầu sắt

Đành xa hơn thuở nào

T́nh vẫn đầy như nước

Nhưng cầu quá già nua

Vô phước hay hữu phước

Đều dễ tỏm không chừa!

Đến thăm em anh phải

Quanh xuống hướng cầu Bông

Cứ … ṿng vo tam quốc

T́nh ta bung mênh mông

Thương em c̣n thương lắm

Nhưng anh ớn qua cầu

Tạm ngưng chờ cầu sửa

Vài năm có chi lâu? (17-5-1991)

 

Về cầu (Đặng Nguyên Cẩn, quận 6):

…Qua cầu em chớ vội vàng

Xuống xe dẫn bộ nhẹ nhàng đỡ lo. (25-5-91)

 

Báo SGGP 14-6-1991: Cái Phao của Thanh Trầm:

“Đă lâu lắm rồi mới thấy bạn tôi đến chơi. Tôi rất mừng nhưng cũng rất ngạc nhiên, v́ thấy ngoài chiếc xe đạp cổ lỗ thường ngày, anh c̣n quàng thêm trên người chiếc phao xanh xanh đỏ đỏ căng phồng c̣n mới cáu cạnh.

 

– Định đi Vũng Tầu chơi hay sao mà mua phao bơi vậy?

– Đâu có, bùa hộ mạng đấy chớ!

– Nghĩa là sao, ḿnh chẳng hiểu?

– Có ǵ mà không hiểu. Này nhé, đeo cái phao này đi lại trong thành phố có nhiều cái lợi. Chẳng hạn khi trời mưa lớn làm thành phố bị ngập lụt. Có nó ḿnh yên tâm đi qua các cây cầu đang chờ ngày sụm bà chè như cầu Chà Và, cầu Chữ Y, cầu Mống, cầu Quay, cầu Sắt, cầu Tân Thuận, cầu Nhị Thiên Đường mà không sợ bị rớt xuống sông” (14-6-1991)

 

13. Báo chí là công cụ của đảng: Ngày 14 tháng 2 năm 1988, Nguyễn Ngọc Lan đă để nhiều th́ giờ ghi lại rất nhiều sự việc trong gia đ́nh, trong giáo hội, và nhất là bài phát biểu của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh về sự lănh đạo của đảng đối với truyền thông. Ở đây chỉ trích một câu vắn để xem NNL b́nh luận ra sao: “Báo chí phải phản ánh ư kiến của dân, nhưng báo chí là công cụ của đảng để nói tiếng nói của đảng lănh đạo nhân dân, đưa lẽ phải của đảng, Nhà nước vào nhân dân.” Về câu nói trên của tổng bí thư Linh, NNL viết: “Báo chí là công cụ của Đảng”. Thật minh bạch. Tờ Công Giáo và Dân Tộc nếu danh chính ngôn thuận phải ghi rơ trên manchette: “Công Cụ Của Đảng”, thay v́ lộng ngôn như hiện nay: “Cơ quan của Uûy Ban Đoàn Kết CGYNVN tp HCM”. NNL để cho người đọc nói tiếp về các tờ báo và cơ quan ngôn luận khác.

 

14. Chuyện tham quyền cố vị qua mấy câu vè dân gian: SGGP 2-3 và 9-3-89 ghi:


Quan Bờm

Quan Bờm có chiếc ghế ngồi

Nhân dân kêu đổi cho ngôi nhà lầu

Quan rằng quan chẳng thích lầu

Nhân dân kêu đổi trăm bầu rượu sâm

Quan rằng quan chẳng cần sâm

Nhân dân kêu đổi một mâm bạc tiền

Quan rằng quan chẳng ham tiền

Nhân dân xin đổi chức quyền nhỏ nhoi

Quan rằng: không chịu nhỏ nhoi

Nhân dân nói để ngồi dai…quan cười

 

Lời cảnh cáo

Nh́n quanh: tiêu cực vẫn chưa… tiêu

Chước quỷ, mưu ma vẫn trổ nhiều

Móc ngoặc, tham ô c̣n chưa hết

Cửa quyền cấu kết với quan liêu

Gốc dân chuột khoét đau nhiều nỗi

Thành nước trùn xoi khổ lắm điều…

Vạch mặt chỉ tên phường nội tặc

Hại dân đừng trách lửa dân thiêu (3)

 

15. Khả năng của đảng: (SGGP 11-10-1989)

“Quyền đá vạ rơm”: điện, nước, xăng

Thấu chăng nỗi khổ của người dân

Điện hư nước cúp: ngày đôi bận

Xăng hết, giá tăng: tháng mấy lần

Trách nhiệm “v́ dân” dân hết biết

Tư duy “đổi mới” mới đâu cần

Khả năng nếu chỉ: cúp, hư, hết

Bám ghế làm chi nhọc xác thân

 

16. Tệ nạn luồn cúi trong xă hội xhcn: Trên SGGP 8-9-1989,

 

Vịnh cái lưng tôm:

Ông chỉ hơn đời cái …lưng tôm

Khi luồn, khi cúi, lúc lom khom

Quyền cao, lộc trọng tài lau lách

Vinh thân ph́ gia giỏi cúi luồn

Đầu xơ, óc cứng, tư duy đá

Ông chỉ hơn đời cái lưng tôm

Lưng làm hàm nhai, ô hay nhỉ

Bao quản lấm đầu bởi …thân lươn

 

17. Cả vú lấp miệng em (bài của một ông đồ giả ở Dalat)

Có những u già sữa đă khô

Sữa khô nhưng vú hăy c̣n to

Bịt mồm em bé không cho khóc

Cũng chẳng cần hay em đói no

Khát sữa nhưng em chẳng khóc nào

Bưng mồm bịt miệng khóc làm sao

Ví bằng khóc được u liền mắng

Vú ngậm ngày đêm khóc chỗ nào.”

 

Ngày 17-12-1989 NNL đă đăng lại nguyên văn một bức thư t́nh kiểu xhcn, trích từ báo Saigon Giải Phóng. Thiết tưởng những người c̣n biết rung động theo nhịp điệu b́nh thường của con tim có thể t́m thấy nơi đây những phát kiến tân kỳ về t́nh yêu xhcn. Chúng tôi xin ghi lại đây toàn văn bức thư t́nh nói trên:

 

“Em thân yêu,

 

“Trên cơ sở tṛ truyện hôm nọ với em, anh nghĩ rằng anh đă rút ra được những kết luận nhất định về t́nh cảm của đôi ta. Theo đánh giá sơ bộ của anh th́ chúng ta đă đạt được một sự nhất trí cao về một số mặt, đó là những thành công bước đầu trên quá tŕnh tiến tới hôn nhân. T́nh cảm gắn bó và sự hiểu biết lẫn nhau của chúng ta hoàn toàn có thể giúp anh và em xích lại gần nhau theo kế hoạch dự định, và anh yêu cầu mỗi người trong chúng ta phải nỗ lực củng cố những ǵ đă đạt được và thúc đẩy nó lên một bước phát triển mới. Em đừng sợ em không thích hợp với chức năng và nghĩa vụ của một người vợ. Con người ai chẳng mắc khuyết điểm.


“Những mặt yếu của em trong phạm trù nấu nướng có thể khắc phục một cách hiệu quả, nếu em biết khắc phục từng bước trong khi tiến tới khắc phục toàn phần. Và một khi em đă tự giác đứng ra nhận khuyết điểm như vậy, hẳn em đă chuẩn bị biện pháp sửa chữa, trước mắt em là những thắng lợi mới.


“Buổi đi chơi tới anh sẽ thông báo thời gian và địa điểm với em sau. Có thể chúng ta sẽ tham quan một quán ăn nào đó và chúng ta sẽ bàn bạc về những bước đi thích hợp cho giai đoạn phát triển t́nh cảm mới. Gửi em một nụ hôn đoàn kết.


Người gửi thư (kư tên)”

 

o 0 o

 

Đọc nhật kư của Nguyễn Ngọc Lan người ta thấy ông có liên lạc với một số người Cộng Sản, phản tỉnh cũng có mà chưa phản tỉnh cũng có. Trong số này phải kể đến Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn, Nguyễn Ngọc Lương, Hùynh Tấn Mẫm, Dương Quỳnh Hoa, Chính Văn, Lữ Phương, Trần Mạnh Hảo, Dương Thu Hương, Nguyễn Văn Trấn, Hà Sĩ Phu…Với Vũ Ngọc Nhạ, như đă nói ở trên, ông bảo xhcn, xạo hoài cha nội. Về Nguyễn Ngọc Lương ông viết: “Trong đám bạn bè làm báo và viết văn trước 1975, Nguyễn Ngọc Lương có lẽ là người có “chất đảng” hơn cả, nếu không phải đă sẵn thẻ đỏ. Thực sự thế nào th́ chẳng ai biết, v́ chính anh chẳng bao giờ nói với bạn bè về quan hệ của anh với Đảng ra sao. Có thể là v́ ở vào thời buổi…” Trên xe trở về thành phố ḿnh bảo Nguyễn Ngọc Lương: “Ông nói chung là dễ ghét. Nhưng thỉnh thoảng cũng có cái thật dễ thương. Như vừa rồi ông lên tiếng trên báo tuổi trẻ bênh vục Thế Vũ và Lữ Phương. Và như qua bài điếu văn hôm nay.” (4) (18-8-1989)

 

C̣n Trần Mạnh Hảo th́ ông cho biết là người Bùi Chu, gốc Công Giáo. NNL có vẻ thích “Ly Thân”. Nhưng cho rằng “Ly Thân” của Trần Mạnh Hảo hay “Cái Đêm hôm ấy đêm ǵ” của Phùng Gia Lộc, c̣n thua thiên bút kư “Ông Già cỡi lưng cọp” của Hoàng Hữu Cát, đă nói ở trên.

 

Riêng đối với Dương Thu Hương ông có biệt nhăn. Hai người đă từng ngồi ăn với nhau hơn một lần, có một lần tại nhà ông. Có người khuyên ông nên thận trọng đối với nhà văn nữ bạo miệng này. Và lời khuyên này có lư, theo một nghĩa khác, v́ sau này ông đă bị công an tra hỏi nhiều lần về việc “ông có mời DTH đến nhà không”. Ông bảo: “Thận trọng th́ vẫn thận trọng… Nhưng khi một nhà văn trẻ không sẵn thành tích hay vết tích chính trị “ngồi bệt xuống cỏ” mà nói chuyện đất nước, chẳng lẽ cũng phải nghi kỵ, đến mức không dám nói tới hay nói chuyện với hay sao?” NNL cũng cho rằng “DTH chỉ diễn tả sắc nét và đến nơi đến chốn điều bàn dân thiên hạ vẫn nghĩ thôi.” Về tác phẩm Những Thiên Đường Mù của cô mới xuất bản lúc ấy, ông viết: “Tất cả cuốn tiểu thuyết mới của DTH Những Thiên Đường Mù (nxb Phụ Nữ, 1988) như chỉ để “lộng kiếng “ (5) bức tranh xă hội thê thảm trên.” Ông có ư nói đến t́nh trạng cán bộ đảng viên chỉ lo làm tiền, giống như ông cậu Chính của Hằng, nhân vật chính trong truyện. (3-4-1989)

 

Hôm Dương Thu Hương nói chuyện với cán bộ ban tổ chức trung ương ngày 1 tháng 3 năm 1990, NNL không có mặt nhưng ông có theo dơi trên báo, rồi nhận xét: “…một Dương Thu Hương thật sắc nét, có hiểu biết, suy nghĩ và ư thức chính trị đáng kể. Ngôn ngữ th́ vẫn “nói thẳng, nói thật” và gẫy gọn nhưng đồng thời vẫn giữ những nét “nữ tính” đặc biệt. Như khi chị nói: “Tôi là nhà văn của dân chúng, tôi ngồi bệt xuống cỏ’. Không một ông nhà văn nào, cho dẫu có muốn là của dân đến đâu chăng nữa, lại có thể có ư nghĩ “ngồi bệt xuống cỏ” ngộ nghĩnh như vậy được. Hay như khi chị tỏ nỗi lo ngại, hoặc những ǵ có thể xảy đến mà là “một nỗi lo ngại lẽ ra một người đàn bà không đáng phải chịu đựng”, người ta thấy chị vẫn hănh diện trong dáng dấp một người mẹ rất b́nh thường.” (3-4-1990) Sau khi nghe Phạm Quốc Tuyên kể lại buổi nói chuyện của DTH, NNL đă bảo ông ta: “Tôi mà có mặt hôm đó e rằng khó tránh được lên tiếng hỏi DTH: “Những kẻ mù lôi thiên hạ về hướng thiên đường mù đă đành rồi, nhưng chị nghĩ sao về những gă chưa đến nỗi mù mà vẫn nhắm mắt đi theo đỡ gậy cho những kẻ mù?” (11-4-1990)

 

Thật là chí lư. Độc giả của NNL không biết có muốn cũng hỏi chính tác giả Nhật Kư: Khi viết tờ Đối Diện trước 75, và khi lén lút ra bưng (ở Bến Lức), ông đăù nghĩ đến câu hỏi đó để tự hỏi chưa? Có lẽ NNL ngày nay sẽ biện bạch rằng ông hiểu mấy từ “đỡ gậy cho những kẻ mù” theo nghĩa khác chăng. Hoặc giả ông trả lời rằng lúc ấy hoàn cảnh chính trị tối mù, có ráng mở mắt cũng khó có thể thấy đâu là đâu? Nhưng ngày nay mọi sự đă rơ như ban ngày. Ông có “sám hối” không? Nếu có th́ thái độ của kẻ sỹ là nói lên lời sám hối. Đọc Nhật Kư ông từ 1988 đến 1991, không thấy ông minh thị sám hối. Nhưng đọc qua hàng chữ th́ dường như có. Chắc ông sẽ bảo ông chỉ làm theo lương tâm và tinh thần Thánh Kinh Ki-Tô giáo. Hoặc: t́nh h́nh miền Nam VN hậu đảo chính (lật ông Diệm, tháng 11 năm 1963) là t́nh h́nh của một nước bị Mỹ đô hộ. V́ vậy ông chống Mỹ-Thiệu là v́ ḷng yêu nước? Nếu có người không hiểu nổi ông th́ ông cũng đành chịu?

 

NNL cũng hay nói đến Lữ Phương, người mà ông khen là “đă dám nói lên một số nhận định sắc nét về “văn hóa trong một xă hội dân chủ” tại một cuộc hội thảo do Mặt Trận Tổ Quốc thành phố tổ chức.” Một hôm Lữ Phương nhắc lại một câu của Nguyên Văn Linh, cũng như thông cáo của Đảng về dân chủ và dân chủ rồi phê rằng vế thứ hai trong câu nói là bước tiến đó.

 

Câu của NVL như sau: “Dân chủ phải có sự lănh đạo của Đảng, đồng thời sự lănh đạo của Đảng cũng phải dựa trên phương pháp dân chủ.” “Nhưng Lữ Phương mơ mộng hăo huyền, NNL viết. Điều quan trọng là nguyên tắc dân chủ, cơ chế dân chủ, chứ không phải là phương pháp dân chủ… Nếu chỉ có phương pháp dân chủ th́ chỉ mới là mị dân, chưa có dân chủ.” (3-4-1989)

 

Bùi Tín có lẽ được NNL nói đến nhiều nhất (các ngày 8-3, 01,06,15, 16 tháng12-91 …) trong số những người Cộng Sản phản tỉnh, v́ ông coi ông này tượng trưng cho sự chống đối đường lối cai trị của Đảng, mặc dù “ai chẳng biết Bùi Tín vẫn cố vớt vát, gỡ gạc cho Đảng đấy”, như ông viết. Sở dĩ ông viết nhiều về Bùi Tín, v́ hồi ấy mọi người đều chú ư tới ông này qua đài BBC với những bài giới thiệu và phỏng vấn của Đỗ Văn. Đàng khác, c̣n v́ cái tên Bùi Tín, Thành Tín có liên hệ đến tên ông thày và cũng là bạn của NNL là Linh Mục Chân Tín. Ngày 15-12-1990 ông viết cho Chân Tín một lá thư rất dài rồi dùng lối chơi chữ để kết thúc như sau:

“Nếu cha cho phép con đùa một chút th́ con sẽ nói: hết (?) Tín này th́ sẽ có Tín khác, không có Bùi Tín này th́ rồi cũng có Bùi Tín khác. Bùi Tín này mà giả sử không “thành tín” (Thành Tín là bút hiệu của Bùi Tín), th́ lại sẽ có Bùi Tín khác thật thành tín và thật chân tín. Kẻ chỉ biết hoài nghi hay kẻ chỉ tin vào quyền lực xưa nay vẫn không chịu hiểu điều đó (họ cho là chỉ có ngôn sứ giả hay tưởng là cứ giết chết ngôn sứ nọ, ngôn sứ kia là hết chuyện) nhưng lịch sử đă chứng tỏ điều đó.”

 

Trước đó nửa tháng nhân bài phỏng vấn của Đỗ Văn dành cho Bùi Tín trên đài BBC và có dư luận nghi ngờ về vai tṛ và chủ trương của Bùi Tín, NNL đă dành hẳn một trang để b́nh luận về việc này. Ông chơi chữ một cách ư nhị: “Lời lẽ của ông Tín này “Bùi” hơn lời lẽ của Linh Mục Chân Tín rồi! Rồi đây người ta sẽ giải thích thế này thế nọ về “hiện tượng “ Bùi Tín. Nhưng giải thích thế nào đi nữa th́ cũng có một quy luật lịch sử là sự thật không chôn giấu măi được. Vẫn như Chúa Yêsu nói từ 20 thế kỷ trước: “Không ǵ che giấu mà không bị bại lộ, không ǵ kín ẩn mà sẽ không bị thấu biết” (Mt 10, 26). Ngày nay lại là thời buổi của mass media!”

 

Sau khi trích dẫn một số điều được Bùi Tín tiết lộ trong cuộc phỏng vấn, NNL kết thúc: “Không khéo rồi Nhà nước lại sẽ bảo Bùi Tín là cộng sự viên đắc lực của Chân Tín đó. Trong trường hợp này th́ không phải Cha mà con sẽ bị việt vị (hors-jeu) rồi.” (1-12-1990)

 

Phan Đ́nh Diệu là người được NNL nhắc đến (có lẽ) chỉ một lần nhưng đă được ông đánh giá cao hơn cả Bùi Tín và Lữ Phương. Ngày 2-5-1991 ông viết (gửi lm Chân Tín):

“Cuối cùng rồi cũng có bạn bè gửi tới cho con đọc “Kiến nghị về một chương tŕnh cấp bách nhằm khắc phục khủng hoảng và tạo điều kiện lành mạnh cho sự phát triển đất nước”, của giáo sư Phan Đ́nh Diệu. Ở ngay giữa Hà-nội, vào lúc “mọi quyền tự do dân chủ, kể cả các quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và báo chí bị cấm đoán nghiêm khắc” mà tŕnh vấn đề thẳng thắn và khá triệt để như vậy là…nhất rồi. Có hệ thống và đến nơi đến chốn hơn Bùi Tín (như ở phần II đoạn 3: Một chế độ chính trị dân chủ, đoàn kết và ḥa hợp dân tộc: “Không thể có dân chủ thật sự trong một chế độ có quy định trước sự độc quyền lănh đạo của một đảng”, v.v…Hay như phần IV, trang cuối cùng) Không chỉ dừng lại ở những vấn đề lư luận, nguyên tắc như Lữ Phương (như bài Chủ Nghĩa Xă Hội Việt Nam: Di sản và đổi mới” đăng trên Phát Triển Kinh Tế tháng 3,90, trang 12-19) mà có kiến nghị “Những giải pháp cấp bách khá thiết thực.” (2-5-1991)

 

Về Nguyễn Văn Trấn, NNL đă nói về cuộc gặp gỡ lần đầu như sau: (6) “đang ngồi nói chuyện với Chân Tín, th́ có tiếng gơ cửa khá… thô bạo. Một cụ già với râu tóc, dáng dấp khả kính, bước vào và hỏi: “Có phải Linh Mục Chân Tín ở đây không?” Ḿnh bèn rút lui ra bàn làm việc ở pḥng ngoài. Nhưng chỉ vài phút sau Cha Chân Tín lại đưa ông cụ ra: “Bác muốn gặp anh đó.” Ông cụ là Nguyễn Văn Trấn, tác giả cuốn “Chợ Đệm Quê Tôi” đă gây dư luận khá sôi nổi v́ cả lối nghĩ lẫn lối viết khá… ngang. Bây giờ bác Trấn đang muốn viết về Trương Vĩnh Kư. Cũng như bác đă viết về Phan Thanh Giản, cũng như sẽ viết về Nguyễn An Ninh: “Nguyễn Thị B́nh và đám con cháu Nguyễn An Ninh xin tôi viết, nhưng tôi nhất định phải viết xong về Trương Vĩnh Kư đă mới đụng tới Nguyễn An Ninh. Toàn là những nhân sĩ miền Nam mà “người ta” vẫn đánh giá quá thấp và sai bét. Tôi là người Cộng Sản, nhưng những tay bôi bác Phan Thanh Giản hay Trương Vĩnh Kư như thế là “communistes vaniteux”. Tôi đọc bài “Nói chuyện tử đạo với ông Nguyễn Khắc Viện của ông, tôi thấy ông là người có thể giúp tôi viết về Petrus Kư (à này chữ Petrus Kư không có dấu sắc trên chữ e chứ phải không ông?). Thậm chí ông đứng tên chung với tôi đi.”

 

Mười năm sau, khi Nguyễn Văn Trấn qua đời, NNL đă chở Chân Tín đến viếng xác; trên đường đi bị đụng xe ngă trọng thương, NVT cũng bị trọng thương khi một chiếc xe “nào đó” tông vào, và cũng như Hà Sĩ Phu cũng đă bị xe tông ở gần bờ hồ Hoàn Kiếm năm 1995.

 

Hà Sĩ Phu cũng là một người được NNL quư mến. (Xin xem chương 4 về Hà Sĩ Phu)

 

Đối với Hồ Chí Minh và các nhà lănh đạo Cộng Sản khác, NNL không ca tụng hay phê b́nh trực tiếp. Ông luôn dùng từ ngữ đúng đắn, phải phép, nếu không nói là kính cẩn, một điều cụ, hai điều cụ, hoặc dùng đúng danh xưng chính thức, Cụ Hồ Chí Minh, chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, đại tướng Vơ Nguyên Giáp v.v…., mặc dù trong bụng ông có lẽ đă bắt đầu coi họ là “những kẻ mù lôi thiên hạ về hướng thiên đường mù”.

 

Ngày 25 tháng 7 năm 1989 ông đă trưng dẫn SGGP để ngụ ư phê b́nh gián tiếp và kín đáo, có bùa hộ mạng pḥng thân như sau:

“Và trên “Diễn Đàn nói thẳng, nói thật”, Nhất Ngôn nhắc lại câu của Hồ chủ tịch: “Có thể đổ cho rằng những khuyết điểm đó v́ thời gian c̣n ngắn ngủi, v́ nước ta c̣n mới, hoặc v́ lẽ này lẽ khác. Nhưng không, tôi phải nói thật: Những thành công là nhờ đồng bào cố gắng. Những khuyết điểm kể trên là lỗi của chúng tôi.”(xem bài “tự phê b́nh”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập IV tt 74-75, nxb ST, Hà-nội 1984) Nhưng chuyện đó đă thành chuyện cổ tích rồi khi mà từ 1975 đă sẵn khẩu hiệu: “Đảng Cộng Sản Việt Nam, người tổ chức mọi thắng lợi muôn năm.”

 

Phải nghiền ngẫm khẩu hiệu này, rồi nh́n vào t́nh trạng xă hội tŕ trệ về kinh tế, băng hoại về đạo đức được NNL nói đến trong toàn bộ Nhật Kư của ông, đồng thời nhớ lại không biết bao lần đảng Cộng Sản phạm lỗi lầm trong quá khư, lúc Hồ Chí Minh c̣n sinh thời, cứ sau mỗi lỗi lầm (đúng ra là tội lỗi phạm cố t́nh chứ không phải do lầm lỗi), ông già này lại lên tiếng xin lỗi, nhận lấy trách nhiệm về ḿnh để đỡ đ̣n cho Đảng, cho “tập thể” dưới quyền ông. Và chỉ nhờ cái tài đóng kịch, tài khóc lóc xin tha mà đảng đă thoát được búa ŕu của dư luận nhân dân. Nhưng khi đă đạt được mục đích rồi (chiếm trọn miền Nam), Đảng của ông,Tập Thể do ông hôn phối với chủ nghĩa Mác Lê đẻ ra, đă phũ phàng cướp hết công của nhân dân để trắng trợn tuyên bố ḿnh là “người tổ chức mọi thắng lợi”. Chỉ những người nh́n rơ hiện tại, so sánh với dĩ văng, và thấu hiểu tính t́nh ông Hồ, cùng xuất xứ của đảng Cộng Sản mới có thể hiểu NNL muốn nói ǵ qua những trích dẫn trên.

 

Ngày 17-4-1991 NNL đă để nhiều th́ giờ tường thuật lại một cách tỷ mỷ đầy đủ chi tiết việc công an thẩm vấn cô Tường Vi, cháu Linh Mục Chân Tín, thường liên lạc với NNL trong thời gian hai người bị quản chế. Hai chục trang giấy dành cho bài tường thuật này có thể là một áng văn chương, đồng thời là một tài liệu quư về kỹ thuật hỏi cung của công an Cộng Sản. Tiếc rằng khuôn khổ tập sách không cho phép trích lại ở đây. Phải đọc hết từ đầu tới cuối mới thấy được cái hay của nó.

 

Một số bạn đọc có thể bất b́nh, hay ít ra cũng không hài ḷng khi không thấy trong những trang nhật kư của NNL một lời minh thị lên án những tội ác của Cộng Sản trong các chiến dịch cải cách ruộng đất, sửa sai và chỉnh đảng…. Phải chăng v́ ông cho rằng thời gian xảy ra các vụ việc đó ông đang bị cấm cung trong nhà tập ḍng CCT. Không biết ǵ đến t́nh h́nh chính trị? Cho nên thà im lặng hơn là nói lên điều mà ḿnh không đích thân chứng nghiệm?

 

Ngoài những vấn đề thời sự chính trị và tư tưởng ra, NNL đă để phần lớn nói về chuyện riêng tư, chuyện gia đ́nh vợ con, bè bạn, và vấn đề tôn giáo. Ông chỉ có một cô con gái 3, 4 tuổi, rất được cưng chiều và năng được nói đến trong nhật kư làm cho những trang nhật kư thêm tươi mát, dí dỏm. Ở đây chúng tôi không nói đến những vấn đề riêng tư và gia đ́nh của ông, cũng không đặt nặng vấn đề tôn giáo trong Nhật Kư NNL. Nhưng tưởng cũng nên dành vài hàng cho thái độ của ông về một vài khía cạnh của vấn đề tôn giáo được đề cập trong nhật kư của ông.

 

Tuy ông đă được TToà Thánh đặc cách cho phép cởi bỏ áo Ḍng và chức Linh Mục, nhưng ông vẫn tiếp tục dùng những kiến thức của ông về giáo lư cũng như về lịch sử giáo hội và lịch sử Việt Nam để bênh vực Giáo Hội. Ông chống đối việc nhà nước Cộng Sản dựng nên cái gọi là Uûy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước. Ông đả kích những Linh Mục trong cái Uûy Ban đó, cho rằng họ bợ đỡ nhà cầm quyền, làm hại đến sựï thống nhất của Giáo Hội. Thâm chí ông lấy làm tiếc và cũng thành khẩn phê b́nh tổng giám mục Nguyễn Văn B́nh là không cứng rắn đủ với nhà cầm quyền. Ông cũng nghiêm khắc phê b́nh những Linh Mục t́m đường di cư bỏ lại con chiên trong những năm 54 và 75. Linh Mục Hồng Phúc, tuy cũng thuộc ḍng Chúa Cứu Thế như ông đă bị ông nêu đích danh phê b́nh về việc ông này vận động cho các giám mục Hoa Kỳ ủng hộ tiếp tục cấm vận đối với Việt Nam.

 

Danh tính các Giáo hoàng, giám mục, Linh Mục và những tác phẩm về tôn giáo nhan nhản trong nhật kư NNL. Có thể nói hai lănh vực gia đ́nh riêng, và tôn giáo chiếm quá nửa số trang trong số gần ngh́n trang nhật kư của ông. Khi ở Liên Xô xuất hiện một Gorbachev với Glasnost và Perestroika mở rộng tự do tôn giáo đôi chút, NNL đă thích thú t́m đọc và trích dẫn những tác phẩm tương đối cởi mở với ḷng ước mong người ta cũng cho công giáo Việt Nam có chút tự do về báo chí và hành đạo. Và khi nhà lănh đạo Liên Xô này gặp gỡ “Đức Giáo Chủ”, như ông thường gọi thế, th́ xem ra NNL rất lấy làm phấn khởi.

 

Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài RFI (7) nhân dịp đầu năm 1996 NNL nhận là trong năm Ất Hợi đă có một vài thành tựu về kinh tế, văn hóa và ngoại giao tại Việt Nam. Cũng đă có tiến bộ về mặt cải tổ bộ máy nhà nước… Ông nói: “Những thành tựu như thế không phải là không thật, nhưng chỉ mới là nửa sự thật, một mặt của sự thật… Cũng c̣n có mối căng thẳng giữa đảng độc tôn và một nhà nước cần hữu hiệu thục sự….Dầu sao đi nữa th́ không một quyền lực chính trị nào có thể đóng hộp, bó rọ thực tế lịch sử măi được.”

 

Đôi hàng cảm nghĩ về Nguyễn Ngọc Lan:

 

Sau khi đọc gần ngh́n trang nhật kư của Nguyễn Ngọc Lan, tôi có cảm tưởng ông muốn cho người đọc thấy lập trường của ông là một nhà báo Ki-Tô giáo muốn tranh đấu cho ḥa b́nh và lẽ phải. Trong thâm tâm ông chống sự tàn ác, dă man. Ông chống chiến tranh và những hậu qủa của chiến tranh, chết chóc, giam cầm, bắt bớ. Ông cũng muốn cổ vơ cho một đường lối chính sách ôn ḥa, công b́nh, tiến bộ đem lại hạnh phúc cho người dân.

 

Trong một chế độ tương đối có tự do, ông dùng quyền tự do của công dân, và đệ tứ quyền của báo chí để nói lên lập trường của ḿnh. Khi nhà cầm quyền phủ nhận quyền tự do đó, ông phải im lặng. Nhưng là thứ thinh lặng của sức mạnh, không phải im lặng v́ đầu hàng. Ông không được viết công khai, báo của ông bị đóng cửa, không báo nào chịu đăng hay dám đăng bài ông th́ ông chuyền tay cho người đọc và cụ thể nhất là viết nhật kư để có chỗ nói lên trong thinh lặng tư tưởng của ḿnh. V́ người ta xâm phạm cả đến quyền riêng tư tối thiểu của con người, tịch thu cả nhật kư của ông để xoi mói, t́m ṭi bằng cớ chống đối hầu bỏ tù ông, cho nên ông phải thủ thế, nói bóng nói gió, mượn lời cán bộ, mượn bài của các báo đảng để gián tiếp nói lên suy tư của ḿnh. Cũng để thủ thế, để có thể tồn tại mà chống, dù chỉ là chống đỡ chứ không phải là chống đối, ông đă khép ḿnh trong khuôn khổ một công dân trong một chế độ độc tài, không dám đả kích, phê b́nh thẳng thắn các người lănh đạo, thậm chí c̣n tỏ vẻ kính trọng.

 

Các nhà lănh đạo quốc gia, các chiến sĩ quốc gia có thể trách ông đă từng có lúc “đi theo đỡ gậy cho những kẻ mù” (lời ông định hỏi Dương Thu Hương), khi ông chống chính quyền đệ nhị Cộng Ḥa trên tờ Đối Diện. Một số người khác có thể chất vấn ông: Là một trí thức công giáo, chẳng lẽ ông không biết Cộng Sản chủ trương vô thần, bài tôn giáo, và do đó tàn ác và là nguồn gốc mọi bất công, bất hạnh, bất nhân trong xă hội hay sao? Đă từng là Linh Mục công giáo ông há không biết Cộng Sản là một chủ nghĩa vô thần, vô tổ quốc ư? Vậy tại sao ông đành ḷng làm suy yếu hàng ngũ quốc gia, phụ ḷng các chiến sĩ chiến đấu chống cộng?

 

Ở đây tôi không có ư bào chữa cho cựu Linh Mục NNL. Nhưng hy vọng ở đoạn kết tôi sẽ trở lại vấn đề này để t́m hiểu thái độ và hành động của những trí thức, công giáo cũng như Phật Giáo hay vô thần, trong nước đối với cuộc tranh chấp quốc cộng trong những thập kỷ qua.

 

 

Chú thích:

 

(1) Nhật Kư 1990—1991 Sống Thẳng, Nói Thật, Nguyễn Ngọc Lan, Tin Paris, 1993, trang 378, ngày 30 tháng 6 năm 1991.

 

(2) Ngày 16 tháng 5 năm 1990, cũng là ngày Linh Mục Chân Tín, vừa là thày vừa là bạn thân, bị cấm hành đạo, bắt buộc phải rời Nhà Ḍng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng, Saigon, đầy tới xă Cần Thạnh, thuộc huyện Duyên Hải cách xa 70 cây số. Thời gian quản chế của cả hai người là 3 năm. Nguyễn Ngọc Lan bị cấm không được ra khỏi phường (phường 6, quận 10), và luôn bị canh chừng theo dơi cách kín đáo.

 

(3) Ngày 2 và 9-3-1989.

 

(4) Trong lễ hạ huyệt, sau khi đă dự lễ an táng Thế Nguyên tại nhà thờ Bắc Hà.

 

(5) Nghĩa là liệng cống, quẳng xuống cống rănh, một kiểu nói lái rất thịnh hành, nhất là trong câu “lộng kiếng ảnh bác Hồ”.

 

(6) Ngày 25 tháng 8 năm 1988 NNL đến nhà cựu dân biểu Nguyễn Lư Tưởng dùng cơm cùng với nhạc sĩ Vũ Thành An và hai Linh

Mục Phan Phát Huồn, Chân Tín. Khi đă về nhà và đang nói chuyện với Linh Mục Chân Tín th́ Nguyễn Văn Trấn đến gơ cửa.

 

(7) Đài Quốc Tế Pháp (Radio France Internationale).

 

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính