Nhà máy Xi măng Hà Tiên
Hoàng Long Hải
Trước khi nói tới việc xây dựng nhà máy ximăng Hà Tiên, phải nói tới công
lao của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. TT Ngô Đ́nh Diệm chấp chánh”ngày 7 tháng
7 năm 1954 (Hồi ấy gọi là ngày Song Thất). Hai tuần lễ sau (chính là ngày
21 tháng 7 năm 1954), các nước đầu sỏ hè nhau lấy con dao bén cắt đôi nước
Việt Nam ở vĩ tuyến 17, mà nhà thơ Trần Dần gọi là:
"Bỗng nhói ngang lưng
máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
…
Lưng Tổ quốc hôm nay rớm máu
…
Bắc Nam ơi đứt ruột chia đôi ! "
Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm chỉ c̣n lănh đạo có một nửa nước Việt Nam, từ vĩ
tuyến 17 trở vào. Với một nửa nước đó, TT ngô Đ́nh Diệm lo chỉnh đốn và
xây dựng (1) các công tŕnh giáo dục, hành chánh, quân sự, kỹ nghệ …
Nhà máy ximăng Hà Tiên h́nh thành trong bối cảnh đó và bắt đầu hoạt động
năm 1962.
Vùng Kiên Lương – Rạch Đùng – Chùa Hang – Ba Ḥn – Ḥn Phụ Tử là vùng núi
đá vôi tốt, tương đương với đá vôi Portland của tiểu bang Oregon, với hàng
trăm ngọn núi lớn nhỏ khác nhau, trên đất liền hoặc sát bờ biển. Những
ngọn núi sát bờ biển có h́nh ngọn viết lá tre, có nghĩa là chỗ gần giáp
với mặt nước, ngọn núi bị thắt lại v́ nước xoi ṃn. Đó là lư do tại sao
Ḥn Phụ Tử năm kia bị đổ. Khi phần dưới bị thắt lại, phần trên nặng, và
nếu như bị một tác động mạnh nào đó, thường là do địa chấn, phần trên sẽ
đổ xuống. Người ta thường cho rằng đó là điềm báo trước chuyện chẳng lành.
Núi đổ, đá đổ là báo hiệu sự sụp đổ. Năm 1953, núi Băng Lăng ở thượng
nguồn sông Hương bị đổ, năm sau “23 tháng mười Bảo Đại dân truất ngôi”(Câu
hát tuyên truyền cho ông Ngô Đ́nh Diệm). Năm 1974, Núi Đá Dao ở Tri Thủy,
quê tổng thống Nguyễn VănThiệu bị đổ, năm sau là “Tháng Tư đen”. Bây giờ
Ḥn Phụ Tử đổ, không biết chuyện ǵ sẽ xảy ra…
Tuy nhiên, dân chúng Kiên Giang bỗng có câu ḥ ru em:
Than ôi ḥn Phụ đổ rồi,
Dũng c̣n chi nữa mà ngồi khóc than!
Cuối năm 1973, đại tá Huỳnh Thanh Sơn cùng trung tá Ngô Tấn Đức đến thanh
tra cơ quan của tôi. Đại tá Huỳnh Thanh Sơn hỏi tôi tại sao những núi đá
bị khuyết đi như vây. Tôi giải thích rằng chỗ khuyết là do qua hàng triệu
năm, sóng biển đánh vào bào ṃn. Rồi bỗng có một trận địa chấn lớn làm
nâng đáy biển lên hay làm nước biển giựt xuống, nên chỗ khuyết đó bỗng lộ
cao lên, cao hơn mặt nước. Điều tôi nói là căn cứ vào sách địa lư tôi dùng
dạy học tṛ lớp đệ Tam của Sư Huynh Jérôme Lê Văn Ba, có thời làm hiệu
trưởng trường Pellerin Huế, sau vô làm hiệu trưởng trường Taberd Saigon và
cours tôi học với linh mục Nguyễn Ḥa Nhă, giáo sư địa lư đại học Huế, chớ
tôi không nói tầm bậy. Vậy mà ông đại tá Huỳnh Thanh Sơn cười mỉa tôi, cho
rằng tôi nói dốc. Cái cười của ông đại tá được kèm theo cái cười mỉa thứ
hai của ông trung tá Đức, ông cũng là người có bằng cử nhân luật của đại
học Saigon đấy!
Nhà máy ximăng Hà Tiên được xây dựng bên chân núi C̣m, là ngọn núi lớn
nhứt. Đồng thời quận hành chánh Kiên Lương cũng được thành lập để giúp đỡ
về hành chánh cho nhà máy.
Thời Tây đô hộ, qua khỏi xă Đức Phương (Vàm Rầy), – quê hương của vợ thủ
tướng Khiêm – một đỗi là ranh giới hai tỉnh Rạch Giá – Hà Tiên. Nay
(1972), cái mốc ranh giới vẫn c̣n. Từ Vàm Rầy trở ra Rạch Giá, xuống tới
U-Minh là thuộc tỉnh Rạch Giá – tên cũ- , diện tích rộng lớn. C̣n từ quá
Vàm Rầy trở lên Hà Tiên là thuộc tỉnh Hà Tiên. Tỉnh Hà Tiên nhỏ hẹp, chỉ
có ba quận: Phú Quốc, Giang Thành và Ḥn Chông (sau nầy là Kiên Lương).
Thời nhà Nguyễn, tỉnh Hà Tiên rộng hơn bây giờ, xuống tới tận cầu Ĺnh
Quỳnh, gần tới Sóc Soài, Sóc Sơn của tỉnh Rạch Giá.
Khi Tây chiếm xong ba tỉnh miền Tây Nam bộ, tuy ông Phan Thanh Giản uống
thuốc độc tự vẫn, giao thành cho địch để tránh tai họa cho sinh linh, th́
trong giới sĩ phu, nhiều người vẫn tiếp tục chiến đấu. Kiệt hiệt nhứt
trong số đó có ông Nguyễn Trung Trực. Ông khởi binh đánh Tây, thắng nhiều
trận lớn, như trận đốt tàu Tây mà sử gọi là “Hỏa Hồng Nhựt Tảo” trên song
Ḷng Tào. Nhưng về sau, sức yếu thế cùng, ông lui về “Đám Lá Tối Trời” ở
G̣ Công, rồi rút về lập căn cứ ở núi Ḥn Chông, kế Chùa Hang, Ḥn Phụ Tử.
Sau khi dẹp được cuộc khởi nghĩa của ông Nguyễn Trung Trực, Tây thu nhỏ
tỉnh Hà Tiên lại cho dễ kiểm soát. Riêng vùng Kiên Lương và núi Ḥn Chông
được lập thành một quận, gọi là quận Ḥn Chông, diện tích nhỏ hẹp, dễ kiểm
soát, dân chúng ít, dân khó nổi lên chống Tây như trước. Khi tôi đi thăm
Chùa Hang năm 1973, ở đầu núi Ḥn Chông c̣n thấy cảnh đổ nát của quận
đường cũ. Cơ sở nầy bị tàn phá, một phần v́ Việt Minh “tiêu thổ kháng
chiến”, một phần v́ nơi đây không ít lần là trận địa. Quận Kiên Lương là
thoái thân của quận Ḥn Chông, diện tích có mấy xă: Hai xă Tín Đạo (Tri
Tôn, thuộc Rạch Giá), Đức Phương (Vàm Rầy) là đất cũ của tỉnh Rạch Giá, và
các xă thuộc quận Ḥn Chông cũ như An B́nh (quận lỵ), Dương Ḥa (Ba Ḥn),
An Ḥa (Núi Trầu), B́nh Trị (Ḥn Chông). Lănh thổ xă B́nh Trị gồm những ấp
quanh núi Ḥn Chông là ấp Ḥn Chông, ấp Rạch Đùng và các ḥn cù lao trong
vịnh Thái Lan, lớn nhứt là Ḥn Nghệ, thứ đến là Ḥn Ngang (Ḥn Đội
Trương), Ḥn Heo, Ḥn Đầm và vài đảo khác, v́ thiếu nước ngọt nên chỉ có
vài ba nhà dân.
Nhà máy ximăng ở kế quận lỵ, thuộc xă An B́nh.
Nhà máy ximăng được xây dựng thành hai khu: Khu cư xá thuộc xă An B́nh,
ngay quận lỵ gồm có một dăy biệt thự dành cho các kỹ sư và viên chức hành
chánh. Khu nhà dài là nhà ở của công nhân. Khu trường học (tiểu học và
trung học). Khu thể thao, và khu thị tứ gồm Chợ Tṛn (nhà lồng chợ h́nh
tṛn), các dăy phố quanh chợ, với đường xá rộng rải và khu nhà máy, ở bên
kia kinh An B́nh – Ba Ḥn, sát chân núi C̣m. Đường từ bên nầy (quận lỵ)
qua bên kia (nhà máy) nối bằng nột cây cầu đúc ximăng khá đẹp. Nh́n qua,
các công tŕnh xây dựng nầy hiện đại, tiện nghi, quang cảnh giống như bên
Tây. Công tŕnh nầy là của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.
Cũng không thể không nói thêm về hồ nước Kiên Lương. Theo kế hoạch ban
đầu, chính phủ dự tính cho đào một con kinh lớn, nối liền từ sông Bassac,
– sông Hậu -, chỗ gần tỉnh lỵ Châu Đốc kéo thẳng một đường về tới kinh
Rạch Giá – Hà Tiên, gần An B́nh – , để lấy nước cho nhà máy. Tuy nhiên,
khi chương tŕnh đào kinh mới bắt đầu, cho cắm cọc, làm dấu th́ Việt Cộng
ŕnh bắt hết công nhân làm công việc đào kinh nầy. Những người bị bắt, có
người được tha sau khi bị Việt Cộng giam giữ ít lâu, có người không về.
Con kinh sắp đào nầy cắt ngang đường giây 1-C là con đường huyết mạch của
Việt Cộng từ Kampuchia qua, làm sao chúng có thể để yên được. V́ vậy, việc
đào kinh phải bỏ. Chính phủ bèn cho đào một cái hồ rộng, phía sau cơ sở
quận Kiên Lương. Hồ nầy mỗi bề dài 1 cây số, tha hồ cho nhà máy xử dụng.
Mỗi năm, khi nước sông đổ về, – thường gọi là “mùa nước nổi” – độ phèn
trong nước giảm bớt th́ nhà máy cho bơm nước từ kinh An B́nh – Ba Ḥn vào
hồ cho tới khi đầy hồ mới thôi. Nhà máy lại cho bơm nước vào một cái
château d’eau ở gần cư xá cho công nhân dùng, và một château d’eau khác
phía bên kia cho nhà máy. V́ việc canh gác, tuần pḥng có khi lơi lỏng,
Việt Cộng mấy lần về đặt chất nổ cố phá cái château d’eau ở cư xá nhưng
không thành công.
Hồ nước có nhiều cá và vịt le, dân chúng tha hồ đánh bắt, không ai cấm cản
ǵ cả.
Nhà máy ximăng Kiên Lương chỉ mới khai thác đá ở núi C̣m.
Tại sao có tên núi C̣m?
Trong hồi kư “40 năm, nhớ lại tết Mậu Thân – bài thứ 9 “Chiều Đi Qua Băi
Dâu…” ở phần chú thích, tôi có viết:
“Về mặt tôn giáo, khi triều đ́nh nhà Nguyễn đang c̣n, người ta thấy xă hội
miền Bắc thiên về đạo Nho, nhất là Tống Nho, hơn về Phật; miền Nam thiên
về đạo Phật, khuynh hướng dân giả, pha tạp tà ma bùa chú hơn đạo Nho. Huế
ở giữa, là điểm tiếp nối của hai miền, vừa “thâm” Nho trong triều chính,
và “đậm” Phật trong đời sống xă hội.”
Trước khi “lưu lạc” về miền Tây Nam Bộ, xuống tới chỗ tận cùng đất nước:
Hà Tiên, tôi có đọc một số truyện của Hồ Biểu Chánh, Lê Xuyên hay tin tức
báo chí, tôi thấy đạo Phật Đại Thừa, là hành trang tinh thần của người
Việt trong cuộc Nam tiến, từ miền Trung, miền Bắc vào miền Tây Nam Bộ.
Những lưu dân nầy, khi định cư nơi vùng đất mới, tính Đại Thừa pha hợp với
tính Tiểu Thừa trong đạo Phật của người Miên vùng Khmer Krom. Rơ nhất là
trong tính cách tu cho riêng ḿnh được giải thoát. Do đó, bên cạnh chùa,
như ở miền Bắc th́ lại xuất hiện những cái cốc của các ông đạo. Đạo của
các ông đạo lại pha hợp với tu tiên của đạo Lăo và bùa phép của người
Miên. Bên cạnh những ông đạo Liếm, đạo Sờ bậy bạ, không ít người tu hành
một cách chân chính nhưng có vài nét khác lạ. Ông “bác vật” Lang quê ở
Sadec đi xuống cái hang sâu (dân chúng gọi là đường xuống âm phủ) ở Thạch
Động thuộc Hà Tiên (Thạch Động là nơi Thạch Sanh cứu công chúa trong
truyện Thạch Sanh – Lư Thông), có thạch nhũ h́nh dáng như Phật Bà Quan Âm,
ông ta thấy “cái ǵ đó” mà khi về, ông tịnh khẩu cho đến khi qua đời v́
Phật thánh cấm ông nói lại. Ông “bác vật” Lang là đệ tử của Phật Bà Quan
Âm, người ta nghĩ vậy, nhưng cách tu tịnh khẩu cho đến chết như ông không
phải là việc tu hành thông thường. Tôi không rành lịch sử Phật Giáo Việt
Nam, nên không biết hai ngàn năm Phật giáo truyền vào Việt Nam, ở miền Bắc
có ai tu tịnh khẩu trọn đời như ông “bác vật” Lang hay không?
Ông đạo Dừa ở Kiến Ḥa cũng là một “dạng” của mấy ông đạo miền Nam.
Thông thường các ông đạo nầy là người Việt Nam, không phải người Miên hay
người Tàu lai Miên (Thường gọi là “đầu gà đít vịt”), lại là người có học
hành. Ông “bác vật” Lang đậu cử nhân sinh học ở Pháp về, biết hết các loài
động vật thực vật nên người ta gọi ông “bác vật” là v́ vậy. “Bác” là uyên
bác đấy, không phải “bác Hồ” “bác(t) cháo ǵ đâu! Ông đạo Dừa nguyên là kỹ
sư canh nông. Người Miên tu ở chùa, dùng bùa Cà Tha và không lập cốc. Bùa
Cà Tha, là bùa “truyền thống” của người Miên. Nhiều ông đạo tu luyện bày
thêm bùa phép lung tung.
Đặc biệt nhứt là trường hợp ông Đoàn Minh Huyên, tín đồ gọi là Đức Phật
Thầy Tây An (2).
Núi non vùng Kiên Lương, Hà Tiên, và Thất Sơn bên Châu Đốc không thiếu
hang động. Do đó, nhiều ông đạo không dựng cốc. Mấy ông tu trong những
hang động đó, mỗi người một hang. Ông C̣m, hay ông đạo C̣m cũng là người
tu trong hang theo cách đó.
Trong bản đồ quân sự, ngọn núi nhà máy ximăng Hà Tiên khai thác đá, được
gọi là núi C̣m, là nơi ông đạo C̣m tu hành. Người ta không biết tên thật
ông ta là ǵ nhưng ông thọ lắm, lưng ông c̣m, – cong như cái cung -, nên
người ta gọi là ông đạo C̣m, tu trên ngọn núi đó là ngọn núi người ta đặt
tên theo cái tên người ta đă đặt cho ông. Không ai biết quê quán ông ở
đâu, tu luyện ở đây từ bao giờ, thời gian nào, lâu lâu ông ta mới xuống
núi khất thực. Xong, ông ta lại về núi. Khi công nhân đến khai thác đá ở
núi C̣m, người ta t́m thấy trong một cái hang có một bộ xương người, – bộ
xương ông đạo C̣m? -, da thịt đă rữa mục hết, thành đất bụi, không rơ ông
đạo chết tự bao giờ.
Tôi lấy làm tiếc đă không t́m hiểu thêm về ông đạo C̣m. Không biết bộ
xương ông đạo chôn cất ở đâu. Vă lại, dân chúng quanh vùng nầy, không ai
là cố cựu, phần nhiều là người mới tới định cư sau khi quận được thành
lập. Xóm Xà Ngách của ông Đinh Nam Triều – người viết bài 20: Tiểu Đoàn 66
Biệt Động Quân Biên Pḥng – cư ngụ ở xóm nầy cũng chỉ từ sau hiệp định
Genève 1954. Có lẽ dân núi Trầu (xă An Ḥa), vài người biết đôi chút về
ông dạo C̣m nhưng tôi đă không t́m gặp để hỏi chuyện.
Núi C̣m, bắt đầu lấy đá từ 1962. Khi tôi về đó, hơn 10 năm sau, nhà máy
ximăng chỉ mới khai thác được một phần mười ngọn núi đá. Một mặt th́ nhà
máy khai thác chậm, mặt khác th́ núi lớn quá. Theo ông giám đốc Lê Hữu
Phước nói cho tôi nghe, th́ đó chỉ là phần nổi trên mặt đất, phần nầy chỉ
có một phần ba. Phần ch́m dưới mặt đất là hai phần ba. Nếu khai thác hết
đá ở núi nầy, với tiến độ như thế, phải mất một trăm năm nữa mới lấy hết
đá.
Giữa năm 1974, kỹ sư Nguyễn Văn Thành, đứng ra chỉ huy việc tính toán, đặt
chất nổ, để bắn chỏm núi, cao khoảng một phần ba ngọn núi (Phần nổi trên
mặt đất). Một hôm, ngồi uống càphê buổi sáng với tôi, trước khi đi làm, kỹ
sư Thành báo cho tôi biết việc chuẩn bị ấy và hẹn hôm nào cho bắn đá th́
sẽ báo cho tôi biết để xem chơi. (Kỹ sư Thành, tốt nghiệp kỹ sư công
chánh, nguyên là học sinh trường Phan Bội Châu, Phan Thiết, học sinh môn
Anh Văn với Phan Văn Hộ, một người bạn học cũ của tôi dạy ở đấy.)
Quả thật anh ta tính toán rất hay. Hôm đó, trời tốt, khoảng mười giờ sáng,
tôi qua nhà máy chờ xem bắn đá. Tới 10 giờ, sau khi lệnh lạc đâu đó, giữ
khoảng cách an toàn cách chân núi 2 Km, th́ kỹ sư Thành cho lệnh bắn.
Trong tích tắc, tiếng nổ dữ dội vang lên, bụi đá mù mịt, tiếng đá rơi
xuống ào ào như mưa, kéo dài hơn một giờ đồng hồ. Khi bụi tan th́ phần
chỏm núi không c̣n. Bắn một lần mà thành công như thế là kỹ sư giỏi.
Thời gian tôi làm việc ở đây, gần 2 năm có ba tai nạn chết người. Trước
hết là tai nạn bà Huỳnh thị Chè. Trước kia bà làm cho hăng RMK-BRJ của Mỹ,
từng lái xe xúc. Hôm ấy, bà cũng lái xe xúc đưa đá lên cối th́ xe tuột
thắng, rơi khỏi cầu, xe lật úp, bà bị xe đè chết tại chỗ. Tai nạn thứ hai
là một thanh sắt lớn rơi trúng đầu ông Thanh, cán sự cao cấp, tương đương
kỹ sư, du học ở Pháp về. Tai nạn thứ ba là sau khi bắn chỏm núi đá, th́
một ông tài xế nhà máy, lái xe ủi để ủi một đường quanh núi th́ bị đá rơi
trúng đầu, chết tại chỗ.
Cũng trong thời gian đó, Việt Cộng tấn công vào nhà máy ximăng hai lần,
không kể lần trước đó, 1972 mà anh Đinh Nam Triều đă kể trong bài 20.
Lần đầu, Việt Cộng chưa vào tới nhà máy, chỉ có đặc công chui hàng rào kẽm
gai vào đốt kho dầu. Nửa đêm, tôi bị nhân viên đánh thức, báo cho biết nhà
máy ximăng đang cháy. Tôi lo lắng chạy qua hầm truyền tin, biểu nhân viên
báo cáo về Rạch Giá, rồi đi bộ sang chi khu theo dơi t́nh h́nh. Thiếu tá
Sầm Long, chi khu trưởng, đang ngồi sẵn ở đó, nét mặt hơi có vẽ lo lắng.
Tôi nói:
– “Nếu nhà máy bị nội tuyến là tui lănh đủ. C̣n như tụi nó ở ngoài chui
vào là phần ông đấy.”
Thiếu tá Long cười mà không vui:
– “Địa Phương Quân (ĐPQ) báo cáo rồi, tụi nó cắt hàng rào chui vô.”
Tôi cười, thấy khỏe. Nhà máy có hơn bốn trăm nhân viên, lư lịch khá phức
tạp, Việt Cộng dễ trà rộn vào để phá hoại.
Nhà máy cũng có một kho chất nổ lớn, dùng để bắn đá. Chất nổ để trong một
cái hang núi, cửa sắt chắc chắn. Mỗi khi mở cửa lấy chất nổ ra, phải có
một ủy ban với nhiều thành viên thuộc các cơ quan, bộ phận an ninh ở địa
phương để ngăn ngừa việc mất cắp có thể xẩy ra: Việt Cộng hay bán cho các
chủ ḷ vôi để họ bắn đá. Việc nầy tôi rất e ngại, theo dơi khá kỹ, giao
cho thượng sĩ Lâm Tấn Tài, cảnh sát đặc biệt, đảm nhận. Anh ta là người
cẩn thận, chăm chỉ và, như tôi gọi đùa “Thổ công nhà máy.” Anh biết hầu
hết, tên tuổi, gia cảnh, gốc gác… từng công nhân làm việc cho nhà máy.
Sau đó, tôi cùng thiếu tá Long qua nhà máy. Nhà máy có bốn bồn dầu lớn
dùng để đốt ḷ, một đang bị cháy. Các bồn kia an toàn. Tôi nói với thiếu
úy Kiệt:
– “Ông lấy máy h́nh chụp “lỗ chó chui” nầy. Mai mốt thượng cấp có khiển
trách th́ ḿnh có cớ để chạy tội.”
“Lỗ chó chui” là chỗ đặc công cắt kẽm gai chui vào.
Lần thứ hai, Việt Cộng tấn công, t́nh h́nh căng hơn.
Thời gian cuối năm 1974, t́nh h́nh toàn quốc khá căng nên tôi ít khi ngủ ở
nhà, thường ngủ chung với binh lính của tôi trên các sân thượng của vài
cao ốc trong quận lỵ. Quá nửa đêm súng nổ dữ dội ở phía nhà máy, tiếng
súng nhỏ và cả ḿn hay lựu đạn nữa. Tôi dùng máy truyền tin liên lạc với
chi khu th́ được biết đại tá Nguyễn Hữu Kiểm, tư lệnh phó sư đoàn 21 và
thiếu tá Sầm Long đang ở trong hầm chỉ huy.
Việt Cộng đột nhập vào trong nhà máy nhưng chưa làm chủ t́nh h́nh được.
Hai bên đang đánh nhau. Một bên là đặc công và một số Việt Cộng đă lọt vào
sân sau nhà máy rồi; sân nầy ở hướng núi C̣m. Bên phía kia, – phe pḥng
ngự, không phải là binh sĩ tiểu đoàn 530 Địa Phương Quân (ĐPQ), đơn vị có
nhiệm vụ bảo vệ nhà máy mà lại Nhân Dân Tự Vệ (NDTV) nhà máy, chỉ khoảng 4
hay 5 người ǵ đó, đang núp trên cối xay đá, phản công bằng súng Carbine.
Tôi vào hầm hành quân gặp đại tá Kiểm và thiếu tá Long. Đại tá Kiểm đang
liên lạc với tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Địa Phương Quân nói trên. Liên lạc
xong, ông ta bỏ ống nói xuống, mặt không vui, nói với thiếu tá Long và
tôi:
– “Không biết tụi nó chém vè hay ngủ quên. Mấy “thằng cùi” (ám danh truyền
tin thường chỉ Việt Cộng) lọt vô nhà máy rồi, súng nổ ầm ầm, tụi nó mới
hay.”
Đơn vị ĐPQ canh gác, tuần tiểu, phục kích phía ngoài hàng rào pḥng thủ.
Vậy mà khi Việt Cộng tiến vào, họ chẳng biết ǵ cả.
Khi mấy tên đặc công lọt vào được sân sau, NDTV gác trên cối xay đá phát
hiện ra, bắn xuống. Bọn chúng quăng lựu đạn beta lên cối đá nhưng không
tới. NDTV có lợi thế hơn, từ trên cao bắn xuống nên chẳng tên đặc công nào
sống sót. Vừa khi đó, khoảng một tiểu đội Việt Cộng từ ngoài lọt qua được
hàng rào, nhưng các toán NDTV quanh đấy đă cảnh giác v́ súng nổ rồi. V́
vậy, toàn bộ toán Việt Cộng bị mắc kẹt ở hàng rào. Vào th́ không được,
lệnh rút lui chưa có.
Tiểu đoàn trưởng cùng với ban chỉ huy tiểu đoàn phối hợp với NDTV bảo vệ
nhà máy, không cho chúng tiến sâu vào nữa. Tuy nhiên, toán đặc công thứ
hai, có nhiệm vụ đốt bồn dầu th́ đă đốt cháy 2 trong 4 bồn dầu, nhưng toàn
thể toán của chúng gồm bốn tên đều bị hạ sát. Hai bồn dầu đang cháy, rực
sáng, lửa cao ngất, khói um tùm.
Bấy giờ đại tá Kiểm đă liên lạc được với Sư Đoàn 21. Sư đoàn liền cho trực
thăng vận đổ xuống một đại đội. Trực thăng đổ quân dọc theo trục lộ, ngang
ấp Xà Ngách, bên kia nhà máy. Tôi núp trong hầm hành quân, nh́n ra ngoài,
quan sát đơn vị tiếp viện vượt cầu sang bên kia kinh. Trong ánh lửa chập
chùng của các bồn dầu đang cháy, h́nh ảnh những người lính vượt cầu hiện
lên khá rơ, vừa đẹp vừa hùng tráng. Tôi nói với thiếu tá Long:
– “Đẹp ghê! Y như trong ciné.”
Sau đó, chưa được nửa giờ, súng êm. Việt Cộng rút ra xa, nhưng cuộc tấn
công chưa chấm dứt.
Trời đă sáng, tôi c̣n ngồi trong hầm hành quân. Đại tá Kiểm nói:
– “Việt Cộng tấn công mà t́nh báo chẳng biết trước ǵ cả. May nhờ NDTV
phát hiện chớ với mấy trăm kí lô chất nổ như vậy, nhà máy chẳng c̣n viên
gạch nào nguyên.”
Hồi gần sáng, trung úy đại đội trưởng tiếp viện, sau khi vào lục soát
trong nhà máy, báo cáo tịch thu được khoảng bốn trăm kg chất nổ TNT. Việt
Cộng muốn triệt hạ hoàn toàn nhà máy ximăng Hà Tiên.
Câu nói của đại tá Kiểm làm tôi chột dạ, mặc dù ông không khiển trách hay
trách cứ ǵ tôi.
Sau 7 giờ sáng, tôi về cơ quan. Lúc đó Việt Cộng chưa rút đi hẳn, c̣n bám
các vị trí chung quanh nhà máy. Có thể chúng nó chờ trời tối lại tấn công
nữa. Đại tá Kiểm tiên đoán như vậy.
Tôi họp đám Cảnh Sát Đặc Biệt của thiếu úy Kiệt, nhắc lại nhận xét của đại
tá Kiểm. Năm Hùng nói:
– “Bên quân đội có t́nh báo chiến thuật, chiến lược, phạm vị hoạt động
rộng khắp, c̣n chưa biết ǵ. Ḿnh chỉ nhờ có mấy người dân đốn tràm, giăng
câu, làm sao biết tới việc đó.”
Tôi nói:
– “Chỗ dựa của chiến tranh du kích là nhân dân. Ḿnh cũng phải dựa vào
nhân dân mà chống Việt Cộng. T́nh báo nhân đân chỉ góp được phần trong
việc giải hóa hạ tầng cơ sở Cộng Sản mà thôi. Thôi! Kệ họ, họ có trách cứ
ǵ ḿnh đâu mà suy nghĩ cho mệt. Bữa nay thiếu úy Kiệt nên cho rải nhân
viên rộng ra, xem t́nh h́nh như thế nào.”(3)
Tôi gọi riêng Năm Hùng, “thổ công Kiên Lương”(4) với thiếu úy Kiệt lại,
gọi càphê và dặn ḍ công việc. Tôi nói:
– “Hồi “Hùng móm”, em tôi đánh trận Dambe, đọc tờ Diều Hâu, tôi thấy họ
b́nh luận, sở dĩ Việt Cộng thua là v́ tướng Dư Quốc Đống t́m ra được vị
trí bộ tư lệnh chiến trường của Việt Cộng. Thay v́ tấn công vào pḥng
tuyến chúng đang giàn sẵn, ông cho rút tiểu đoàn 11 Dù tấn công ngay vào
cái đầu rắn. Bọn nầy bị bất ngờ, chạy trối chết. Bên phía mặt trận kia,
không đánh Việt Cộng cũng rút lui.”
Thiếu úy Kiệt góp ư:
– “Tui cũng nghe nhiều người nói vậy.”
Tôi nói:
– “Thật ra, Thủ Đức ra như tôi, chỉ làm trung đội trưởng, chỉ học tuần
tiểu, di hành, hành quân đêm, lội sông. Biết mẹ ǵ chuyện nầy. Chuyện nầy
cao cấp hơn. Biết cũng v́ ṭ ṃ mà thôi.”
Thượng sĩ Hùng nói:
– “Ông quận Long đánh giặc cũng hay lắm.”
Tôi cười:
– “Ông không biết à? Việt Cộng nghe tới đại úy Long Sư Đoàn 9 là ngán lắm.
Ổng nổi tiếng từ cấp úy kia.”
Thiếu úy Kiệt hỏi:
– “Ông vô mục tiêu kinh lắm. Mười lần cả chục, Việt Cộng chạy dài.”
Tôi giải thích:
– “Ông ta có sự phỏng đoán tài t́nh lắm. Khi trực thăng đổ lính xuống rồi,
dàn hàng ngang, vô mục tiêu. Việt Cộng nổ súng. Ông ta gan lắm, đứng quan
sát. Nh́n hỏa lực, ổng biết cấp chỉ huy bên kia ở đâu, rồi tập trung mấy
tay gan cùng ḿnh, đánh ngay vào chỗ ấy. Thằng nào mà dám trụ lại. Rút
chạy là chắc.”
Một lúc, tôi hỏi Năm Hùng:
– Ông là “thổ công” ở đây. Theo ông dự đoán, bọn chỉ huy mặt trận nằm ở
đâu?”
– “Thiếu ǵ chỗ. Núi Nai, phía sau núi C̣m, khu đó c̣n nhiều ngọn núi nhỏ
nữa, có hang. Tụi nó núp trong đó an toàn lắm.” Năm Hùng giải thích.
– “Mấy núi đó, ông vào chưa?” Tôi hỏi.
– “Tui lội khắp. Mấy năm t́nh h́nh yên yên, chẳng nơi nào tui chẳng tới.”
Năm Hùng trả lời.
– “C̣n vùng Mo-So?” Tôi hỏi.
Thiếu úy Kiệt nói ngay:
– “Phía đó là phía biển, ḿnh tấn công, tụi nó rút đi đâu? Phía núi Nai
tụi nó dễ rút về Trà Tiên.”
Tôi thấy thiếu úy Kiêt nói có lư. Một lúc, tôi nói:
– Nếu chắc ở núi Nai, tui nghĩ bên Biệt Khu họ dám chơi kiểu “diều hâu”
(5), cho nhảy trực thăng.”
Đến trưa, tôi đang ăn cơm, Năm Hùng vào gặp tôi, nói:
– “Có chỗ nầy tôi hơi nghi nghi!”
– “Chỗ nào?” Tôi ngừng ăn, hỏi.
– “Chỗ cái lung, phía đông bắc núi Trầu. Tui đứng ở cầu Cống Tre, nh́n vô
thấy cái lung đó.”
Tôi bỏ ngang bữa ăn, nói với Năm Hùng: “Anh đi xuống đó với tui. Biểu tụi
nó gọi thiếu úy Kiệt xuống đó luôn.”
Ngang đầu núi Trầu, xă An ḥa, có một con kinh đào nhỏ, thẳng, chạy từ đó
về hướng đông bắc, có thể nối với kinh Kháng Chiến (Tôi không rơ v́ bản đồ
không vẽ ǵ cả mà tôi cũng chưa từng lội vào đó bao giờ). Cách xă An Ḥa
khoảng hai cây số, ngay trên kinh nầy, có một vùng đất hơi cao, khô, cây
tràm rậm rạp. V́ vậy, người ta gọi là lung, tiếng địa phương. Nếu Việt
Cộng núp trong đám rừng tràm nầy, máy bay cũng khó phát hiện.
Tôi hỏi:
– “Năm Hùng đoán tụi nó làm ǵ chỗ nầy?”
– “Mấy lần trước, bộ chỉ huy đóng ở núi Nai. Nay tụi nó phải đổi vùng,
đánh lạc hướng. Đóng một chỗ hoài, dễ bị lộ, nguy hiểm.” Năm Hùng giải
thích.
– “Nhưng có cái ǵ nữa, anh mới nghi chớ?
– “Kinh nầy là đường dân An Ḥa đi đốn tràm. Bữa nay, gần tới chỗ lung, họ
bị chận lại, đuổi lui. Dân chúng cũng thấy mấy cái cần câu chỉa lên trời.
Tui đoán có lẽ là ăngten truyền tin.” Năm Hùng nói rơ hơn.
Khi đó, thiếu úy Kiệt vừa tới. Tôi nói với Năm Hùng:
– “Anh ở đây canh chừng coi có thêm tin ǵ không. Cần th́ gọi thêm người
phụ với anh. Tui qua Biệt Khu với thiếu úy Kiệt.
Gặp đại tá Kiểm, tôi tŕnh bày những ǵ Năm Hùng đă nói với tôi. Đại tá
Kiểm và tôi, thiếu úy Kiệt, khoanh chỗ cái lung trên bản đồ, chấm tọa độ.
Xong xuôi, đại tá Kiểm nói:
– “Tôi có hai phi tuần, nay chỉ lại mục tiêu nầy cho phi công oanh tạc.”
Thế rồi đại tá Kiểm đổi tần số truyền tin, liên lạc với bộ tư lệnh Sư Đoàn
21.
Nửa giờ sau, trên đường tôi trở lại cầu Tre th́ gặp Năm Hùng đang hớt hăi
chạy về. Gặp tôi, Năm Hùng nói:
“Chết rồi, máy bay bỏ bom lầm, ngay xă An Ḥa, cháy mấy cái nhà. Dân vừa
chạy ra báo cáo. Tui cũng thấy máy bay chúc xuống oanh tạc ngay đó.”
Vậy là tôi quay trở lại Biệt Khu báo cáo với đại tá Kiểm. Chúng tôi xác
minh lại tọa độ mục tiêu, đại tá Kiểm lại gọi về bộ tư lệnh. Mười lăm phút
sau, hai chiếc A-37 đổi hướng, oanh tạc ngay mục tiêu chúng tôi báo cáo.
Khoảng một giờ đồng hồ sau, Năm Hùng vào An Ḥa, t́m gặp các mật báo viên
của anh ta. Đến chiều, tôi c̣n ngồi trong văn pḥng, tính chuyện đêm nay
canh gác như thế nào đề pḥng Việt Cọng tấn công lần nữa th́ Năm Hùng vào,
nói:
– “Rút rồi.”
Tôi hỏi:
– “Ai? Việt Cộng hả?”
Năm Hùng cười:
– “Tui cho người vô chỗ hồi sáng. Không c̣n Việt Cộng canh gác ǵ cả, dân
không bị đuổi lui. Họ chèo vô tuốt một khúc nữa, qua gần hết cái lung,
không thấy ǵ hết.”
Lúc đó, thiếu úy Kiệt cũng đă vào, đứng nghe Năm Hùng nói chuyện với tôi,
bèn nói:
– “Đêm nay yên. Bộ chỉ huy mà rút rồi th́ đánh chác ǵ nữa. Bị máy bay
oanh tạc, chúng nó biết là lộ rồi. Lo chém vè cho xong.”
Tôi lại qua Biệt Khu, báo cáo t́nh h́nh với đại tá Kiểm. Ông ấy nói:
– “Đêm nay ngủ ngon. Tuy vậy, anh cũng cho lính canh gác, không nên ỷ y.”
Tôi ra về, ḷng vui lắm, biểu tài xế của tôi: “Mai mầy ra ḥn Heo đón cô
và mấy đứa về.”
Hồi sáng, đề pḥng Việt Cộng tấn công tối nay, nên tôi đă mượn chiếc ghe
đánh cá cho vợ và các con tôi ra ngoài đảo. Vợ con mấy người lính của tôi,
như tài xế Thành, tài xế Trang, tài xế Nuôi cùng mấy đứa tà lọt tôi, cho
vợ con chúng đi theo vợ con tôi ra ngoài ấy cả.
Đêm đó ngủ yên thật. Việt Cộng chờ trời tối rút đi chớ đánh chác ǵ nữa
nên suốt đêm không nghe một tiếng súng. Sáng ra, mới sáng sớm, khi tôi
đang ngồi trong văn pḥng th́ Năm Hùng đưa cho tôi xem một cây súng M-79
do một người đánh cá dọc theo con kinh vào núi Nai bắt được đem cho.
Tôi lấy ít tiền đem cho người ấy để thưởng công, đồng thời gọi thiếu úy
Kư, trung đội trưởng Cảnh Sát Dă Chiến, đi “bắt hôi”, đem trung đội lục
soát dọc theo con đường vào núi Nai là con đường Việt Cộng rút, sau khi
chúng tấn công nhà máy ximăng mà không vào được. Trên đường rút lui, bọn
chúng bỏ lại vương vải mấy cây súng AK, balô, nhiều nhứt là những bánh
thuốc nổ TNT. Chúng muốn dùng số chất nổ nầy để phá sập nhà máy. Tôi báo
cáo việc ấy với thiếu tá Long. Ông ta cười, nói:
– “Ông già – ư nói đại tá Kiểm – đánh giặc hay lắm. Sau khi đơn vị tiếp
viện tăng cường pḥng thủ nhà máy, ông già đoán chừng chúng sẽ rút lui;
đoán ngay con đường rút là đường vào núi Nai. Ổng cho nổ chụp từ đầu tới
cuối, chụp đi chụp lại mấy lần. Chúng nó hốt hoảng bỏ chạy, bỏ lại súng
đạn như vậy là chết, bị thương không ít đâu. Một lần cho tởn. Đừng tưởng
bở, đâu có ngon ăn!”
Nhà máy ximăng Hà Tiên hoạt động kém hữu hiệu!
Tại sao tôi nói thế?
Nhân dịp tết đầu năm 1974, ông Mai, phó giám đốc nhà máy, (xin lỗi, tôi
quên mất họ, h́nh như là Lương Ngọc Mai), sang gặp tôi, tại văn pḥng,
nói:
– “Không như các năm trước, năm nay có lệnh chính phủ cấm biếu tiền, nên
chúng tôi không có tiền để tặng Bộ Chỉ Huy ăn tết. Tuy nhiên, chúng tôi dự
trù biếu các anh năm chục bao ximăng, có thể bán lấy tiền vui xuân được.
Mỗi năm, nhà máy nhờ Bộ Chỉ Huy giúp đỡ nhiều việc, nhất là về an ninh.
Nay tới tết mà không biết ơn, kỳ quá!”
“Xuân, thu nhị kỳ” là cái tục hối lộ của người Tàu, người Việt noi theo
khá kỹ. Tuy nhiên, ở đây khác chút ít v́ là của một cơ quan tặng một cơ
quan, chứ không phải của một ông “kinh doanh” tặng ông quan… cách mạng như
hiện nay ở “quê hương… ta”.
Cũng như thường năm, tết và rằm tháng Bảy, tôi thường mua quay heo cúng
tổ, – mặc dù không tôi không rơ ông tổ Cảnh Sát là ông nào, mặt mũi ra làm
sao, tṛn hay méo, đen hay trắng, chắc là không gầy mà mập ú? Tuy nhiên,
tôi cũng phải cúng tổ “xuân thu nhị kỳ” cho đúng ư của tổ, không phải để
mua may bán đắt, mà trước hết, là để tránh tai họa, khỏi bị Việt Cộng đặt
chất nổ ngay ghế ḿnh ngồi, sau là để nhậu một bữa cho đúng với phong tục
dân Nam bộ. Tết nhứt mà không có nhậu th́… buồn lắm!
Tôi nhận cái bông 50 chục bao ximăng, giao cho năm Hùng, bán lại cho ông
Hồng Ràng, chủ tiệm vật liệu xây dựng, lấy tiền, đặt cho ông Tư Để quay
một con heo và năm Hùng giao cho ai đó, tôi không nhớ, lo mấy mâm xôi, đồ
nhắm và bia. Cũng không thiếu mấy chai Hennessy “cổ vàng” – giấy bịt cổ
chai màu vàng -. “Cổ vàng” rẻ hơn “cổ đen” – giấy bịt cổ chai màu đen- .
Nhậu tập thể, đâu đủ tiền mua cổ đen. Kinh nghiệm nhậu cho tôi thấy dân
Biên Ḥa th́ khoái Martel, dân Rạch Gia th́ khoái Hennessy, cổ đen cổ vàng
tùy túi tiền. Dân nhậu hai nơi khác nhau một chỗ nhưng giống nhau một chỗ
khác. Ấy là nói theo tục ngữ “Nhứt phá sơn lâm, nh́ đâm hà bá.” Phá sơn
lâm là nghề làm rừng, hàng đầu là ông Đỗ Cao Lụa ở Biên Ḥa. Ông nầy là bố
của Đại tướng Đỗ Cao Trí. Đứng đầu đâm Hà Bá là công ty Tuhuco, chủ công
ty cũng là một ông tướng họ Đỗ, từng làm đô trưởng Saigon. Ông nầy dân
quận B́nh Phước tỉnh Long An nhưng vợ lại cùng quê với “chị Tư Nết” –
tiếng gọi của dân Vàm Rầy. Bố “chị Tư Nết” là ông chủ Ri. Ông nầy quen
nghề làm ruộng, không quen nghề “hạ bạc”. Hạ bạc là làm nghề đánh cá.
Không rơ đây là tiếng Hải Nàm, tiếng Tiều hay Phúc Kiến. Người Việt gọi
nghề đánh cá là đánh cá, – hay danh ca, chữ không bỏ dấu, – là ca sĩ nổi
tiếng – chớ không gọi là nghề hạ bạc. Tiếng nầy cũng chỉ ở địa phương nầy
mới dùng mà thôi.
Hôm nhận cái “bông” ximăng “xuân thu nhị kỳ”, tôi nói chuyện với ông phó
giám đốc Mai: “Đúng ra ximăng nội phải rẻ hơn ximăng ngoại nhiều lắm. Sao
nhà máy bán mắt quá vậy? Ximăng ngoại khoảng 110 đồng một bao, ximăng Hà
tiên giá 92 đồng, có rẻ ǵ đâu. Dân chúng không có lợi mà ximăng Hà Tiên
cũng khó bán. Hay v́ phẩm chất kém xa?”
Ông phó giám đốc Mai giải thích:
– “Không kém thua bao nhiêu đâu! Cứ đem đúc móng cầu, xây building, cũng
không thua ǵ ximăng ngoại. Tuy nhiên, muốn bán rẻ cũng không được v́ các
phụ gia của ximăng phải nhập, giá cao quá!
Rồi ông ấy lấy ví dụ dầu đốt ḷ. Dầu đốt ḷ phải nhập, qua ngân sách viện
trợ Mỹ, giá cao quá, nên giá thành phải cao. Đó là một.
Thật t́nh là vậy. Một hôm, tôi gặp anh Đoàn Phục, nguyên là một học sinh
của tôi cả chục năm trước. Nay anh làm ở pḥng thí nghiệm (nghiên cứu và
kiểm soát phẩm chất – tên pḥng nầy tôi nhớ không chính xác) của nhà máy
ximăng. Hỏi thăm công việc của anh ta xong, tôi hẹn tới chơi. V́ ṭ ṃ,
tôi tới thiệt.
Dụng cụ trong pḥng tuy không đơn giản nhưng dễ hiểu. Ximăng anh ta nhận
từ ḷ về, – hay anh ta lấy đá đốt trong một cái ḷ nhỏ của pḥng thí
nghiệm -, trộn với nước (theo đúng công thức) để đúng 21 ngày đưa lên máy
thử sức chịu đựng, độ bền, v.v… và làm báo cáo. Theo anh ta giải thích,
phẩm chất không thua ximăng nhập cảng.
Thành ra, nhà máy ximăng Hà Tiên trở thành một “vật trang trí” cho chế độ
miền Nam. Miền Nam xây dựng đủ thứ: Vải (Sicovina), giấy (Cogido), ximăng
Hà Tiên. Bộ mặt đẹp thế mà kém hữu ích. Đó là điều đáng buồn.
Thời ông Thiệu, không hiểu ông ta mần cách chi mà nước Mỹ chịu cho nước
Đức bỏ vốn xây thêm ḷ. Từ khởi thủy đến giờ, nhà máy ximăng chỉ có 2 ḷ
nung. Nay chính phủ Đức viện trợ xây thêm 2 ḷ nữa. Hôm chuyên viên Đức
làm việc ở Saigon xong, đi máy bay của hăng xuống Hà tiên, ông Lê Hữu
Phước, giám đốc, tốt nghiệp ở Ư về, rủ tôi cùng đi đón… cho vui. Tôi đi
theo. Chuyên viên Đức đi thăm thú các nơi và chê hai cái ḷ nung cũ quá.
Thăm núi C̣m, chỗ đang lấy đá, và núi Trầu bên cạnh, chỗ dự tính phát
triển sang đó, chuyên viên Đức chỉ vào cái ống khói nhà máy đang thờ thẩn
nhả khói ra, nói: “Ở Âu Mỹ, với khối lượng núi đá như ở đây, phải có cả
trăm ông khói như thế nầy mới đúng với khả năng của nó.”
Cũng may, ông chuyên viên nầy nói tiếng Pháp nên tôi cũng hiểu ít nhiều,
khỏi phải nhờ thông dịch viên.
Ít lâu sau đó, nhà máy ximăng cho di chuyển một cái xà lan lớn qua núi
Trầu với máy phát điện, xe xích khoan đá, lấy đá về giao cho pḥng thí
nghiệm của Đoàn Phục nung thử, kiểm soát phẩm chất như thế nào!
Nếu phát triển ra, nhà máy ximăng sẽ dựng thêm một nhà máy xay và vô bao
(như ở Thủ Đức lúc đó vậy) tại Cần Thơ. Việc chuyển vận clinker gần hơn và
phân phối thành phẩm cho miền Tây cũng gần hơn, giá rẻ hơn ít nhiều, v.v…
Tuy nhiên, đối với việc phát triển đó, những người vui mừng nhất không
phải là công nhân nhà máy, hay dân chúng mà chính là xă An Ḥa. Dân núi
Trầu chẳng vui ǵ v́ họ sẽ bị đuổi đi xa chân núi hơn để được an toàn, mất
nhà, mất ruộng, mất vườn. Nhất là vườn. Đất ở chân núi Trầu là đất đen, –
gọi là than bùn – trồng rau, nhất là rau muống th́ “hết sẩy”. Dân ở đây
hơn 90 phần trăm là Bắc kỳ (rau muống! như cô Thái Thanh có lần xác nhận
với thính giả ở Queenbee năm 1973 vậy). Họ theo Tây mộ phu đi làm ruộng
dinh điền ở miền Nam khoảng các năm 1939, 40. Khi chiến tranh Việt Pháp
xảy ra, (1945-54), Tây bỏ chạy về Tây, bỏ luôn cả dân mộ phu. Dân đi phu
bây giờ tự lo kiếm sống lấy. Họ cũng theo kháng chiến. Núi Trầu có nhiều
hang động, trở thành công binh xưởng của Việt Cộng hồi đó. May mắn, phần
đông khi đă vào Nam, họ theo đạo Thiên Chúa nên theo kháng chiến mà không
theo Việt Minh. Họ theo kháng chiến một thời gian, theo bộ đội đi đánh
Tây, qua tận Kampuchia đánh Tây như ông Hồng Ràng, ông Năm Vịnh có lần kể
cho tôi nghe, nhưng không ai theo Cộng Sản và cũng không ai tập kết năm
1954.
Tuy nhiên, xă An Ḥa sẽ giàu lên.
Núi C̣m là thổ địa của xă An B́nh. Khi thác đá ở núi C̣m, nhà máy ximăng
phải trả tiền “thổ địa” cho xă An B́nh. Cả chục năm nay nhà máy chẳng trả
xu nào, bỗng năm 1974, xă An B́nh ôm được vài triệu, do nhà máy trả cho,
mặc sức xă tiêu xài, xây dựng xă, v.v…. V́ vậy nên xă An Ḥa hí hững chờ
tiền. Xă Dương Ḥa có núi Xà Ngách kế cận nhà máy, cũng hy vọng nhà máy mó
tới đá núi Xà Ngách, kiếm mớ tiền tiêu chơi, v.v…
Hồi họp nhứt là ông linh mục Nguyễn Thượng Hiền ở núi Trầu. Mới nghe phong
thanh nhà máy ximăng sẽ khai thác núi Trầu, ông cho đệ tử dựng ngay một
cái thánh giá trắng bóc, cao ngất, ở xa ai ai cũng thấy rơ. Muốn lấy đá,
nhà máy sẽ phải dời bỏ cái thánh giá đi, phải bồi thường cho ông hai
triệu, như lời ông yêu cầu.
Tự nhiên chi ra hai triệu cho một cái thánh giá dựng lên với giấy phép của
ông xă Long, xă trưởng An Ḥa, con chiên của cha Hiền, nhà máy ximăng
không có ư kiến. Đâu có phải là tiền túi của ông giám đốc hay ông phó giám
đốc mà lo, nhưng họ phải tŕnh về trung ương, ở đường Vơ Di Nguy, Saigon.
Công việc thăm ḍ phải ngưng lại cho tới khi… Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn
Văn Thôn tự Tiếu, bí thư xă An B́nh ra tiếp thu thị trấn Kiên Lương.
Không rơ Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Văn Thôn tự Tiếu giải quyết yêu cầu của
cha Hiền như thế nào v́ lúc ấy, tôi đă “đóng tiền xin đi ở tù” rồi.
Riêng linh mục Nguyễn Thượng Hiền, mặc dù ông khéo léo không tỏ ra là
người chống Cộng hay thiên Cộng, nhưng chỉ mấy ngày sau khi bọn Nguyễn Văn
Tiếu, Nguyễn Tấn Dũng "tiếp thu" quận Kiên Lương th́ chúng vào bắt cha
Hiền ở nhà thờ An Ḥa. Chúng nó trói tay cha ngược ra đằng sau, dẫn cha
xuống ghe. Không hiểu v́ cha Hiền quá sợ hăi hay v́ tuổi già sức yếu, lụm
cụm khi bước lên ghe, bị một tên du kích đạp cha một đạp. Cha té sấp mặt
xuống sàn ghe, máu me chảy đầy miệng, đầy cằm. Giáo dân có người nh́n theo
cha, nước mắt đầm đ́a, thầm gọi Chúa Mẹ, thương t́nh mà cứu cha qua cơn
khổ nạn.
Hơn năm năm ở trong tù, cha mới được tha, bèn trở về họ đạo cũ, nơi vẫn
chưa có Linh mục nào đến thế chỗ cha.
Hoàng Long Hải
|