Nhật ký 29 ngày vượt biển
Lê Minh
Gia đình tôi đông anh em và nghèo lắm! Muốn gom đủ 3 lượng vàng để lo
cho một người vượt biển không phải là dễ. May sao nhờ nhà ở mé sông, nên
có người tổ chức vượt biên họ cho tôi đi không với điều kiện ba mẹ tôi
phải chứa chấp 8 người mà họ dắt mối từ Sài Gòn về chờ ngày ra tàu.
Công việc nầy cũng rất nguy hiểm, lỡ mà công an biết được là đi tù cải
tạo. Nhà nội tôi kế bên nhà tôi nên ba má tôi gởi bên nội 6 người còn
nhà tôi chỉ chứa 2 người. Người tổ chức sắp xếp là đến ngày đi họ sẽ có
thuyền nhỏ đậu dưới bến sông nhà nội tôi để đưa người ra tàu lớn đã đậu
sẵn ngoài khơi.
Vào một đêm 30 tối đen như đêm cả miền Nam lọt vào tay Cộng sản, một
chiếc thuyền đánh cá nhỏ trên thuyền phủ đầy lưới tấp vào bờ sau hè nhà
nội tôi, họ nói phải chuyển người thật nhanh, "cá lớn" - có nghĩa là tầu
lớn- đang đợi.
Tiếng xì xào to nhỏ làm nội tôi tuy đã già, 2 mắt đã mờ cũng giật mình
thức giấc, ông hỏi:
-Thằng Minh đâu rồi?
- Dạ con nè nội!
Trong bóng đêm, ông mò mẫm lấy tay rờ đầu tôi rồi nói nhỏ:
- Con ra đi lần nầy là chắc ông cháu mình sẽ không còn có dịp gặp nhau
nữa đâu! Nơi đất khách quê người con ráng lo học hành và tự lo cho bản
thân mình.
Ông nhét vào tay tôi 2 miếng gì hơi mỏng và cứng, rồi như không nén nổi
sự xúc động, ông bỏ đi vào trong phòng. Sau đó tôi mới biết là ông đã
gói ghém cho tôi 2 chỉ vàng, là gia tài dành dưỡng già của ông để tôi
phòng thân.
Khi tôi ngồi viết bài nầy nhớ đến nội đã ra đi vĩnh viễn mà không có dịp
nhìn mặt ông lần cuối cùng mà nước mắt tôi tuôn tràn.
Ngày Đầu Tiên: qua trạm biên phòng
Sau khi 9 người chúng tôi đều xuống khoang thuyền, người đưa khách lấy
lưới phủ lên trên người chúng tôi để ngụy trang như là một ngư phủ sửa
soạn ra khơi đánh cá.
Nằm dưới đống lưới cá còn ướt đẫm mùi tanh của cá, mùi nước biển, hơi
thở khó khăn làm tôi muốn ói nhiều lần.
Gần tới trạm công an biên phòng, người đưa khách nói:
- Các anh chị ráng giữ bình tĩnh, đừng nhúc nhích và nói gì hết! Qua
khỏi trạm nầy là kể như đã đi được nửa đường.
Chiếc thuyền bớt máy, chậm lại rồi ngừng hẳn. Tôi nghe có người nói:
- Giờ nầy còn đi đâu đó?
- Đi làm mẻ lưới sáng chớ anh! Nước triều đang lớn hy vọng sẽ trúng
mánh.
- Có chở gì khác không?
- Trời! Anh biết tôi ngày nào cũng ra khơi đánh cá mà, đâu có chở gì!
Anh muốn xuống coi không? Thôi lấy vài tờ uống cà phê nghe! bữa nay
trúng lưới, mai về bọn mình nhậu cho đã.
- Thôi, đi di!
Tiếng máy nổ và thuyền lại rời bến. Người đưa khách cất tiếng:
- Chúc mừng các anh chị đã qua khỏi cửa biên phòng. Bây giờ có thể bỏ
lưới qua một bên cho dễ thở.
Tôi tung lưới ra, ngước mặt nhìn về những dãy dừa xanh, những cây mắm
mọc sát bờ biển và xa xa những mái nhà nhỏ của xóm ngư phủ... Đó là hình
ảnh que để hình dung mảnh đất quê hương lần cuối cùng trước khi đi không
hẹn ngày trở về.
Ngày Thứ 2: đem trứng cho ác
Chiếc thuyền nhỏ ra khơi trong cơn mưa phùn đầu tháng Mười. Quần áo ướt
át, thêm gió biển rồi từng đợt sóng biển đánh vào khoang thuyền làm tôi
lạnh run người.
Thuyền chạy gần 1 tiếng thì tôi nhìn thấy xa xa có một chiếc tàu khá lớn
đang đậu gần một hòn đảo nhỏ, hình như là Hòn Tre thì phải.
Người đưa khách cho thuyền cặp vào chiếc tàu nầy rồi ra lệnh:
- Các anh chị leo lên tàu nầy. Lẹ lên!
Chiếc tàu cao quá so với thuyền nhỏ và những đợt sống làm lắc lư con
tàu, khiến tôi nhảy mấy lần mà cũng chưa lên được. Cả hai chân bị rớm
máu vì bị cắt bởi những con hà đóng quanh thành tàu.
Rốt cuộc thì tất cả đều lên được tàu. Người đưa khách vẫy tay chào chúng
tôi rồi quay thuyền chạy thẳng về đất liền.
Trên tàu đã có một số người đến trước. Họ nói phải chờ cho đủ số người
và tài công ra rồi mới bắt đầu cuộc hành trình. Vậy là tiếp tục chờ đợi,
căng thẳng. Thuyền nhỏ cứ lâu lâu lại chở thêm 9- 10 người lên tàu. Gần
chật cả khoang dưới lẫn trên boong tàu mà sao vẫn chưa thấy người chủ
tàu, tài công hoặc người tổ chức?
Trời gần sáng thì có một chiếc thuyền nhỏ chở chủ tàu, tài công và người
tổ chức. Họ lên tàu, tiền trao cháo múc, thanh toán tiền mua tàu còn lại
bằng những thỏi vàng óng ánh, nói vài lời chúc may mắn đến chúng tôi rồi
trở về thuyền đi về, chỉ để lại người tài công.
Chiếc tàu với sức chứa 70 người giờ đây đã có tất cả là 139 người. Coi
lại lương thực thì trời ơi! Chỉ có một khạp nước với một khạp gạo. Làm
sao có thể đỡ cảnh đói khát cho suốt cuộc hành trình vượt biển?
Trên tầu có nhiều người chửi rủa là "đem trứng cho ác, lấy vàng của
người ta rồi tổ chức như vậy đó!" Nhưng chửi rủa gì cũng đã muộn rồi,
chỉ còn quyết định là có nên tiếp tục đi hay là quay trở lại để chịu
cảnh tù đày!
Cuối cùng tất cả đành quyết định ra đi, hy vọng khi ra được hải phận
quốc tế sẽ có tàu buôn hoặc chiến hạm của Mỹ cứu vớt.
Ngày Thứ 3: tài công không biết lái tàu
Người tài công nổ máy tàu và lây quây với chiếc hải bàn. Ông tự giới
thiệu là đại úy Hải Quân VNCH, cùng đi với người bạn gái. Thấy ông lây
quây mãi với cái hải bàn, có người hỏi:
- Sao không bắt đầu chạy đi mà ở đó coi cái gì vậy?
- Nói thiệt nghe! Tôi đi hải quân nhưng hồi đó đâu có lái tàu, làm sao
biết đường nào đến Thailand!
- Trời đất! Dzậy sao ông nhận làm tài công cho tàu?
- Thì phải nói là tài công họ mới cho đi không lấy tiền! Bây giờ tôi
cũng không biết tọa độ nào để lái tàu đến bờ biển Thailand!
Cả tàu xôn xao. Thiệt là đem con bỏ chợ mà! Tính sao bây giờ?
- Để tôi lái cho!
Từ phía sau mũi tàu có anh thanh niên vóc dáng vạm vỡ, nước da ngâm đen
lên tiếng và đi lại buồng lái.
- Có gì khó đâu! Tôi nghe người ta nói cứ giữ hải bàn ở tọa độ 260 là sẽ
đến hải phận quốc tế và đến Thailand.
Cả tàu thở ra. Anh thanh niên cho máy nổ rồi cầm tay lái cứ hướng 260 độ
mà cho tàu chạy! Con tàu băng băng. Mặt trời đã lên cao rọi những tia
màu đỏ nhạt trên mặt nước biển.
Ngày Thứ 4: máy chết, tàu lủng
Con tàu chật ních người vẫn lướt trên biển cả mà chưa thấy bờ bến. Cơn
nóng biển VN hòa lẫn với hơi người ngột ngạt. Bắt đầu đói khát lả người.
Người ta nấu một nồi cơm lớn rồi chia phần cho mỗi người một muỗng cơm
trắng với chút nước lã đo lường bằng cái nắp can để cầm cự, hy vọng sớm
ra được hải phận quốc tế.
Trời về chiều, ở cuối chân trời hiện lên một vầng mây đen như báo trước
bão tố sẽ chụp lấy con tàu nhỏ bé. Biển mênh mông không bờ bến, biết đâu
là hải phận quốc tế, đâu là bờ biển Việt Nam?
Mọi người chợt hướng mắt nhìn về phía trước, một chiếc tàu buôn ngoại
quốc đang chạy song song cách thuyền rất xa. Gương mặt mọi người đều
hiện lên vẻ mừng! Chỉ trong hải phận quốc tế mới có tàu buôn ngoại quốc
thôi! Nhiều người cởi áo trắng ra vẫy vẫy làm dấu SOS với hy vọng chiếc
tàu kia sẽ thấy mà quay lại cứu giúp. Tất cả dán mắt theo dõi nhưng cái
tàu buôn vẫn làm ngơ.
Có người đề nghị đục tàu cho chìm để họ thấy emergency thì bắt buộc phải
vớt.
Một số người đồng ý, phần còn lại thì không. Rủi họ không thấy thiệt thì
chết cả đám. Thôi thì hy vọng có chiến hạm Mỹ hay gặp dàn khoan dầu là
hay nhất!
Trời đã về đêm, gió bắt đầu đẩy những ngọn sóng bạc đầu thật lớn đánh
vào thành tàu. Cơn mưa lớn chợt nổi lên. Con tàu của chúng tôi như nhào
lộn trong lòng biển, lúc thì sóng đưa lên thật cao, lúc thì như chìm vào
biển cả.
Cạch... cạch... cạch...Tiếng máy tàu nổ thêm 3 tiếng rồi tắt hẳn!
- Chết rồi! Tàu phá nước ngập cả máy rồi, bà con ơi xúm lại tát nước!
- Trời ơi! Vậy là chắc chết hết!
Tôi nghe tiếng khóc la hòa lẫn tiếng cầu kinh, niệm Phật cộng với tiếng
gió rú mưa rơi giữa biển khơi mịt mù đen tối!
Đời người chỉ chết một lần! Tôi nhủ mình hãy cố bình thản trước cái chết
gần kề. Đọc xong kinh ăn năn tội thấy mình không sợ cái chết nữa, dù
thấy nó sẽ xảy đến trong giây lát. Trong số 139 người trên tàu, có những
cụ già từng trải, những thanh thiếu nữ tương lai đầy hứa hẹn và những
mái đầu xanh vô tội chưa từng nếm mùi đời. Tất cả đã đem sinh mạng mình
ra để đánh đổi 2 chữ "Tự Do".
Ngày thứ 5: kề cái chết, thấy lòng người
Đêm giông bão tưởng như dài vô tận. Quá nửa khuya, đã sang ngày Thứ 5
nhưng trời vẫn chưa rạng. Con tàu nhỏ bé bắt đầu từ từ chìm xuống lòng
đại dương.
- Trời ơi! Tàu sắp chìm rồi, thẩy bớt đồ trên tàu cho nhẹ bớt đi! Ai
biết bơi lội thì nhảy xuống biển giùm!
Chúng tôi thẩy bỏ tất cả những gì có thể thẩy. Mấy cái can chứa đầy dầu,
máy tàu không còn chạy nữa thì để nó làm gì! Chúng tôi đổ bỏ hết dầu rồi
cắt thùng ra làm đôi để làm thùng tát nước. Nhiều người nhảy xuống biển,
nhưng đêm tối mịt mù, không thấy bờ bến biết bơi về đâu! Đành vịn vào
thành tàu cho khỏi chết chìm.
- Kiếm được chỗ bể rồi bà con ơi! Cởi áo ra! Cởi áo ra để tôi nhét chỗ
bể lại.
May mắn làm sao có một anh nhảy xuống biển, tay vịn vào thành tàu, cái
chân chòi chòi lại thọt ngay chỗ bể mới la lên!
Mọi người giành nhau cởi áo đưa cho anh ta rồi xúm lại tát nước với hy
vọng nhỏ bé là tàu đừng có chìm. Có anh chàng thanh niên quá hăng say
tát nước, anh tát quá nhanh, hết sức mình đến nỗi ngã xỉu bên thành tàu
mà 2 tay vẫn còn đưa ra như muốn tát thêm một thùng nữa.
Có những cụ già, em bé lấy hai tay bụm từng bụm nước cố đem ra khỏi tàu
nhưng khi đem ra khỏi tàu thì không còn được bao nhiêu!
Chúng tôi tát nước suốt đêm hôm đó dưới cơn mưa gió bão bùng. Tay chân
bị vọp bẻ vì lạnh cóng nhưng vẫn cố gắng hết mình.
Có cận kề cái chết mới thấy được lòng người! Chúng tôi là dân tứ xứ
không hề quen biết nhau, giờ đây cùng chung chiếc thuyền định mệnh. Tất
cả đều coi như anh em ruột thịt trong nhà, tất cả đều tận lực không phân
bì ai làm nhiều làm ít!
Sau cơn mưa trời bắt đầu rạng dần! Ở cuối chân trời vầng hồng thái dương
chiếu sáng, biển lặng như tờ. Chúng tôi vẫn tát nước, con tàu càng lúc
càng nổi lên và trôi theo dòng nước biển. Trôi về đâu... đành phó mặc
cho số trời!
Ngày Thứ 6: hải tặc đợt một
Con tàu nhỏ cứ trôi lững lờ trên biển vắng. Trời đã vào trưa. Cơn nóng
biển, sự mệt nhọc tát nước suốt đêm và cơn đói khát hoành hành làm cho
mọi người rã rời!
Trên tàu có khoảng 60 người là thanh niên trai tráng, phần còn lại là
phụ nữ, trẻ em và người già. Chúng tôi bàn nhau chia những thanh niên
thành 20 tổ, mỗi tổ 3 người để thay phiên nhau tát nước 24/24 hầu những
người khác có thì giờ nghỉ ngơi.
Nguyên cả ngày không thấy bóng một chiếc tàu lạ nào và cũng không biết
tàu của mình đã trôi về đâu!
Trời đã gần chiều, hoàng hôn từ từ lặn ở phía chân trời xa!
Một chấm đen hiện trên biển xa càng lúc càng lớn dần, mọi người đều mừng
rỡ:
- Có tàu đến gần, được cứu rồi!
Một chiếc tàu đánh cá Thailand cặp vào tàu tôi. Hai ngư phủ Thailand
nhảy qua dùng dây cột tàu chúng tôi tôi vào tàu họ rồi kéo đi!
Đâu có ai biết nói tiếng Thái. Chúng tôi chỉ xí xô, xí xào... Thailand,
Thailand rồi ra tay làm dấu ý nói là muốn đi Thailand.
Hai người ngư phủ Thái không nói một lời nào. Chúng tôi bàn với nhau ai
có tiền bạc, vàng vòng gì thì bỏ ra chút ít để gom góp lại đưa cho họ
nhờ họ kéo đi Thailand.
Chết đi sống lại thì ai đâu còn để ý chút ít tiền bạc làm gì! Chúng tôi
gom góp được khá nhiều đồng hồ, vàng bạc để vào cái nón rồi đưa cho 2
ngư phủ Thái. Họ cầm lấy rồi nói tiếng Thái với mấy người của họ còn ở
trên tàu.
Tàu của họ kéo tàu của chúng tôi được đâu hơn 2 tiếng thì dừng hẳn, cặp
sát vào tàu của chúng tôi, họ lấy dây cột tàu lại rồi nhảy qua thêm 5
người nữa. Trên tay có 2 người có súng, họ lụt xét từng người để tìm
vàng bạc, nữ trang.
Trời ơi! Chúng tôi gặp hải tặc mà ngỡ là người ơn!
Sau khi lục xét và gom thêm được chút vàng bạc, họ nhảy qua tàu của họ
và thẩy sang mấy gói mì khô rồi chặt dây chạy mất tiêu. Trước khi đi
chúng tôi có nghe là có thể gặp hải tặc, nhưng đâu có ngờ họ là dân đánh
cá chuyên nghiệp và cũng là hải tặc!
Thôi cũng là một kinh nghiệm cho những ngày kế tiếp...
Ngày Thứ 7: tang lễ giữa biển
Đêm mùng 7 tháng 9 âm lịch, biển lặng như tờ! Bầu trời đầy sao, xa xa
ánh trăng lưỡi liềm chiếu ánh sáng mờ ảo xuống khoang tàu.
Mọi người đang nằm sắp lớp, thiêm thiếp trong cơn nóng và đói khát cả
ngày trời. Cảnh vật im lìm chỉ còn nghe tiếng xào xạc tát nước của 3
người thanh niên đến phiên trực.
Giờ nầy chắc ba mẹ tôi lo lắng lắm rồi! Người ta đi chỉ có 4- 5 ngày là
có điện tín báo tin, còn tôi đã 7 ngày rồi mà vẫn nằm đây, trên chiếc
tàu định mệnh không biết sống chết lúc nào! Mệt mỏi vì đói khát tôi gần
thiếp đi trong giấc ngủ thì bổng nghe tiếng la thất thanh:
- Trời ơi! Con gái tôi chết rồi! Con ơi sao nở bỏ mẹ mà ra đi!
Mọi người đều giật mình mắt hướng về tiếng la. Một người đàn bà đang ôm
đứa con gái 8 tuổi mà nước mắt lưng tròng.
Chúng tôi xúm lại xem coi còn có thể cứu chữa em bé không!
Hai môi em bé đã nứt nẻ chảy máu và đã chết cứng tự lúc nào! Mọi người
dùng lời an ủi người mẹ và đề nghị: Con tàu không biết đến bao giờ cặp
bến, chắc là không thể đem được em lên bờ để mà chôn cất. Thôi thì lấy
đại dương làm nơi em yên nghỉ cuối cùng.
Tang lễ cho em bé diễn ra theo nghi thức của 2 tôn giáo. Không nhang,
không đèn. Giữa biển khơi mịt mù tăm tối tiếng tụng kinh bằng Phạn ngữ
của một vị sư đi cùng tàu sao thấy quá xót xa! Rồi bài kinh Vực Sâu
thánh thót vang lên giữa tiếng khóc nức nở "Từ vực sâu u tối con cầu xin
chúa, chúa ơi!....".
Một người thanh niên cởi chiếc áo khoác cuối cùng quấn vào thi thể em bé
như muốn cho em thêm chút hơi ấm dưới lòng đại dương. Chúng tôi thả thi
hài em xuống biển, em nổi lên trôi lẩn quẩn bên thành tàu mấy phút như
còn luyến tiếc những mối tình thâm, rồi chìm sâu vào lòng biển cả.
Em bé ơi! Nếu linh hồn em có linh thiêng xin hãy theo che chở cho chúng
tôi, những người còn lại trên con tàu khốn khổ....
Ngày Thứ 8: cầu mưa
Tàu vẫn trôi bềnh bồng trên sóng biển. Đã mấy ngày không có giọt nước
thấm giọng. Ở cuối chân trời vầng mây đen càng lúc càng lan rộng, cơn
sóng biển càng lúc càng to báo hiệu thêm một cơn mưa. Nghĩ càng đau
lòng. Người ta đi biển chỉ cầu mong biển lặng sóng yên. Còn chúng tôi
trên tàu thì đang cầu có mưa. Mưa bão có thể làm chìm con tàu nhỏ bé,
nhưng trước hết, có mưa mọi người thấy mình đỡ chết khát.
Mây đen phủ kín trời, con tàu nhấp nhô trên những đợt sóng bạc đầu khổng
lồ. Rồi những giọt mưa nặng trĩu trút xuống khoang tàu. Tất cả há miệng
ra để hứng từng giọt nước trời cho. Có người còn lo xa hơn, lấy những
cái can đựng dầu mà chúng tôi cắt ra để hứng nước mưa phòng bị cho những
ngày sắp tới.
Cơn lo chết khát đã qua đi! Cơn lạnh của đám mưa ướt đẫm cả người làm
cho cơn đói càng thêm dữ dội hơn!
Tôi thấy có người cạo rong xanh đóng vào thành tàu đưa vào miệng để ăn.
- Cái nầy có bổ dưỡng gì đâu mà ăn!
- Nó không bổ dưỡng nhưng để cho bao tử mình có cái gì làm việc. Đến khi
được cứu, ăn đồ ăn vào sẽ không bị đứt ruột mà chết!
Nghe cũng có lý! Mọi người xúm lại cạo những vệt rong biển để ăn lót dạ.
Chiếc tàu đóng đầy rêu xanh chỉ lát sau đã được mọi người cạo sạch như
lau. Cơn đói cơn khát lại tiếp tục dầy vò, không biết đến bao giờ...
Ngày thứ 9-11: Ba ngày đêm bị hải tặc
Đây là ba ngày đen tối nhất trong hành trình vượt biển của chúng tôi!
Ngày thứ 9: Thêm một tàu hải tặc xuất hiện.
Hải tặc thay phiên nhau cướp bóc, hãm hiếp. Tôi không biết lấy lời gì để
kể!
Sang ngày thứ 10. Cùng vậy!
Đoàn người trên tàu hoàn toàn kiệt lực rồi!
Hải tặc muốn làm gì thì làm!
Thêm ngày Thứ 11: Tôi chịu hết nổi!
Nhìn những em gái 14 - 15 tuổi quằn quại dưới bàn tay đen đúa của đám
hải tặc Thailand. Những người vợ trẻ cặp mắt đau đớn nhìn chồng, và
những người chồng ngoảnh mặt nhìn nơi khác mà đôi mắt lưng tròng!
Tôi muốn lén đục bể chiếc tàu để cho mọi người cùng chìm sâu dưới lòng
biển, để khỏi nhìn cảnh xót xa nầy! Nhưng mạng sống của hơn một trăm
người còn lại, không cho phép tôi làm chuyện nầy!
Trời ơi! Chết không ra chết! Sống không ra sống! Biết bao lâu nữa chúng
tôi mới tìm được bến bờ?
Ngày Thứ 12: Con rắn biển
Biển sao yên lặng quá! Không một bóng tàu. Lòng người thật mâu thuẫn.
Cơn hãi hùng vì hải tặc cướp bóc, hãm hiếp mới đó, vậy mà bây giờ lại
trông cho có bóng tàu.
Thấy tàu Thailand thì chúng tôi sợ, không thấy gì hết thì chúng tôi lo.
Lo là không biết con tàu đã trôi vạt về đâu! Lỡ mà trôi ngược về hải
phận VN thì thôi thà chịu cảnh cướp bóc, hãm hiếp trên biển Thái còn đỡ
khổ và có chút hy vọng về tương lai hơn.
Mấy giọt nước mưa hứng từ cơn mưa bão mấy hôm trước giờ cũng đã cạn khô.
Chúng tôi đã ăn tất cả những gì có thể ăn được, những rong rêu trôi lềnh
bềnh cạnh tàu, mấy con sứa biển sống mặn đắng hôi tanh.
Có con rắn biển bằng ngón chân cái lội ngoằn nguèo cạnh thành tàu. Một
anh thanh niên nhảy ùm xuống biển, nắm đuôi đập đầu rắn vào thành tàu
rồi ngắt bỏ đầu ăn sống không chừa một giọt máu.
Trời đất! Nó là con đèn cườm rất độc, nó mà cắn thì cho dù có ở trên đất
liền cũng chưa chắc gì có thuốc chữa huống chi trên chiếc tàu lênh đênh
trôi vạt như vầy!
Tôi nghe kể là trước đây có chuyến tàu lạc trên biển lâu ngày, quá đói
khát, có người đã ăn thịt người chết để mà cầm hơi.
Lạy trời! Đừng để con tàu của chúng con lâm vào cảnh nầy.
Có con cá nút nhớt to hơn bắp chuối chân đang lội quanh quẩn chiếc tàu
để nút chất dơ. Kiếm được một lưỡi câu sét và sợi dây gân ở dưới hầm
tàu, tôi tớm lưỡi câu rồi lấy cái đầu rắn biển của anh thanh niên bỏ móc
vào hy vọng sẽ câu được con cá.
Cá ơi! Làm ơn cắn mồi. Cắn mồi mầy sẽ chết, nhưng chúng tôi sẽ có thêm
chút sự sống để chờ đợi phép la!
Con cá nhào lại táp mồi, dính câu! Mọi người la lên:
- Hay quá!
- Để em làm cá rồi lượt lên chia cho mọi người nghe!
Trời ơi! Con cá có bao lớn làm sao chia đủ cho 138 người?
Tôi nghĩ không còn bao lâu nữa mọi người sẽ ngã gục vì đói khát trên con
tàu vô phước nầy rồi!
Ngày Thứ 13:Lại tàu Thái nữa
Nhiều người đã lả vì đói nằm sắp lớp trên khoang tàu!
Đêm về, gió mát và sương đêm làm cho mọi người cảm thấy đỡ hơn lúc ban
ngày.
Từ đàng xa một chiếc tàu đánh cá Thái đèn đuốc sáng trưng cặp vào. Trên
tàu đầy tôm cá còn nhảy tung tăng vì mới đổ một mẻ lưới cào. Hai người
ngư phủ nhảy sang tàu và cột tàu của chúng tôi vào tàu họ!
Thôi rồi! Lại bị cướp bóc hãm hiếp nữa! Nhiều người đói quá nhẩy sang
tàu Thailand quơ những con tôm, con mực còn sống mà ăn. Đói quá rồi! Ăn
trước cái đã rồi muốn sao thì sao.
Đùng! Đùng! Đùng!
Ba tiếng súng nổ vang trời. Một anh thanh niên vừa đứng lên định nhẩy
lên tàu Thái chợt ngã sấp xuống vĩnh biệt cõi đời!
Trời! Ăn có mấy con tôm cá sống mà nỡ bắn chết người sao?
Mọi người chết lặng không dám nhúc nhích.
Người thuyền trưởng một tay cầm cây súng shot gun bắn chỉ thiên, một tay
ra dấu đừng có ăn mấy thứ đó và dùng tiếng Phổ Thông nói với mọi người
hãy trở về tàu mình, ông đã kêu ngư phủ nấu cơm, chiên cá chút nữa sẽ
phân phát cho tất cả mọi người!
Chúng tôi thiệt là hồ đồ: Kẻ cướp trước đây thì ngỡ là người ơn, kẻ làm
ơn thì chút nữa đã đổ oan cho họ là kẻ cướp.
Chúng tôi trở về tàu của mình. Anh thanh niên chắc vì quá đói khát, sức
lực chỉ còn đủ để đứng lên rồi ngã quỵ hoặc là quá sợ hãi vì tiếng súng
rồi đứng tim mà chết!
Lại phải cử hành lễ an táng cho anh ta dưới lòng đại dương, nhưng lần
nầy anh có được chút may mắn hơn em gái nhỏ đã ra đi là vì có người
thuyền trưởng Thái tốt bụng thắp cho ba nén hương tàn!
Ngày thứ 14: Vị thuyền trưởng Thái
Bất cứ dân tộc nào cũng vậy! Có người tốt, người xấu, kẻ dữ, người hiền.
Vị thuyền trưởng người Thái gốc Hoa sau khi kêu đám ngư phủ phân phát
cơm nước cho chúng tôi ông ngồi nói chuyện, kể lại là trước đây có lần
ông đi đánh cá tàu bị hỏng trôi dạt vào hải phận Việt Nam, được những
người lính Hải Quân VNCH giúp đỡ kéo tàu về đảo Phú Quốc để sửa dùm máy
móc sau đó mới chỉ hướng cho ông ta lái tàu về hải phận Thailand. Ông ta
nói từ đó lòng ông rất cảm động và biết ơn.
Sau khi nghe tin miền Nam VN thất thủ và có nhiều thuyền nhân vượt biển
tìm tự do, tàu của ông thường luôn chuẩn bị thêm gạo, nước để có dịp gặp
thuyền nhân là ông tiếp tế!
Ông không thể nào vớt người vượt biển được vì chính phủ Thailand có lệnh
cấm nếu ông làm trái lệnh sẽ bị đi tù, nhưng ông có thể đợi đến gần sáng
sẽ kéo tàu của chúng tôi vào vùng biển có nhiều tàu đánh cá qua lại hơn,
hy vọng sẽ có những người ngư dân tốt bụng khác giúp đỡ hoặc là gặp tàu
buôn, chiến hạm cứu giúp!
Nghe ông nói trong lòng chúng tôi gợi lên chút ánh sáng hy vọng...
Người ngư phủ lấy giây cột mũi tàu của chúng tôi vào sau lái tàu đánh cá
của họ. Vị thuyền trưởng mở máy chạy rồi kéo đi từ từ, ông không dám
chạy nhanh vì thấy chiếc tàu của chúng tôi đã quá cũ kĩ và đang rỉ nước.
Kéo nhanh lỡ nó chịu không nổi, phá nước thì nguy!
Đúng 10 ngày con tàu của tôi mới được rẽ sóng biển mà lướt đi mặc dù nó
phải nhờ chiếc tàu khác kéo giúp!
Nhìn con tàu rẽ sóng lướt đi mà lòng tôi chợt nao nao! Không biết lần
nầy nó có rẽ đúng hướng để đi về một nơi có chút niềm hy vọng hay là lại
đưa chúng tôi vào cảnh khốn cùng như những ngày đã qua!
Kéo cả ngày trời, đến khi trời sắp tối vị thuyền trưởng mới ngừng lại
tại một vùng biển mà ông cho là sẽ có nhiều tàu đánh cá hơn. Ông kêu 2
ngư phủ đem qua tàu của chúng tôi một thau lớn cơm nếp, cá muối chiên,
một cái phi bằng plastic đổ nước đầy, một bao gạo 50 lbs.
Có người quá cảm động với tấm lòng tốt của ông, moi móc trong cái nón nỉ
tờ $100.00 USD, số tiền mà cho dù đám cướp biển ghìm dao, chĩa súng
trước đây ông cũng không chịu đem ra mà đưa cho vị thuyền trưởng để tỏ
lòng cám ơn. Ông không chịu lấy và nói là "ráng cất giữ nó đi, nếu may
mắn được đến bến bờ của trại tỵ nạn thì số tiền đó cũng rất cần cho đời
sống của người tha hương "!
Trước khi từ giã, ông còn không quên đưa cho mấy cái diêm quẹt, nói lời
chúc may mắn rồi mới tháo dây tiếp tục cho chuyến đánh lưới tôm cá ngoài
biển khơi.
Bên cạnh những hải tặc Thailand độc ác không có tánh người cũng còn có
những người ngư phủ, hiền hòa chất phác thi ân không cần đền đáp.
Đêm hôm đó chúng tôi ngủ rất ngon với niềm hy vọng là mình sẽ gặp được
nhiều ngư phủ giống như vị thuyền trưởng mới quen và chắc cũng không bao
giờ có dịp gặp lại lần thứ 2!
Ngày Thứ 15-23: bềnh bồng không người lái
Xin rút ngắn chuyện trong những ngày nầy vì bài đã quá dài! Dài như cuộc
hành trình gian khổ của những người mất nước đi tìm tự do.
Con tàu không người lái chở sinh mạng của 137 người còn lại vẫn trôi
bềnh bồng trên sống biển. Mặc dù chúng tôi có thêm được chút nước và gạo
nhưng cũng không dám ăn uống nhiều vì không biết đến bao giờ mới được
cứu giúp.
Thỉnh thoảng cũng thấy có một hai chiếc tàu đánh cá ghé ngang đưa mắt
nhìn, có tàu đưa qua một thau cơm, mấy gói mì khô, một can nước rồi bỏ
đi!
Có thêm chút thức ăn nước uống thì chúng tôi lại phải vất vả làm việc
hơn! Chỗ bể của con tàu giờ đây rỉ nước nhiều hơn, phải 6 người thay
phiên nhau tát nước suốt ngày đêm để cho mực nước trong tàu đừng dâng
cao.
Sự sống của chúng tôi sao chẳng khác gì những con kiến bám vào cành cây
trên dòng nước lũ, không biết sẽ bị dòng nước cuốn đi lúc nào?
Ngày Thứ 24: kéo tàu đi núp bão
Vùng biển thỉnh thoảng có tàu đánh cá Thái hôm nay sao vắng lặng như tờ?
Ở cuối chân trời mây đen che kín một vùng, lâu lâu một tia sét chớp sáng
hiện lên như báo trước một cơn bão khủng khiếp sắp xảy ra.
Các tàu đánh cá chắc đã nghe tin tức khí tượng báo bão nên đã trở về đất
liền hoặc là kiếm nơi ẩn núp. Chỉ còn con tàu vô định của chúng tôi giữa
đại dương mênh mông. Chúng tôi thừa biết là con tàu chắc chắn sẽ chìm
đắm trong cơn bão sắp tới nầy!
Từ đàng xa một chiếc tàu đánh cá Thái chạy thật nhanh đến bên tàu của
chúng tôi. Trên tàu chỉ có 2 người, một tài công và một ngư phủ. Người
ngư phủ nhảy sang tàu của chúng tôi, lấy 2 sợi dây thừng thật to cột
chặt vào mũi tàu rồi nói xì xào gấp rút với chúng tôi bằng tiếng Thái.
Cảm thấy chúng tôi không hiểu gì, anh móc trong túi áo ra miếng giấy và
vẽ vào đó một hòn đảo nhỏ nằm chơi vơi giữa biển khơi rồi ra dấu là họ
sẽ kéo dùm tàu của chúng tôi vào đó!
Anh nhảy sang tàu đánh cá, người tài công mở máy thật lớn kéo con tàu
của chúng tôi đi! Hai sợi dây thừng căng thẳng, chiếc tàu kêu lên răng
rắc, chỗ bể lòng tàu bị sức ép càng tràn nước vào nhiều hơn!
Chúng tôi xúm lại tát nước! Cơn mưa đã bắt đầu rơi hạt, gió thổi mạnh,
những đợt sóng biển càng lúc càng to làm lắc lư cả hai con tàu. Mạng
sống của 137 người như chỉ mành treo chuông. Chắc chắn con tàu sắp bể
tan từng mảnh.
Trong mưa bão, bỗng thấy hiện lên một khối to đen. Hòn đảo nho đây rồi.
Trong tàu chúng tôi nước càng dâng cao, sức người tát nước ta không kịp.
Người tài công cho máy nổ thật lớn lấy trớn đưa con tàu chúng tôi đến
gần đảo hơn, rồi chặt dây thừng quây tàu mình chạy ngược về đất liền.
Con tàu lảo đảo, nước tràn vào gần đầy, mọi người nhảy xuống biển. May
quá bờ biển chỉ sâu ngập chưa tới đầu người. Chúng tôi dìu dắt, ôm nhau
lội vào bờ. Con tàu vài phút sau đó thì an phận chôn sâu dưới lòng biển.
Người ngư phủ Thái vô danh ơi! Anh đã làm một việc thiện để rất nhiều ơn
đức cho con cháu sau nầy! Anh đã cứu một lần 137 mạng người trong cơn
thập tử nhứt sanh!
Chúng tôi ùa vào đảo tìm những hang đá, bụi cây để tránh cơn mưa như
thác lũ.
Gió rít nghe rợn người, ngoài khơi tiếng sóng vang rền.
Không biết ngày mai sẽ ra sao trên hòn đảo hoang không một bóng người
này. Cũng chưa ai trong chúng tôi biết đây chính là đảo Kra, một hòn đảo
hoang cách tỉnh Songkhla khoảng một ngày tàu. Hải tặc Thailand thường
dùng nơi nầy để tránh những cơn bão và lên đảo kiếm thuyền nhân lạc vào
để cướp bóc và thỏa mãn thú vui xác thịt, từ đó nó có thêm cái nichname
là Đảo Hải Tặc.
Do sự kể lại của các thuyền nhân đã đến nơi nầy trước đây nên Cao Ủy Tỵ
Nạn LHQ thường cho máy bay ra đảo nầy để tìm kiếm người vượt biển.
Con tàu của chúng tôi tới đảo vào những ngày mưa bão, sẽ phải gánh chịu
bao cảnh hãi hùng nữa rồi! Đâu có máy bay nào dám bay trong thời tiết
mưa bão cấp 5!
Ngày thứ 25: Đảo Hải Tặc
Sau một đêm chui rúc trong những hang đá, bụi cây mình mẩy ướt như chuột
lột, sáng hôm sau, dù cơn mưa vẫn như trút nước, chúng tôi vẫn đi ra
khỏi hang đá, bụi cây coi trên đảo có những thứ gì.
Ngay khi vừa nhìn ra biển thì trời ơi! 15 chiếc tàu hải tặc đang bỏ neo
song song với nhau! Hơn 30 chục tên hải tặc trên mình chỉ có chiếc quần
lót giắt dao găm, mã tấu lội vào bờ. Bộ muốn giết chết hết chúng tôi hay
sao? Sau 24 ngày đói khát chúng tôi chỉ còn da bọc xương, sức lực yếu
sùi chỉ cần xô nhẹ cũng đủ ngã rồi, đâu cần phải dùng dao búa!
Trong cơn mưa bão, bọn hải tặc tràn vào, bắt người đem đi chỗ khác cướp
bóc hãm hiếp.
Cho phép tôi đừng kể những cảnh hãi hùng nầy!
Đảo Hải Tặc, Ngày Thứ 2:
Cơn mưa bão quả nhiên dữ dội và kéo dài! Đã qua đến ngày thứ 2 rồi mà
mưa vẫn to, sóng vẫn lớn.
Đám hải tặc vẫn thay phiên nhau lội vào bờ bắt người đi vào những bụi
cây cướp bóc hãm hiếp!
Trốn trong hang đá bên cạnh tôi có đứa em gái chưa đầy 14 tuổi, thân
hình ốm nhom chỉ còn da bọc xương, vậy mà hải tặc cũng xóc nách lên đòi
đem đi. Tôi đưa tay cản lại, không phải là tôi muốn làm anh hùng rơm mà
ý của tôi là em còn nhỏ quá, ốm yếu đâu có sức lực gì, thôi tha cho em
bé đi!
Tên hải tặc tưởng tôi có ý chống đối, rút trên lưng quần lót ra chiếc mã
tấu, nhá nhá vào tôi làm tôi cũng hết hồn. Thôi thì... Tên hải tặc xóc
nách em bé, em giẫy giụa, la khóc! Rồi không hiểu sao hắn bỏ em xuống đi
tìm người khác!
Em bé trong hang đá xưa bây giờ chắc đã thành một người vợ, người mẹ.
Bao năm qua, tôi vẫn nhớ sự bất lực của mình và hằng cầu mong cho em
được hạnh phúc.
Đảo Hải Tặc, ngày Thứ 3: thêm 2 cô gái trẻ.
Những chiếc tàu hải tặc vẫn còn bỏ neo trên bờ biển! Cơn mưa bão vẫn
tiếp tục nên chúng nó không cần phải sợ là có máy bay LHQ bắt gặp nên
càng ra sức lộng hành!
Từ ngoài khơi một chiếc tàu hải tặc khác chạy vào thả neo rồi bỏ 2 cô
gái trẻ ôm phao lội vào bờ.
Hai cô nầy đã bị chiếc tàu hải tặc bắt đi cả tuần rồi! Bây giờ cũng
không biết chiếc tàu và những người trên tàu của hai cô ra sao?
Đâu phải chỉ có riêng con tàu vượt biển của chúng tôi là gặp cảnh khốn
đốn! Biết bao nhiêu ngàn người đã bỏ thây nơi biển cả mà không một ai
biết tới. Vậy là chuyến tàu của tôi trở thành con tàu không số KG139
(137 người còn sống sót trên tàu và 2 người bị hải tặc bắt đi rồi thả
vào đảo)!
Đảo Hải Tặc, ngày Thứ 4: máy bay!
Cơn giông bão đã qua. Mặt trời đã ló dạng ở chân trời. Ngoài bờ biển
không còn một bóng tàu hải tặc nào. Chắc họ biết là cơn bão đã qua sợ
máy bay LHQ nhìn thấy rồi chụp hình nên bỏ đi hết.
Chúng tôi kéo ra ngoài bờ biển để hít thở không khí trong lành của biển
sau bao ngày trốn chui, trốn nhủi trong hang đá!
Có người đói bụng quá thấy mấy cây đậu ma bẻ hạt ra ăn, trúng thực ói ra
mật xanh, không chết là may!
Đến trưa thì chúng tôi nghe có tiếng máy bay vòng quanh hòn đảo nhỏ. Mọi
người mừng rỡ chạy ra bờ biển, cởi áo ra quơ lên trên cốt ý cho viên phi
công thấy.
Chiếc máy bay đảo lại nhiều vòng rồi bay thật thấp như có ý nói là họ đã
thấy chúng tôi, rồi cất cánh bay cao về đất liền. Mọi người hân hoan tay
bắt mặt mừng. Cái giá quá đắt của 2 chữ Tự Do của chúng tôi sắp sửa được
đền bù!
Ngày Cuối Cùng: Chết sau khi có ăn.
Trời hừng sáng là chúng tôi đã thấy một chiến hạm thật lớn của hải quân
Thailand do Cao Ủy Tỵ Nạn mướn đậu ở ngoài khơi! Họ thả hai chiếc ca nô
xuống rồi chạy vào đảo nhỏ. Từng người dìu nhau ra ca nô mỗi lần 10
người, phụ nữ, trẻ em đi trước, sau đó thì mới tới đàn ông, thanh niên.
Trên tàu họ đã nấu cháo thật nhừ với cá muối chiên phân phát cho mỗi
người chúng tôi. Họ biết chúng tôi đói khát lắm rồi nên không dám cho ăn
nhiều chỉ phát cho mỗi người một chén cháo lỏng và nửa ly nước cam, bảo
là nên ăn từ từ cho bao tử quen với cơn đói nhiều ngày.
Thật không may mắn cho một anh thanh niên, ăn uống xong anh ta ngã ra
nằm thở hổn hển mặt mày nổi đen rồi trút hơi thở sau cùng!
Anh bạn ơi! 29 ngày gian nan, đói khát trên biển cả anh vẫn chịu đựng
nổi, sao chỉ còn vài giờ để nhìn thấy bến bờ tự do thì anh lại vội bỏ ra
đi!
Người thủy thủ lấy tấm vải trắng che thân thể anh ta mà nước mắt lưng
tròng!
Xa xa những hàng dừa xanh, những căn nhà hiện lên lờ mờ của bến cảng
tỉnh Songkhla!
Từ đây, chúng tôi biết mình đã sống lại, như sang một kiếp khác.
*
Nhiều năm đã qua.
Những người sống sót trên con tàu mỏng manh năm xưa không biết nay ra
sao.
Tại vùng Little Saigon, có lần trong một trong ngôi chợ VN rồi sau đó
trong Home Depot , tôi được thấy lại một bóng hồng quen, đó là cô bạn
gái của chàng Trung Uý Hải Quân đóng vai tài công trong chuyến tầu năm
xưa. Nhớ lại 29 ngày đêm cùng chung một con tàu đầy sóng gió, khi gặp
lại cô tôi có mở lời chào nhưng rồi cả hai lần đều cảm thấy cô nhìn đi
chỗ khác, không còn nhớ hoặc không còn muốn nhớ.
Biết bao khổ nhục. Quên đi là phải. Gợi lại làm gì. Tôi biết vậy mà vẫn
viết lại những trang nhật ký này để tưởng nhớ đến 138 người bạn đã cùng
tôi 29 ngày đêm lênh đênh trên biển cả, những người bạn đã may mắn đến
được bến bờ tự do, và những người bạn đã gởi nắm xương tàn dưới lòng đại
dương!
Lê Minh