Năm Ngọ, nói chuyện ngựa
Kha Lăng Đa
Năm nay là năm Ngọ, tức năm con ngựa. Ngọ là con Giáp thứ 7 trong 12 con
Giáp, kết hợp với chữ Giáp đứng đầu 10 Thiên Can thành năm Giáp Ngọ.
SINH HỌC TỔNG QUÁT VỀ NGỰA
Ngựa được nuôi bởi con người, được nhận dạng, phân loại bởi h́nh dáng và
màu lông. Tầm vóc ngựa đua cao khoảng 14 tới 16 gang tay, nặng từ 400 tới
500 kg. Ngựa nhỏ nhất là ngựa Falbella cao khoảng 48 cm (19 inches) hoặc
thấp hơn 5 gang tay và chỉ nặng 14 kg (30 pounds). Ngựa to nhất là ngựa
Belgian cao 1 met 8 (6 feet) hoặc 18 gang tay, nặng 1.450 kg.
Ngựa có lông, bờm và đuôi dài. Lông ngựa mọc dày vào mùa Đông và rụng vào
mùa Xuân. Những màu lông ngựa là đen, nâu, xám, màu kem, vàng và trắng.
Bờm và đuôi ngựa có thể khác màu với màu lông ngựa. Mắt ngựa to nhứt trong
loài động vật và lồi nên ngựa nh́n thấy xuyên suốt từ trước ra đàng sau.
Ngựa có thể nh́n ban đêm thật rơ. Ngựa có sự khó khăn về nhận thức màu
sắc. Nó phân biệt được màu đỏ và màu xanh nhưng không phân biệt được màu
xanh dương và bóng xám.
Ngựa có hàm răng mạnh khoẻ. Ngựa đực thường có 40 răng, ngựa cái 36 răng.
Giữa răng cửa và răng hàm đàng sau là một khoảng trống nên người ta lợi
dụng nơi đó để dặt hàm thiếc. Ngựa có thể đóng kín mũi lại để tránh gió
bụi. Đôi tai to lớn của ngựa có thể chuyển động để định hướng, thu nhận âm
thanh.
Chân ngựa với khớp xương có sự cấu tạo đăc biệt nên nó chạy rất nhanh. Tốc
độ tối đa của ngựa là 70 cây số/giờ (45 miles/hr)
Khi ngựa trưởng thành từ 1 tuổi trở lên, có thể kết bạn. Chu kỳ chấp nhận
sự giao phối của ngựa cái là 21 ngày, nhứt là ở 5 ngày đầu. Chu kỳ nầy
ngưng vào mùa Đông. Mùa Xuân là mùa ngựa sinh sản.
Ngựa sống liên kết và có sự cư xử ḥa nhă với nhau để tránh sự tranh giành
ăn, uống và tranh giành giao phối với ngựa cái. Chúng liên lạc với nhau
bằng điệu bộ thể lư hơn là những âm thanh, thí dụ khi ngựa vảnh tai lại
đàng sau là ra hiệu sự phản đối.
NGUỒN GỐC VÀ SỰ BÀNH TRƯỚNG CỦA GIỐNG NGỰA
Theo các nhà khảo cổ, ngựa có từ 50 triệu năm trước. Thoạt tiên, nó nhỏ
như con nai, tên khoa học là Eohipus, chúng chạy rất nhanh để tránh thú
dữ. Theo thời gian chúng tiến hoá h́nh dạng như ngày nay.
Khoảng 700 năm sau Tây Lịch, nhà tiên tri Mohammed tin tưởng ḿnh là
truyền nhân của đáng Allah đă đi rao giảng đạo Hồi bằng cách chỉ huy đoàn
kỵ mă Ả-Rập dẫm nát Châu Âu. Kẻ bại trận phải chọn con đường theo Allah
hay là chết. Đế quốc nầy mở rộng tới bờ Địa Trung Hải, sang Phi Châu, bao
gồm cả Tây Ban Nha. Trước khi đế quốc nầy sụp đô, Tây Ban Nha đă bị cai
trị hàng trăm nam. Do đó, ngựa Ả-Rập pha giống ngựa Tây Ban Nha thành một
giống ngựa tốt và là tổ tiên của ngựa Châu Mỹ.
Mấy trăm năm sau, Thành Cát Tư Hăn kéo rốc cả bộ lạc với kỵ binh chiếm gần
hết nước Trung Hoa, Tây Hạ, Triều Tiên, Ba Tư, Ấn Độ, Thổ Nhỉ Kỳ và một
phần đất nước Nga Sô. Quân Mông có tài cưỡi ngựa cả ngày không biết mệt
mỏi lại hung bạo, hiếu sát. Vó ngựa của kỵ binh Mông Cổ tới đâu. cỏ cũng
không mọc nổi! Chúng gieo rắc tang thương khắp cơi Á sang Âu. Nhưng, hai
làn sang xâm chiếm nước ta đều bị thảm bại vao đời nhà Trần (Trần Nhân
Tông).
Sự lai giống ngựa theo sự bành trướng của đế quốc Hồi Giáo và Mông Cổ lan
tràn khắp thế giới, trong đó ngựa Ả-Rập lai giống ngựa Tây Ban Nha, được
gây giống ở các nước châu Âu, c̣n ngựa Mông Cổ th́ được gây giống ở Á
Châu.
Năm 1518, môt người Tây Ban Nha tên Don Hermando Cortés dẫn môt đoàn kỵ
binh gôm 16 con ngựa đổ bộ lên Mexico t́m vàng. Nước Mỹ thời đó chưa có
ngựa nên dân da đỏ thấy kỵ binh của Tây Ban Nha xuất hiên (nh́n xa như con
vật 4 chân lại có đầu người) nên sợ hăi, bỏ chạy, mặc dù quân số đông gấp
bội mà phải đầu hàng. Sau nầy, dân da đỏ học lóm cách cưỡi ngựa của Tây
Ban Nha để săn bán và đánh trận, chống lại người da trắng. Sau nhiều trận
đánh, người Mỹ thấy ngựa là chiến vật lợi hại của người da đỏ nên Đại tá
Ronard Mckenzie đă nhận lệnh, chỉ huy đoàn kỵ binh thứ 4 đă thảm sát toàn
bộ lạc Kiowas và 1.400 con ngựa!
Sau khi định cư ở Mỹ một thời gian, vào khoảng thế kỷ 16, di dân Tây Ban
Nha không chịu nổi sự khắc nghiệt khí hậu của vùng đất mới nên rút toàn bộ
về nước, bỏ lại tất cả gia súc, trong đó có ngựa. Chúng trở thành thú
hoang, sinh sôi nẩy nở rất nhanh, rất nhiều.
Gần một thế kỷ sau, người Châu Âu trở lại Mỹ để khẩn hoang, canh tác th́
ngựa đă chạy hàng đàn, có đàn gần cả chục ngàn con.
Năm 1918, nước Mỹ có 29 triệu con ngựa. Năm 1926, số ngựa chỉ c̣n 3 triệu
v́ bị ảnh hượng của nền văn minh cơ giới từ thế kỷ 20. Vậy mà cơ lực của
xe hơi, máy cày, máy kéo, phi cơ.. kể cả sức tống của phi thuyền không
gian đều lấy đơn vị là “Mă lực”. Th́ ra dù con người đă văn minh, nhưng
vẫn c̣n hoài niệm về ngựa, cho nên mới có tên “Mustang”cho loại xe thể
thao đầu tiên, rồi đến Bronco I (ngựa chưa thuần hoá), Bronco II, rồi
“Pinto” (ngựa lang), “Colt” (ngựa tơ).
PHIẾM LUẬN VỀ NGỰA
Người ta thường quan niệm đời người ngắn ngủi như ông Cao Bá Quát đă nói
trong bài tho “Uống rượu tiêu sầu”:
Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,
Cảnh phù dù trông thấy cũng nực cười”
Ư nầy cũng giống nhu câu “ Thời gian như bóng câu qua cửa sổ”. Bởi vậy mà
nhiều người yêu cuồng sống vội để không luyến tiếc khi tuổi đời đă bóng xé
về chiều. Các cô, các cậu, các ông, các bà ăn diện bảnh bao, thường bị
người đời mỉa mai rằng: “Con ấy, bà ấy,thằng ấy, ông ấy sao mà ngựa quá!”.
Những kẻ xấu xa, gian ác thường bị người ta gọi là bọn “Đầu trâu, mặt
ngựa!”. Bọn nầy thường hay kết hợp với nhau thành băng nhóm nên người ta
phê phán là “Ngưu tầm ngưu, mă tầm mă”.
Những người đă phạm tội lỗi, không biết ăn năn cải hối mà vẫn tái phạm,
người ta chê rằng: “Ngựa quen đường cũ”. Để trừng trị những kẻ phạm tội
ác, ngày xưa ở La Mă có luật hành h́nh tội nhân bằng “Tứ mă phân thay”.
Cách xử tử nầy trông thật khủng khiếp! Sau nầy, thế giới văn minh xet xử
tội nhân theo pháp luật rơ ràng và tại các toà án, người ta có làm “Vành
móng ngựa”- nơi phạm nhân đứng trước toà thọ án. Vành móng ngựa ngày nay
để tượng trưng cho uy lực của pháp luật.
Cổ nhân đă dạy chúng ta trước khi phát ngôn phải uốn lưỡi bảy lần để không
nói những lời quá dáng, xúc phạm đến kẻ khác. Lời dạy ấy được gói ghém
trong câu: “ Nhứt ngôn kư xuất, tứ mă nan truy” (Một lời nói ra, bốn ngựa
khó đuổi theo được). Trong xă hội loài người, có nhiều lời khuyên của cổ
nhân hăy biết yêu thương nhau, trong đó có câu: “Một con ngựa đau, cả tàu
không ăn cỏ”, để cho con người biết sớt chia vui buồn, gian khổ ... cùng
nhau.
Trong những cuộc tranh đua về thể thao hay trên các lănh vực khác, những
người tưởng rằng sẽ thua nhưng rốt cuộc lại thắng, người ta cho đó là
“Ngựa về ngược”. Những người ḷng dạ trung trực, ngay thẳng người ta
thường ví “Thẳng như ruột ngựa”. (Ruột ngựa dài 22m, có một khoảng gọi là
manh tràng là một túi kín đáy, dài 1m, đường kính 0,20m co thể chứa 30 lít
thức ăn. Manh tràng có nhiều vi khuẩn với nhiệm vụ làm lên men thức ăn làm
cho sự tiêu hoá dễ dàng. Manh tràng là khúc ruột thẳng cho nên người ta
nói: “thẳng như ruột ngựa”).
Theo những thầy tướng số th́ những nàng “cuời như ngựa hí” là những
nàng..rất dâm! Những anh trẻ tuổi tánh t́nh bốc đồng, tự cao, tự đại lại
háo thắng, hay công kích kẻ khác, bị người đời cho rằng “Ngựa non háu đá.
Thường trong số những người tài giỏi, có người hay có tật nầy tật nọ, hay
trở chứng bất ngờ cho nên người ta nói: “Ngựa hay lắm tật” hay là “ Ngựa
chứng ngựa hay. Khi bị công kích, bị giáng những đ̣n cân năo quá đau đớn,
người ta tức tối vô cùng, cái tức ấy được ví: “Tức như bị ngựa đá”, nhứt
là khi bị người yêu phản bội.
Những cô nhẹ dạ non ḷng thường bị những chàng “Sở Khanh” dụ dỗ rồi nửa
chừng chàng “Quất ngựa truy phong” để cho nàng mang nỗi khổ đau của kẻ bị
phụ t́nh. Để ví những gương mặt dài khác thường, người ta dùng câu: “Mặt
dài như mặt ngựa’. Để chỉ sự lẻ loi của một người, người ta hay nói kẻ ấy
“đơn thân độc mă. Chúng ta sống ở đời nhiều năm tháng mới thấu rơ nhân
t́nh thế thái. Do đó, cổ nhân có câu:
“Trường đồ tri mă lực
Sự cụu kiến nhân t́nh”
Để nhắc nhở người ta phải thích nghi với hoàn cảnh sống, phải giao hoà
t́nh cảm với người chung quanh, tục ngữ có câu: “Núi dốc khó cho ngựa,
người trái tính khó cho người thân. Nếu chúng ta đă nhận được tiếng thơm
là người tài giỏi th́ phải giữ chữ tín với mọi người, không thay đổi lập
trường, lời nói nên tục ngữ có câu: “Ngựa hay không thay dáng chạy, người
tốt không đổi thay lời.
Người ta thường tặng bức tranh “Mă đáo thành công”cho những của hiệu kinh
doanh, buôn bán trong ngày khai trương. Câu trên nếu viết đầy đủ g̣m có 2
vế đối nhau theo lối văn biền ngẫu: “ Mă đáo thành công, kỳ khai đắc
thắng”. Câu trên cũng có thể chúc cầu cho người trên đường lập công danh
hay những người sắp ra quân đánh giặc.
Trên chiến trường ngày xưa, những chiến sĩ ngồi trên lưng ngựa thường là
bậc trượng phu, khí phách, có “Tinh thần mă thượng”, không đánh người dưới
ngựa. Tướng Mă Viện tức Phục Ba Tướng Quân đă bộc lộ chí khí nam nhi qua
câu nói: “Đại trượng phu nên chết ở chiến trường, lấy da ngựa bọc thây mà
chôn chớ không chết trên giường nhi nữ”. Người xưa ca tụng những người có
chí lớn, ngồi trên yên ngựa nên có câu : “Mă thượng đắc thiên hạ”, nghĩa
là ngồi trên lưng ngựa để giành được thiên hạ.
Lời nói của Mă Viện khiến người viết nhớ đến chuyện “Thượng Mă Phong”. Từ
ngữ nầy nhằm nhắc nhở các “đấng trượng phu” coi chừng bị “đứt bóng” th́nh
ĺnh ở chốn.. pḥng the v́ chứng “Thượng Mă Phong”. Đó là chứng bệnh chết
trên ..thân thể ngọc ngà của giai nhân (chớ không phải chết trên lưng ngựa
ở chiến trường) v́ chàng quá “happy” tuôn hết “hồ lô”sinh khí (không đóng
nắp). Để chữa chứng bệnh nầy chỉ cần lấy vật bén nhọn như “cái trâm em
cài” đâm vào đầu xương cụt cho chảy máu th́ cứu được chàng, nhưng phải giữ
nguyên vị trí cũ. Đừng hốt hoảng mà hất chàng “té xuống ngựa” sẽ không cứu
được!
H̀NH ẢNH CON NGỰA TRONG VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM
Qua những tác phẩm nổi tiếng trong văn chương Việt Nam, h́nh ảnh con ngựa
được lồng vào cho nhiều cảnh huống khác nhau rất sinh động. Trong tác phẩm
“Chinh Phụ Ngâm”, nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn do Bà Đoàn Thị Điẻm
dịch sang chữ Nôm, h́nh ảnh chàng trai xếp bút nghiên theo việc đao cung
được diễn tả như sau:
Chí làm trai dặm ngh́n da ngựa,
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao,
Giả nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị, ào ào gió Thu
. . . . . . . . . . . . .
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử,
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba.
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chành sắc trắng như là tuyết in.
. . . . . . . . . .
Ng̣i đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc c̣n non.
Đưa chàng ḷng dặc dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
. . . . . . .
Tiếng nhạc ngựa lần xen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay.
Hà lương chia rẽ đường này,
Bên đường trông bóng cờ bay ngùi ngùi.
Lúc chàng trai hào kiệt làm người chinh phu đi chiến đấu ở phương xa, h́nh
ảnh con ngựa luôn gắn bó với chàng:
Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn,
Ḍng nước sâu ngựa nản chân bon,
Ôm yên, gối trống đă chồn,
Nằm vùng cát tráng, ngủ cồn rêu xanh.
. . . . . . . . .
Tưởng chàng trăi nhiều bề nắn nỏ,
Ba thước gươm, một cổ nhung yên,
Xông pha gió băi trăng ngàn,
Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành.
. . . . . . . . . . .
Chàng ruỗi ngựa dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in,
Gió Xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương th́.
Trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn Du, tác giả đă vẽ h́nh ảnh chàng
Kim Trọng mặc áo xanh, cưỡi ngựa bạch đi du ngoạn trong tiết thanh minh
rất đẹp:
Tuyết in sắc ngựa câu ḍn,
Cỏ pha màu áo, nhuộm non da trời.
. . . . . . . .
Gió chiều như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người c̣n trông theo.
Dưới ḍng nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu, bóng chiều thướt tha.
Trong đoạn Thúc Sinh từ giả Kiều để về thăm nhà, tác giả đă diễn tả h́nh
ảnh buổi chia ly trong khung cảnh trời vừa chớm Thu:
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong Thu đă nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đă khuất mấy ngàn dâu xanh.
Lúc Kiều bán ḿnh chuộc cha, nàng nhờ em là Thúy Vân thay ḿnh để nên
chuyện tơ duyên với Kim Trọng v́ kiếp nầy nàng đă lỗi nguyền với chàng:
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền ngh́ trúc mai.
Có một bài thơ nổi tiếng của Thanh Tịnh diễn tả sự mong chờ ṃn mỏi của
người chinh phụ qua bao tháng năm dài. Nàng nương song của, nh́n xa để t́m
bóng ngựa hồng của người chinh phu về, nhưng đau buồn thay khi ngụa về,
chiếc yên lại vắng bóng chàng kỵ sĩ. Bài thơ nầy tựa đề là “Ṃn mỏi”:
- Em ơi! nhẹ cuốn bức rèm tơ
T́m thử chân mây khói toả mờ
Có bóng t́nh quân muôn dặm ruỗi
Ngựa hồng tuôn bụi cơi xa mơ
- Xa nh́n trong cơi trời mây
Chị ơi! em thấy một cây liễu buồn
- Bên rừng em hăy lặng nh́n theo
Có phải chăng em ngựa xuống đèo?
Chị ngỡ như chàng lên tiêếng gọi
Trên ḿnh ngựa hí, lạc vang reo
- Bên rừng ngọn gió rung cây
Chị ơi! con nhạn lạc bầy kêu sương
- Tên chị ai giao giữa gió chiều
Phải chăng em hởi tiếng chàng kêu
Trên ḍng sông lặng em nh́n thử
Có phải chăng người của chị yêu?
- Sóng chiều đưa chiếc thuyền lan
Chị ơi! con sáo gọi ngàn bên sông
Ô ḱa bên cơi trời Đông
Ngựa ai c̣n ruỗi dặm hồng xa xa
- Nầy lặng em ơi! lặng lặng nh́n,
Phải chăng ḿnh ngựa sắc hồng in
Nhẹ nhàng em sẽ buông rèm xuống
Chị sợ trong sương bóng ngựa ch́m
- Ngựa hồng đă đến bên hiên
Chị ơi! trên ngựa chiếc yên..vắng người
Ông Nguyễn Đ́nh Chiểu, tác giả của tác phẩm “Lục Vân Tiên”có làm một bài
thơ vịnh con ngựa Tiêu Sương là ngựa quư của vua nhà Lương. bị vua Tống
sai người bắt trộm, nhưng ngựa có nghĩa, nhớ cố quốc, nó bỏ ăn cho đến
chết. Bài thơ ấy tựa đề là:
Ngựa Tiêu sương
Tiếng đồn ngàn dặm ngựa Tiêu suong,
Lầm đứa gian mưu nghĩ khá thương.
Giậm vó chẳng màng ăn cỏ Tống,
Quay đầu lại hí nhớ tàu Lương.
Chẳng cho chủ khác ngồi lưng cổ,
Thà chịu vua ta nắm khớp cương.
Ngựa nghĩa c̣n cưu nhà nước cũ,
Làm người bao nở phụ quê hương.
Một điển cố văn học “Ngựa hồ hí gió Bấc, chim Việt đậu cành Nam’, nguyên
chữ Hán là:” Hồ mă tê Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi’, cũng mang ư nghĩa
thương nhà nhớ nước như bài thơ trên. Nước Hồ ở phía Bắc nước Trung Hoa có
môt loài ngựa quư, khi bị đem cống cho Trung Hoa, mỗi lần nghe hơi gió Bấc
th́ nó cất tiếng hí vang. Nước Việt ở phía Nam Trung Hoa có một loài chim
quư, khi bị đem cống cho Trung Hoa, nó t́m cành cây ở phía Nam mà đậu.
Loài vật c̣n có nghĩa đối với nước non, sao con người lại nở vong ân với
Tổ Quốc!
Theo câu nói đầy chí khí hùng anh của Tướng Mă Viện nêu trên phần phiếm
luận nên có điển tích văn học là “Mă cách lư thi”( Da ngựa bọc thây). Bài
cổ thi tựa đề là “Lương Châu từ” cũng nói lên hào khí của người chiến sĩ
sắp lên yên ngựa để xông pha nơi chiến địa:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mă thượng thôi.
Tuư ngoạ sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Bài dịch thơ ( của Tô Kiều Ngân ):
Rượu Bồ đào, chén dạ quang,
Mới vừa muốn uống đă vang tiếng tỳ.
Say nằm trận địa, cười chi?
Xưa nay chinh chiến người đi không về.
Thời xưa, những nho sinh theo việc bút nghiên, giồi mài kinh sử, được vợ
hiền tần tảo sớm hôm nuôi chàng ăn học với ước mong một ngày chàng đổ đạt
hiển vinh “Ngựa anh đi trước, vơng nàng theo sau”.
Ca dao Việt Nam cũng có những câu ca dao mang h́nh ảnh con ngựa phi:
Rồng chầu xứ Huế
Ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài
Thương người xa xứ lạc loài tới đây
Tới đây th́ phải ở đây
Bao giờ bén rể xanh cây mới về.
Trong kho tàng cổ văn Việt Nam, có tác phẩm “Lục súc tranh công” kể chuyện
6 con vật trâu, chó, ngựa, dê, gà, heo tranh nhau kể công. Đầu tiên, trâu
ganh tị với chó, chó căi lại rồi chó ganh tỵ với ngựa, ngựa ganh tị với
dê, dê ganh tị với gà, gà ganh tị với heo. Sau, nhờ chủ nhà giải ḥa, sáu
con vật cảm thông nhau và con nào cũng an phận làm công việc của con ấy.
Xin trích một đoạn ngựa bị trâu, chó công kích nên nổi giận, phản kích:
. . . . . . . . . . . .
Ngựa nghe nói tím gan, nổ phổi
Liền chạy ra hầm hí vang tai
“Ớ nầy nầy, tao bảo chúng bây
Đố mặt ai dài bằng mặt ngựa?
Tuy rằng thú cũng hai giống thú
Thú như tao ai dám phân lê
Tao cũng từng đi quán về quê
Đă ghe trận đánh Nam, dẹp Bắc
Mỏi gối nưng pḥ xă tắc
Ṃn lưng cúi đội vương công
Ngày ngày chầu chực sân rồng
Bữa bữa dựa kề loan giá
Ông Cao Tổ năm năm thượng mă
Mới dựng nên cơ nghiệp Lưu gia
Ông Quan Công sáu ải thoát qua
V́ cậy có Thanh Long, Xích Thố
. . . . . . . . . . . . . .
Hai câu thơ của vua Trần Thánh Tông ( tức Thánh Tông Thượng Hoàng v́ vua
tại ngôi là Trần Nhân Tông) c̣n ghi chép trong lịch sử khi quân Mông
Nguyên sang xâm lược nước ta bị Trần Hưng Đạo với tài điều binh khiển
tướng đă phá tan 50 vạn quân thù. Vua Trần Nhân Tông đem bọn tướng giặc bị
bắt là Ô Mă Nhi, Phàn Tiêp, Tích Lệ, Cơ Ngọc đến trước chiêu lăng để làm
lễ hiến phù. Thánh Tông Thượng Hoàng hân hoan khi thấy đất nước thái b́nh
và chợt thấy chân của những con ngựa đá trước chiêu lăng bị dính bùn đất
như đă xông trận trở về nên cảm hứng đặt 2 câu thơ:
Xă tắc lưỡng hồi lao thạch mă
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
Dịch nôm:
Xă tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông thiên cổ vũng âu vàng
NGỰA TRONG ÂM NHẠC VIỆT NAM
H́nh ảnh con ngựa cũng được khai thác rất nhiều trong âm nhạc Việt Nam. Bộ
môn Cổ Nhạc Miền Nam có nhựng bài bản như Lư Ngựa Ô Nam, Lư Ngựa Ô Bắc,
Hướng Mă Hồi Thành, Sơn Đông Hướng Mă.. Tân nhạc th́ có rất nhiều bài có
đề cập tới ngựa như:
- Vết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa Hoang ( của Ngọc Chánh và Phạm Duy)
- Ngựa Phi Đường Xa ( của Lê Yên )
- Người Kỵ Mă Trong Sương Chiều ( của Văn Sanh )
- Ngẫu Hứng Ngựa Ô ( của Trần Tiến )
- Chàng Dũng Sĩ Và Con Ngựa Vàng ( tức Đạo Ca 3 của Phạm Thiên Thư và Phạm
Duy )
- Ngựa Hồng ( tức Rong Ca 9 của Phạm Duy )
- Bông Hồng Cho Người Ngă Ngựa ( của Lê Uyên Phương )
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có nhiều nhạc phẩm mang h́nh ảnh con ngựa mặc dù
tựa đề không mang chữ ngựa như nhạc phẩm:
- Một cơi đi về (...một ngày đầu Thu nghe chân ngựa đi về chốn xa...)
- Dầu chân địa đàng (...ngựa buông vó người đi chùng chân đă bao lần...)
- Xa dấu mặt trời (...vó ngựa trên đời hay dấu chim bay...)
- Xin mặt trời ngủ yên (...ôi chinh chiến đă mang theo bạn bè, ngựa hồng
đă mỏi vó chết trên đồi quê hương...)
- Phúc âm buồn (...ngựa xa rồi, người vẫn ngồi, bụi về với mây...)
Các nhạc sĩ khác cũng có những nhạc phẩm mang h́nh ảnh con ngựa như:
- Hát trên đồi Tăng Nhơn Phú ( của Vũ Đức Sao Biển )
(...ngựa hồng bao năm rồi t́m cuộc vui, sao quanh đời ta c̣n vọng măi chút
hương xưa ngày thơ ấu...)
- Sài G̣n ( của Y Vân )
(... ngựa xe như ngước trên đường vẫn qua mau...)
- Chinh phụ ca ( của Phạm Duy )
(...ngựa hồng âu yếm bước sang , trên lưng có chàng trai tráng...)
- Ghé bến Sài G̣n ( của Văn Phụng )
(... ngựa xe như nước rộng ràng... ) . . . . . . . . . . . . .
NHỮNG CHUYỆN VỀ NGỰA
1- Chuyện Phù Đổng Thiên Vương và con ngựa sắt.
Đời vua Hùng Vương thứ 6, có giặc Ân hung bạo sang xâm chiếm nước ta,
không ai chống nổi. Vua sai sứ đi rao, t́m nhân tài dẹp giặc. Bấy giờ ở
làng Phù Đổng (nay thuộc huyện Vơ giang, tỉnh Bắc Ninh) có một đứa bé xin
đi đánh giặc Ân. Sứ giả về tâu với vua. Vua lấy làm lạ truyền cho đứa bé
nhập triều. Đứa bé xin đúc cho một con ngựa sắt và cái roi cũng bằng sắt,
Khi ngựa và roi đức xong, đứa bé vươn vai thành người cao lớn lên một
trượng rồi nhảy lên lưng ngựa, cầm roi đi đánh giặc. Sau khi phá tan giặc
Ân, người và ngựa đến Sóc Sơn th́ biến mất. Vua nhớ ơn, lập đền thờ ở làng
Phù Đổng, về sau phong là Phù Đổng Thiên Vương.
2- Chuyện Tái Ông Thất Mă.
Ở gần cửa ải, có một ông già bị mất một con ngựa. Mọi người đều tỏ ư tiếc
cho ông. Ông nói: “Biết đâu đó lại chẳng là điều may mắn!”. It lâu sau,
con ngựa ấy dẫn một con ngựa Hồ là loài ngựa tốt về nhà ông. Mọi người đều
mừng cho ông già. Ông nói: “ Biết đâu đó chẳng là cái hoạ”.
Đứa con trai của ông rất thích cưỡi con ngựa Hồ, chẳng may ngựa phi nhanh
quá, nó té ngựa và bị què chân. Mọi người lại đến an ủi ông già. Ông ta
nói “ Biết đâu đó lại chẳng là phúc lớn”.
Năm sau, quân Hồ tràn vào, trai tráng bị bắt lính, ra trận chết rất nhiều,
riêng con trai của ông già bị què chân nên không bị bắt lính.
3- Chuyện bộ xương ngựa đáng giá ngàn vàng.
Năm 318 trước Công Nguyên, nước Yến có loạn. Lợi dụng thời cơ nầy, nước Tề
tiến đánh nước Yến, giết chết Yến Vương Khoái. Ít lâu sau, Yến Chiêu Vương
lên ngôi. Để thu hồi đất đai bị mất, Yến Chiêu Vương đến nhà Quách Hoè,
một hiền giả của nước Yến trước đó để hỏi kế sách thực hiện ư muốn của
ḿnh. Quách Hoè thưa rằng:
- Nhà vua nào xây dựng được nghiệp đế là do đă biết coi người hiền là thầy
giáo của ḿnh. Nhà vua nào xây dựng được nghiệp vương là do đă coi người
hiền là bạn của ḿnh. Nhà vua nào hoàn thành được nghiệp bá là do đă coi
người hiền là đại thần, c̣n vị vua nào không giữ được đất nước của ḿnh là
do coi người hiền như kẻ nô dịch của ḿnh. Nếu bệ hạ thực sự muốn nghe lời
chỉ bảo của người hiền, cung kính lễ phép, coi họ là thầy th́ mọi người
hiền trong thiên hạ sẽ quy tụ về nước Yến. Yến Chiêu Vương nói:
- Trẫm thực ḷng muốn học tập tất cả mọi người hiền, chỉ có điều không
biết trước hết nên gặp gỡ ai là thích hợp nhất?
Quách Hoè không trực tiếp trả lời câu hỏi của nhà vua mà ông kể cho nhà
vua nghe câu chuyện sau đây:
- Đời xưa, có một vị quốc vương đă bỏ ra một ngàn lượng vàng để t́m mua
một con thiên lư mă, nhưng 3 năm trôi qua mà vẫn không mua được. Có một vị
đại thần tâu xin chịu vất vả v́ bệ hạ một chuyến. Sau 3 tháng, vị đại thần
t́m được một con thiên lư mă, nhưng nó đă chết!. Ông liền bỏ ra năm trăm
lượng vàng để mua bộ xương con ngựa ấy đem về. Vị quốc vương kia giận dữ,
quát mắng:
- Ai cho phép nhà ngươi dùng số vàng lớn như vậy của trẫm để mua về một bộ
xương ngựa?
Vị đại thần nọ tâu:
- Một con thiên lư mă đă chết mà đă dám mua tới năm trăm lượng vàng, huống
hồ chi một con thiên lư mă đang sống th́ sẽ mua tới bao nhiêu? Người trong
thiên hạ tất nhiên ai nấy đều cho rằng bệ hạ thực sự muốn mua thiên lư mă
và nhứt định họ sẽ đem thiên lư mă tới cửa triều đ́nh.
Quả nhiên chưa đầy một năm, nhà vua đă mua được 3 con thiên lư mă vừa ư.
Kể xong câu chuyện. Quách Hoè thưa
- Ngày nay, nếu bệ hạ thực sự muốn cầu t́m người hiền tài làm thầy dạy th́
xin hăy bắt đầu từ thảo dân. Ngay đến Quách Hoè tôi, sức hèn, tài mọn mà
c̣n được nhà vua trọng dụng th́ những người có tài hơn thảo dân sẽ nghĩ
sao? Nhứa định từ nơi xa ngàn dặm họ sẽ vội vàng t́m đến đây thôi!
Yến Chiêu Vương thấy có lư bèn xây cho Quách Hoè một ngôi nhà và thật sự
coi ông là thầy dạy.
Câu chuyện lan truyền ra nhiều nơi, rất nhiều người hiền tài từ khắp các
nước chung quanh kéo tới gặp Yến Chiêu Vương. Yến Chiêu Vương nhờ dựa vào
họ, cuối cùng đánh bại nước Tề, thu hồi được những đất đai bị mất.
4- Con ngựa thành Troy
Hỳ Lạp trong thời thượng cổ, ở mạn Bắc Tiểu Á Tế Á có thành Troy là đô thị
giàu có, dân cư đông đúc, Hy Lạp muốn đánh chiếm đă 10 năm mà không được.
Tướng Odysseus của Hy Lạp bày mưu làm một con ngựa bằng gỗ rất lớn, rỗng
ruột, có bánh xe để di chuyển. Ông cho một toán quân sĩ đục trong bụng
ngựa rồi kéo quân, đẩy con ngựa gỗ đến trước cửa thành Troy, giả vờ như
muốn khiêu chiến. Trong thành Troy, quân sĩ cũng chuẩn bị pḥng thủ.
Nhưng, quân Hy Lạp bỗng rút quân, làm như thay đổi ư định không tấn công
thành Troy nữa. Họ bỏ lại con ngựa gỗ trước mặt thành.
Quan quân của thành Troy thấy vậy bèn mở cửa thành, đẩy con ngựa gỗ vào
thành, mở tiệc ăn mừng..chiến thắng và thu được.. “chiến lợi phẩm”. Đêm ấy
quan quân trong thành Troy say vùi trong men rượu. Đến khuya, toán quân
trong bụng ngựa gỗ mở nấp, đu dây xuống, giết chết hết lính canh rồi mở
của thành cho lực lượng quân Hy Lạp mai phục bên ngoài tràn vào đánh chiếm
thành Troy.
LỜI CUỐI CHO CHUYỆN NGỰA
Năm Ngọ nào cũng nghe nhiều người bàn tán 4 câu sấm của ông Trạng Tŕnh
Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mă đề, dương cước, anh hùng tận
Thân, Dậu niên lai kiến thái b́nh
Không biết 2 câu sấm nầy có ứng nghiệm vào năm Ngọ nầy và năm Thân, năm
Dậu kế tiếp hay không? Nếu xét theo t́nh h́nh thế giới th́ th́ hy vọng 2
câu sấm ấy đoán đúng cho năm Giáp Ngọ nầy và năm Bính Thân, năm Đinh Dậu
sắp tới. Ở Syria th́ nhân dân nổi dậy muốn lật đổ chính quyền hiện tại. Ở
Trung Đông th́ Iran và Palestine muốn triệt tiêu Do Thái. Do Thái muốn
đánh Iran trước khi Iran xài bom nguyên tử. Ở Á Châu th́ Trung Quốc chiếm
biển đảo của VN. Bắc Hàn đe doạ tấn công Nam Hàn. Nếu thực sự Bắc Hàn dám
hành động th́ Mỹ sẽ bênh vực Nam Hàn và liên minh của Mỹ sẽ có Ấn Độ, Úc
châu. Nhật Bản. Trung Quốc sẽ bênh vực đàn em Bắc Hàn. Nếu Bắc Hàn dùng
bom nguyên tử th́ Mỹ cũng sẽ trả đũa bằng bom nguyên tử và Trung Quốc sẽ
phải di tản số dân khổng lồ ở phần đất sát biên giới Bắc Hàn, kinh tế lâm
vào t́nh trạng suy thoái đến bi đát. Cộng Sản Việt Nam sẽ không c̣n chỗ
dựa vào quan thầy nữa. Đó là cơ hội cho Dân tộc VN vùng lên lật bạo quyền
để đất nước thoát khỏi ách thống trị độc tài của đảng CSVN, xây dựng lại
nền Tự Do Dân Chủ, tạo cuộc sống ấm no hạnh phúc sau bao năm chịu thống
khổ, lầm than. Đó là niềm hy vọng 4 câu sấm trên sẽ ứng nghiệm như vậy (?)
Kha Lăng Đa
|