Khúc ruột ngoài da
Huy Phương
Theo định nghĩa chữ “kiều” là “ở nhờ, đi ở nhờ làng khác hay nước khác”
nên những người này thường được gọi là kiều cư, kiều dân. Chế độ Cộng Sản
ở trong nước dùng chữ “Việt kiều” hay “kiều bào” để chỉ chung những người
Việt hiện đang sống ở hải ngoại. Đây không phải là kiểu dốt chữ nhưng họ
có thâm ư “nhận vơ” cho rằng những người Việt này là “công dân của nước
Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đang sinh sống, làm ăn ở nước ngoài”.
“Cục Quản Lư Xuất Nhập Cảnh” ở Hà Nội, cơ quan phụ trách ra vào Việt Nam
của “Việt Kiều.” (H́nh: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)
Do sự “nhận vơ” đó mà ông Trương Tấn Sang trong dịp được Tổng Thống Mỹ
Barack Obama tiếp kiến ở Ṭa Bạch Ốc hồi Tháng Bảy, 2013, đă “cám ơn chính
phủ Mỹ đă chăm lo cho các người Việt ở Hoa Kỳ”. Đây là lời cám ơn vô
duyên, khá trơ trẽn, có lẽ trong thâm tâm hay cố t́nh, ông Sang cho tất cả
những người Việt ở Mỹ đều là “con dân” của chế độ Cộng Sản Việt Nam, trong
khi thực chất “Việt kiều” của ông chỉ là những người Việt du học tạm thời,
“nhân viên ngoại giao”, mang thông hành Việt Nam đang ở Mỹ.
Trong một bài viết về Học Viện Quân Sự West Point của Hoa Kỳ bằng tiếng
Việt, một tác gỉa trong nước đă hạ bút rằng: “Sinh viên người Việt ở West
Point khá đông, nhưng đều là Việt kiều...” thật t́nh tôi không hiểu hết ư
của tác giả, và đây là một câu khá ngớ ngẩn.
Tại Trung Quốc, khái niệm “Hoa Kiều” mang tính cách đứng đắn hơn, v́ “Hoa
Kiều” chỉ để nói đến những người c̣n mang quốc tịch Trung Quốc đang “ở
nhờ” bên ngoài đất nước của họ. C̣n nếu như muốn nói đến tất cả mọi người
gốc Hoa tại nước ngoài, không kể họ đang tạm trú hay là thường trú nhân,
có quốc tịch hay không có quốc tịch, th́ các cơ quan truyền thông nước này
dùng danh từ “Hải Ngoại Hoa Nhân” (người Hoa ở hải ngoại). Chúng ta, nhất
là những người trong nước, phải dùng danh từ “người Việt hải ngoại” để gọi
những người Việt đang sinh sống ở nước ngoài mà không thể cá mè một lứa,
hễ cứ người Việt ở ngoại quốc, ai cũng là... “Việt Kiều.”
Những ai đă sống dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa hẳn đă không quên “Hoa Kiều”
tập trung ở Chợ Lớn, họ di cư sang Việt Nam từ mấy đời trước, làm ăn buôn
bán, sinh con đẻ cái, nhưng không chịu vào quốc tịch Việt Nam. Chính phủ
Ngô Đ́nh Diệm, không những đă ra sắc luật cấm ngoại kiều, bất cứ Chà Và
hay Tàu Chợ Lớn, đang sinh sống tại Việt Nam làm tám nghề chính liên quan
đến huyết mạch kinh tế, mà c̣n bắt buộc những người cư trú lâu đời phải
nhập tịch Việt Nam, từ đó, họ không c̣n là “ngoại kiều” nữa, mà trở thành
“người Việt gốc Hoa” tồn tại cho đến ngày nay. Vậy th́ ngày nay chúng ta
nhận là “người Mỹ gốc Việt” hay “người Úc gốc Việt” là chính danh.
Vậy th́ chính phủ Cộng Sản cũng đừng bao giờ nhận vơ những Dương Nguyệt
Ánh, Lương Xuân Việt, Alan Phan là “Việt Kiều”. Có điều lạ là “chỉ thị số
45-CT/TW ngày 19 Tháng Năm của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong t́nh h́nh mới” có 2,199
chữ, nhưng không hề có một chữ “Việt kiều” nào. Tuy vậy trong Bách Khoa
Toàn Thư tiếng Việt, người ta vẫn c̣n dùng chữ một cách lơ lửng: “Việt
kiều hay người Việt hải ngoại...”
Nói chung toàn bộ người Việt hiện nay ở ngoại quốc, có khoảng 4 triệu
người Việt sinh sống trên hơn 100 quốc gia trên thế giới, trong đó có gần
2 triệu người ở Mỹ là những người Việt ở hải ngoại, phần lớn là người tị
nạn, không mang quốc tịch Việt Nam (khi ra đi đă bị “cắt” hộ khẩu) không
thể gọi đây là “Việt kiều”!
Nếu nhắm vào các sinh hoạt của người Việt ở ngoại quốc, chúng ta sẽ khẳng
định ai là “Việt kiều”, ai là không. “Việt kiều” là những người mang cờ đỏ
sao vàng, thường tụ tập tại các sứ quán Việt Nam Cộng Sản trong các dịp
lễ, Tết, sắp hàng đón tiếp các quan chức Cộng Sản sang thăm nước họ đang
sinh sống hoặc “hồ hởi” về nước tham gia các buổi hội nghị hay đón tiếp để
được mang thêm hai chữ “yêu nước!”
Nghĩa tốt xấu của mỗi Việt kiều tùy theo hoàn cảnh, được báo chí trong
nước loan tin.
Nếu một “Việt Kiều” Mỹ hay Úc về nước lường gạt th́ đó là một “người Việt
tha phương cầu thực đang sinh sống ở nước ngoài”, nhưng nếu là một “Việt
kiều” tiếng tăm, thành công vượt bực th́ đó chính là một người gốc gác
Việt Nam, “khúc ruột ngàn dặm thương yêu tŕu mến của chúng ta”.
Cộng Sản là bậc thầy của chuyện đổi giọng và đổi trắng thay đen, cho nên
“Việt Kiều” nguyên xưa kia, chỉ là “những kẻ chạy theo bơ thừa sữa cặn của
Đế Quốc Mỹ” nay đă hóa thân thành “khúc ruột ngàn dặm, một thành phần
không thể thiếu của tổ quốc.” Và chúng lên mặt kẻ cả dạy dỗ: “Ủng hộ và
khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài tôn trọng pháp luật và hội nhập
vào xă hội nước sở tại, nơi bà con sinh sống,” cũng như sẽ “phối hợp chặt
chẽ với các nước có người Việt Nam sinh sống nhằm hỗ trợ bà con có địa vị
pháp lư vững chắc, bảo đảm cuộc sống lâu dài ở nơi cư trú.”
Trước kia những nhà đại trí thức như Nguyễn Khắc Viện, Trần Đức Thảo,
Nguyễn Mạnh Tường cũng nghĩ lầm là Việt Cộng yêu nước mà trở về, mới sống
trong tai ương, chết trong vùi dập. Ngày nay, bài học của những Việt Kiều
cỡ lớn như Nguyễn Trung Trực (Úc), Trịnh Vĩnh B́nh, (Ḥa Lan), Nguyễn Gia
Thiều (Pháp), Nguyễn An Trung (Nhật), Nguyễn Đ́nh Hoan (Mỹ)... đến Việt
kiều “tép” như Trần Trường đă cho chúng ta hiểu rơ hơn thế nào là Cộng
Sản.
Gần đây việc một “Việt Kiều” tên Bùi Văn Tánh, nguyên dân Nha Trang, năm
1980 vượt biển đến Mỹ, định cư tại Mỹ đă 25 năm, trở về cố quốc bị công an
bắt giữ về “tội vượt biên” trước đây. Tỵ nạn CS ở hải ngoại hiện nay có
bao nhiêu người mang “tội vượt biển, vượt biên trái phép, trốn trại, cướp
tàu, trốn thuế, hối lộ chính quyền địa phương, mua băi, “sở hữu hai bao
cao su đă dùng rồi,” tội c̣n sờ sờ ra đó!
Chúng ta “được gọi” là “khúc ruột ngàn dặm” nhưng 40 năm qua chúng ta đă
chịu bao cảnh “ruột héo, gan bầm,” đoạn trường (đứt ruột!) khi phải bỏ
nước ra đi.
Huy Phương