Trả lời Trần Hùng Văn, tức Việt Thường
-
Bài 2 -
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
Như đă thưa cùng quư độc giả qua bài: Trả lời Trần Hùng Văn, tức Việt
Thường (Bài 1): đáng lẽ ra tôi không cần trả lời cho Trần Hùng Văn; bởi v́
trước 30/4/1975, Trần Hùng Văn ở một nước Cộng sản “Việt Nam Dân Chủ Cộng
Ḥa”. C̣n tôi, được sinh trưởng tại nước Việt Nam Cộng Ḥa, tôi không hề
biết mặt của Trần Hùng Văn.
Thế nhưng, mặc dù bằng chữ nhẫn, suốt ba năm qua tôi đă im lặng; nhưng
càng ngày Trần Hùng Văn càng bịa đặt thêm những câu chuyện mà không hề
dính dáng với tôi, kể cả chuyện đời tư, để bêu riếu, bôi nhọ chúng tôi. V́
thế, buộc ḷng tôi phải viết lên những chuyện riêng tư của ḿnh, với mục
đích chính, là để cho quư độc giả biết về những hành vi của Trần Hùng Văn,
tức Việt Thường. Và như đă thưa cùng quư vị: chúng tôi chỉ lên tiếng một
lần, chỉ một lần thôi, rồi sẽ không bao giờ trả lời Trần Hùng Văn nữa.
Và sau bài viết đầu tiên (Bài 1), th́ riêng tôi đă nhận được nhiều email
của quư vị cao niên, trong số đó, có vị là Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam
- Đà Nẵng, có vị đă khiến cho tôi vô cùng cảm động khi viết những ḍng
này. Xin phép anh HN để trích một đoạn ngắn như sau:
“…Tôi đọc bài viết của
chị “Trả lời Trần Hùng Văn” mà nghe lòng mình bồi hồi nhớ lại
những năm tháng trong nhà tù CS. Những điều chị viết qủa thực
từ trái tim mình, những giọt máu khổ đau đã rỉ ra qua ngòi bút.
Như chị đã viết “chỉ một lần nầy rồi thôi”. Vâng, một lần là
đủ rồi chị ạ…”
Kính thưa quư vị,
Khi phải viết ra một phần nhỏ của những đau thương ngăy cũ, mà quư vị đă
biết, là những vết thương không bao giờ nguyên lành được, làm sao tôi
không nhớ, không đau xót, v́ tôi không bao giờ quên những cảnh ngộ mà tôi
phải gánh chịu trong suốt những tháng năm dài ấy! Nhưng tôi tự thấy là một
việc phải làm, buộc ḷng phải làm. Chúng tôi xin ghi nhận lời của anh HN
viết:
“…
Những điều chị viết qủa
thực từ trái tim mình, những giọt máu khổ đau đã rỉ ra qua ngòi
bút. Như chị đã viết chỉ một lần nầy rồi thôi. Vâng, một lần
là đủ rồi chị ạ…”
Vâng! Thưa anh HN, xin
chân thành cám ơn anh: chỉ “một lần là đủ”. Tôi sẽ không bao giờ viết nữa,
để cho quá khứ trôi vào quên lăng!
Những ngày tháng cơ cực trước khi rời đất nước:
Rời căn nhà của gia đ́nh, khi mới ra khỏi tù “cải tạo”, bước đầu tiên, là
tôi phải làm nghề may thuê, tới buôn bán áo quần (cũ nhiều hơn mới) ở chợ
trời, Đà Nẵng. Sau cùng, được người bạn gái cũ, có gia đ́nh bên chồng ở
ngoại quốc, thường hay gửi thuốc Tây về cho cô bán. V́ thông cảm với cảnh
ngộ của tôi, nên cô bạn đă giúp đỡ bằng cánh mỗi ngày cho tôi lấy thuốc
Tây của cô đi bán, nếu thiếu tiền, th́ sau khi bán mới trả lại tiền vốn.
Kể từ đó, tôi mới có đủ tiền để mua cây gỗ, tranh để cất nhà ở. Sau khi có
nhà rồi, tôi bán thuốc Tây tại nhà, cho đến khi được bà Bé giao cho những
việc phải làm để được cùng đi vượt biển như: tôi phải lo lương thực, đủ
loại huốc Tây, dầu, nước, hải bàn và phụ tùng máy cho chiếc thuyền. Và tôi
đă lo hết những việc này.
Nhắc lại những điều này, nhân đây, tôi xin phép quư độc giả để được nói
riêng với người D́ của tôi, đang c̣n ở tại Việt Nam:
Con xin thành kính cám ơn D́. D́ là người đă giúp đỡ cho con mượn vàng, để
đóng góp vào chuyến đi. Giờ đây, D́ c̣n ở lại quê nhà. Xin D́ hăy nhận nơi
đây với những lời tâm thành này: Con không bao giờ quên ơn của D́ và em
Thanh Hương.
Người thứ hai, tôi muốn nhắc đến, là ông bà Chung Phước Thành. Tôi xin cám
ơn về sự tin tưởng vào tôi của ông bà, nên ông bà đă đồng ư góp một số
vàng lớn hơn hết vào chuyến vượt biển. Ngoài ra, tôi không bao giờ quên
lời của ông Chung Phước Thành đă nói trước mặt con trai bà chủ thuyền:
“Tôi nói trước với
anh, là nếu xuống bến mà không có chị Tuyền, là gia đ́nh tôi không lên tầu
đâu”.
Tôi hiểu được, sở dĩ, ông Chung Phước Thành nói câu ấy; bởi v́ ông ngại bị
lừa, sợ chủ thuyền chỉ nhờ tôi nói chuyện với ông bà xong, th́ sẽ t́m cách
bỏ tôi ở lại, rồi thay thế những người thân của họ, để thâu thêm vàng bỏ
túi riêng.
Nhưng tôi biết chắc bà chủ thuyền không làm điều đó được, dù bà ấy rất
muốn như vậy. Bởi tất cả những thứ cần thiết như thuốc Tây, phụ tùng máy
tầu, tôi đều giữ trong xách riêng của tôi, tôi chỉ trao cho tài công khi
đă lên thuyền. Mặt khác, tôi và ông bà Chung Phước Thành đă giao kết với
bà chủ thuyền: chỉ sau khi chúng tôi tới Hong Kong an toàn rồi, th́ ở nhà
người thân của ông Chung Phước Thành mới giao số vàng ấy cho những người ở
lại… chứ không đưa vàng cho mẹ con bà chủ thuyền.
Trở lại những tháng ngày cơ cực, buôn bán chợ trời của năm xưa, tôi bỗng
nhớ lại những lời thơ của nhà văn kỳ cựu Hoàng Hải Thủy đă “tả cảnh” của
một trong những chợ trời như những ḍng dưới đây:
“Xem đồ ta, ngắm đồ
người cho vui
T́m vui chỉ thấy
ngậm ngùi
Vỉa hè này những
khóc cười bầy ra
Lạc loài áo gấm,
quần hoa
Này trong khuê các,
sao mà đến đây?!”
V́ sao tôi không xin tỵ nạn
Cộng sản tại Hoa Kỳ:
Nhân đây, tôi cũng xin
tŕnh bày cùng quư vị những nguyên nhân đă khiến tôi phải từ chối không
xin tỵ nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ, đó cũng là một quyết định đă làm cho tôi
không được sống gần những người thân của ḿnh!
Và đây là nguyên do đă
khiến cho tôi phải quyết định như vậy:
Cách đây 27 (hai mươi bảy)
năm, trước khi rời Quê Hương, tôi đă v́ ḷng thương người (không đúng
chỗ), khi TĐS thú thật với tôi là ông ấy có đứa con gái riêng, trong thời
gian sống chung với một người đàn bà, không hôn thú; và ông ta đă đưa đứa
con gái ấy đến gặp tôi.
Và chỉ trong lần đầu tiên
gặp mặt, tôi đă động ḷng thương một cô gái 19 tuổi, với đôi tay khô gầy,
nhăn nheo, gân guốc, v́ nghèo, nên hàng ngày phải đi bán mắm, cá. Tôi
thương cho đôi bàn tay con gái, v́ tôi thấy ngay đôi tay của ḿnh đă từng
lao động cực nhọc, cấy, gặt, đốn củi… trong nhà tù “cải tạo” của Việt
cộng, nhưng vẫn không hề giống như bàn tay của cô gái này. V́ thế, tôi đă
nhận cô ta làm con nuôi, và đồng ư cho cô ta đi theo trong chuyến vượt
biển này, để mong cho cô thoát khỏi cảnh nghèo.
Nhưng cổ nhân đă dạy:
“Dưỡng vật, vật đền
ơn; Dưỡng nhơn, nhơn báo oán”.
Quả đúng như vậy, v́ những
ngày tháng trước khi vượt biển, tôi đă chấp nhận cho cô ta tới nhà, ăn
uống xong rồi đi chơi, c̣n chén bát tôi phải tự dọn rửa. Nhưng chưa đủ,
những người thân của cô ta đă lợi dùng ḷng thương người dại dột của tôi,
để chẳng những đă ăn bám vào tôi, mà c̣n kéo đôi ba người đến một cái quán
ăn ở chợ Hàn, để cùng nhau ăn, ăn xong, họ không trả tiền, rồi bảo bà chủ
quán: “bà hăy ghi tên của cô Tuyền vào sổ nợ, th́ cô Tuyền sẽ trả
tiền”.
Sau nhiều lần, tôi phải bỏ
tiền túi ra để trả tiền “ăn chịu” cho những người này, nên tôi phải nói
cho bà chủ quán biết, là tôi không thể trả được những số tiền ăn như vậy,
và yêu cầu bà không cho họ ghi tên “ăn chịu” như thế nữa.
Phần cô gái mà tôi đă nhận
làm con nuôi, khi đến nhập trại Hong Kong, từ lúc đầu cho tới khi tiếp
kiến Lănh Sự và Phái đoàn Hoa Kỳ, tôi đều cho phép cô ở chung với tư cách
là con trong gia đ́nh của tôi, để cùng sang tỵ nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ.
Thế nhưng, tôi không lường
trước được ḷng dạ tệ bạc, vong ân, bội nghĩa của cô gái kia. Đó là sau
khi chúng tôi được Lănh Sự và Phái đoàn Hoa Kỳ chấp thuận cho sang Hoa Kỳ,
th́ bất ngờ, cô gái kia đă lên văn pḥng Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tại
Hong Kong và nói rằng:
“Tôi không có liên hệ ǵ
với bà Trần Lệ Tuyền, tôi chỉ đi chung với bà một thuyền. Tôi là con ruột
của ông Trần đăng Sơn, c̣n mẹ tôi c̣n ở Việt Nam, xin cho tôi khai lại”.
Sau đó, Văn Pḥng Cao Ủy Tỵ Nạn đă gọi tôi lên, và trao cho tôi những lời
khai của cô ta. Và sau khi đọc xong, tôi đă tŕnh bày với Văn pḥng Cao Ủy
Tỵ Nạn rằng: Đúng như vậy, cô ta không phải là con của tôi, mà tôi chỉ
nhận cô ta làm con nuôi thôi. Nhưng cô ta nhất định không chịu, mà cô đ̣i
Văn Pḥng cao Ủy Tỵ Nạn rằng: “phải tách riêng cho tôi và ba tôi là ông
TĐS thành một gia đ́nh riêng”.
Thấy sự đ̣i hỏi của cô ta như vậy, nên văn Pḥng cao Ủy Tỵ Nạn đă cho cô
ta một thời gian trong ṿng sáu tháng phải gửi thư về Việt Nam, bảo mẹ cô
phải gửi sang cho một tờ hôn thú của cha mẹ cô và một giấy khai sinh của
cô có ghi tên cha là Trần đăng Sơn, để họ giải quyết.
Nhưng qua sáu tháng, qua nhiều lần gửi thư về Việt Nam, nhưng gia đ́nh của
cô ta vẫn không làm sao có được một tờ hôn thú và giấy khai sinh như yêu
cầu của Văn Pḥng Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc. V́ thế, họ đă quyết định
cho tách cô ta ra khỏi hồ sơ định cự tại Mỹ của gia đ́nh của tôi.
Đến nước này, th́ cô ta mới biết là đă làm sai, nên cô ta đă nhờ Văn Pḥng
Cao Ủy Tỵ Nạn giúp đỡ, bằng cách nói với tôi cho phép cô được trở lại làm
con nuôi của tôi, để được cùng lên đường sang Hoa Kỳ. Và văn Pḥng Cao Ủy
Tỵ Nạn cũng đă khuyên với tôi là cũng nên làm như vậy, để khỏi phải làm
lại hồ sơ, để sớm đi định cư tại Mỹ. Nhưng tôi đă từ chối, và yêu cầu Văn
Pḥng Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tại Hong Kong hăy chuyển hồ sơ của tôi
sang Lănh Sự Pháp tại Hong Kong. V́ vào thời điểm ấy, ở Hong Kong, bất kể
người nào, nếu muốn ghi tên xin tỵ nạn Cộng sản tại Pháp, đều rất dễ dàng
và nhanh chóng. Khi nghe tôi tŕnh bày như vậy, th́ Văn Pḥng Cao Ủy Tỵ
Nạn đă yêu cầu tôi như sau:
“Nếu bà muốn từ chối không đi Mỹ, và chuyển hồ sơ đi Pháp, th́ bà phải
viết một lá thư xin từ chối đi Mỹ, để sau này khi ra nước ngoài bà không
được kiện chúng tôi là không chuyển hồ sơ của bà sang Mỹ, v́ diện của bà
là diện sang Mỹ”.
Khi nghe Cao ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc nói như vậy, tôi không hề ngần ngại,
mà liền viết một lá thư từ chối đi Mỹ, và xin chuyển hồ sơ của tôi sang
Lănh sự Pháp. Sở dĩ tôi phải làm như vậy, là để không bao giờ gặp lại cô
ta nữa.
Và sau khi quyết định đi Pháp, th́ có nhiều vị trong trại tỵ nạn như trung
úy Lê Văn Trị, Trung úy Trần Đức Tâm, ông Hồ Châu, ông Hồ Văn Ngộ (là cha
của hai cô Thu và cô Thi trong vụ án Thích Chánh Lạc sau này) đă rất buồn,
v́ muốn tôi cùng đi Mỹ với họ, nên đă khuyên can tôi đổi ư. Tôi rất quư
quư vị ấy, cũng như rất buồn; nhưng tôi đành phải phải sống xa các vị, và
sống xa cả những người thân của ḿnh hiện đang có mặt tại Hoa Kỳ, nhưng
tánh tôi sắt đá trong việc phân minh giữa người hiền và kẻ dữ, nên không
bao giờ thay đổi quyết định của ḿnh.
Thế là, chỉ một thời gian ngắn, khi xin tỵ nạn Cộng sản tại Pháp, sau khi
được tiếp kiến, th́ Phái Đoàn Pháp đă chấp nhận. Và tôi lên đường sang
Pháp. Đặt chân đến Pháp quốc, tôi bắt đầu bằng nghề cắt may áo dài cho phụ
nữ Việt, rồi mua đủ máy móc, để nhận áo quần của các hăng may lớn, đem về
may tại nhà, để đủ lo cho các con của tôi cho đến nay đều vào các trường
Đại Học; đó là một điều mà ngay cả chính quyền Thị xă, các nhà trường cũng
như những người Việt ở cùng thành phố với tôi đều “khen” tôi v́ vừa làm
cha, vừa làm mẹ, mà vẫn lo cho các con học hành có bằng cấp Đại Học từ 5-7
năm (năm đến bảy năm), có việc làm vững chắc.
Về cô gái năm xưa, mà tôi đă nhận làm con; sau đó, cô đă sang Mỹ, cách
đây khoảng gần 10 năm, cô có gọi điện thoại sang Pháp để gặp tôi. Khi bắt
điện thoại lên, tôi đă nghe một giọng nói:
“Mẹ, con gọi cho mẹ đây…”
Khi hỏi ra, tôi mới biết
là chính cô gái ấy, và cô ta đă tŕnh bày:
“Bây giờ con đă hiểu là
con sai, con có lỗi với mẹ, v́ nếu như ngày trước mà Liên Hiệp Quốc có làm
theo ư con, th́ ổng cũng không bao giờ bảo lănh má của con đi Mỹ được, v́
ổng không có thương mẹ của con, cũng không có giấy tờ ǵ chứng minh cả, mà
ổng bả đă bỏ nhau từ trước 30/4/1975, lâu lắm rồi. Bây giờ má con mất rồi,
th́ con xin mẹ nhận con là con…”
Tôi cám ơn cô ta, nhưng nói với cô là tôi không dám nhận cô là con, v́ một
lần, là một bài học, đă quá đủ lắm rồi. Một thời gian sau, có Trung úy
Châu Văn, hiện ở Cali, là một người em họ. Trung úy Châu Văn cũng là một
cựu tù “cải tạo” cùng trại với tôi, đă gọi điện thoại nhiều lần và nói với
tôi:
“Chị à, bây giờ con nhỏ đó
hắn có chồng con rồi, nó biết có lỗi với chị, nó hối hận lắm, nó nhờ tôi
nói với chị xin chị tha thứ cho nó, và hăy nhận nó làm con…”
Ngoài Trung úy Châu Văn,
cũng có mấy người bà con của cô ta cũng gọi sang Pháp nói với tôi những
điều như vậy; song tôi đều trả lời:
Xin đừng nói đến chuyện
tha thứ, v́ tôi đă tha thứ cho cô ta từ lâu rồi. Nhưng, một lần đă đủ, bài
học thương người đặt không đúng chỗ ấy, suốt đời tôi không thể nào quên.
V́ thế, tôi không bao giờ gặp lại cô ta nữa!
Trên đây, là lư do tôi không xin tỵ nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ. Chuyện riêng
tư này, đáng lẽ tôi không cần phải viết ra. Tuy nhiên, tôi biết ḷng dạ
của Trần Hùng Văn, tức Việt Thường vốn là một kẻ tiểu nhân, đê tiện,
chuyên môn xuyên tạc những sự thật, chụp mũ, vu khống… nên tôi phải giải
thích cùng quư độc giả, chứ không phải “phân bua” với Trần Hùng Văn.
Và một trong vô số những chuyện đê tiện, nhỏ mọn của Trần Hùng Văn là
trong một đoạn cuối của cái audio gọi là “Trả lời Thế Huy…” như sau:
“Trần Lệ Tuyền, nó đưa một
tấm h́nh có ghi ngày 8 tháng Ba năm 2011, nhưng nó chụp đâu từ đời tám
hoánh, c̣n nh́n vào h́nh nó chụp trong Lễ tưởng niệm 50 năm TT Ngô Đ́nh
Diệm trông như một bà cụ…”
Chuyện một tấm h́nh, nếu
là người lớn thật sự, không ai lại đi soi mói như thế. Tuy nhiên, nhân
đây, tôi cũng xin giải thích luôn: Tấm h́nh ấy, không phải tôi
“chụp
từ đời tám hoánh”
như Trần Hùng Văn
đă nói, v́ tấm h́nh này của tôi, do một người bạn thân lúc ấy đă chụp cho
tôi tại phi trường Birmingham, Anh quốc. Mà
“từ
đời tám hoánh”,
th́ tôi đâu có quen
biết người nào ở bên Anh quốc, vậy tôi sang nước Anh để làm ǵ mà chụp
h́nh bên đó. Và tấm h́nh này, vốn chụp toàn thân, nhưng sau đó, đă được
cắt ra thành h́nh bán thân.Trần Hùng Văn cần phải biết, khi đă nói ra một
chuyện nhỏ nhặt này, th́ đă chứng tỏ cho cái ḷng dạ nhỏ nhen, soi mói
thua kém hẳn tư cách của một thằng con nít chăn trâu tại miền Nam ngày xưa
vậy.
Ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất đă nói về Trần Hùng Văn, tức Việt Thường:
Viết đến đây, tôi muốn xin thưa cùng quư vị, trước đây, qua mấy lần nói
chuyện với ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất. Tôi đă được nghe chính ông Duyên
Lăng Hà Tiến Nhất đă nói về Trần Hùng Văn, tức Việt Thường, mà tôi đă cho
nhiều người nghe lại, nguyên văn như sau:
“Tôi đâu có tin
tưởng Việt Thường, v́ mỗi lần hắn gọi cho tôi, th́ ban đầu hắn cũng giả vờ
nói giọng gần chết, hắn cứ ho khẹc… khẹc… nhưng nói một hồi lâu, khi nói
hăng quá, th́ hắn quên mất, nên hắn cứ nói oang oang và cười lên hô… hố…
và có lần Việt thường, hắn nói hắn chấm tử vi đúng lắm, hắn bảo tôi đưa
cho hắn tên họ, ngày, tháng, năm sinh của tôi và vợ con tôi, để hắn chấm
cho một lá số chính xác. Tôi nghe lời hắn, đă đưa hết cho hắn như hắn yêu
cầu, nhưng rồi sau đó, hắn đi đâu không biết, v́ lâu quá hắn không gọi cho
tôi, mà tôi không có số điện thoại của hắn, tôi cũng có hỏi anh Chung, th́
anh Chung cũng cho biết không có số điện thoại của hắn, nên tôi phải gửi
email qua cho Hà Tiên tức là Phong Lan đó, để nhắn với hắn, mục đích để
hỏi hắn về chuyện chấm tử vi cho gia đ́nh của tôi…
Tôi cũng nghi ngờ
Việt Thường lắm, nhất là cái chuyện hắn luôn giấu biệt tông tích của hắn,
cả số điện thoại mà hắn cũng không cho tôi, cũng không cho cả anh Chung
nữa … Có lần hắn gọi cho tôi, hắn nói bây giờ hắn đă ra ngoài đảo, không
c̣n ở trong đất liền…”
Và một lần khác, ông Duyên
Lăng Hà Tiến Nhất đă nói với tôi:
“Hồi trước kia, khi
anh Chung chưa loại Việt Thưởng ra khỏi Hồn Việt, th́ Việt Thường có nói
với tôi là đă nói với anh Nguyễn Đức Chung rằng: Nếu tôi có mệnh hệ ǵ,
th́ anh Chung hăy mời ông Hà Tiến Nhất làm cố vấn, và anh Chung cũng đă
đồng ư như thế, nhưng lâu nay, tôi chờ hoài, mà không thấy anh Chung nói
ǵ với tôi cả”.
Khi tôi đem những chuyện
này kể lại với ông Nguyễn Đức Chung, th́ những chuyện khác chưa nói tới.
Nhưng riêng về chuyện mời ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất làm cố vấn, th́ ông
Nguyễn Đức Chung đă trả lời:
“Đúng là ngày xưa, lúc tôi c̣n tin Việt Thường chống Cộng, lại nghe Việt
Thường nói là ông ta bị ung thư phổi vào thời kỳ cuối cùng, tôi tin luôn,
nên mới đề nghị tặng một lá phổi, và tôi mới đồng ư với cả Việt Thường và
ông Hà Tiến Nhất là nếu Việt Thường có mệnh hệ ǵ, th́ sẽ mời ông Hà Tiến
Nhất làm cố vấn cho tôi. Nhưng bây giờ, mọi sự đă hoàn toàn khác, v́ nói
“có mệnh hệ ǵ, th́ có nghĩa là khi Việt Thường chết. C̣n hiện giờ Việt
Thường vẫn c̣n sống mạnh khỏe, không hề bị ung thư phổi thời kỳ cuối cùng.
Nhất là tôi đă không c̣n tin tưởng Việt Thưởng và đă loại Việt Thường ra
khỏi Hồn Việt rồi; trong khi đó, qua những bài viết ông Duyên Lăng Hà Tiến
Nhất luôn tuyên bố Việt Thường là cùng chung chí hướng với ông Hà Tiến
Nhất, lại c̣n dùng những “tài liệu là văn bản chính thức của đảng Cộng sản
Việt Nam” do Việt Thường cung cấp, th́ nếu tôi mời ông Hà Tiến Nhất làm cố
vấn cho tôi, th́ chẳng lẽ tôi mời ông Hà Tiến Nhất thế chỗ của Việt
Thường. Như vậy, cũng vẫn là Việt Thường, đâu có khác ǵ đâu. V́ thế, tôi
không mời ông Hà Tiến Nhất là vậy”.
Và gần đây, qua một lần
điện đàm giữa ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất và ông Nguyễn Đức Chung, th́ hai
người cũng đă nhắc lại chuyện “mời ông Hà Tiến Nhất làm cố vấn”. Ngoài
chuyện này, ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất cũng nói với ông Nguyễn Đức Chung
là
“tôi cũng nghi ngờ Việt Thường, không tin Việt Thường… xin cho tôi một
thời gian nữa, để tôi theo dơi Việt Thường…”
Cuộc điện đàm này,
có lẽ ông Nguyễn Đức Chung c̣n lữu giữ…
Nên nhớ, những lời nói của
ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất vẫn c̣n đó, chứ không phải đă “gửi gió cho
ngàn bay”. Tuy nhiên, tôi không hiểu những ǵ ông Hà Tiến Nhất đang làm,
cũng như những lời ông của DLHTN đă nói là có đúng như những suy nghĩ thật
trong tâm tư của ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất hay không?
Trần Hùng Văn, tức Việt Thường với “khả năng nói có thành không; Nói không
thành có”.
Như quư độc giả đă thấy
qua hai bài viết: “Trả lời nhà báo Thế Huy qua bài:
Trả lời Nhà báo Thế Huy qua bài viết: “Việt Thường, ông là ai?”
và
“Lư
do tôi loại
Việt Thường tức Trần Hùng Văn ra khỏi Hồn Việt UK online”
(Nguyễn Đức Chung).
Ông Nguyễn Đức chung đă cho biết Trần Hùng Văn, tức Việt Thường đă
“khoe” với ông Chung là
“Tôi có khả năng nói có thành không; Nói không thành có”.
V́ vậy, bởi chính
cái “khả năng” này, mà Trần Hùng Văn, đă nói, đă viết ra vô số những
chuyện “có thành không; Không thành có”. Mà một bằng chứng không chối căi
được, là chính Trần Hùng Văn, tức Việt Thường đă tự ư bịa đặt, dàn dựng ra
những chuyện hoàn toàn không hề có để miệt thị, hạ nhục Tổng Thống Ngô
Đ́nh Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu qua loạt bài “Giấc Nam Kha khéo bất b́nh”
như:
“ông Diệm nghiện món bồ
câu nhồi yến – Nguyễn Công Tài, con trai của Nguyễn Công Hoan đă vào miền
Nam gặp ông Ngô Đ́nh Nhu tại nhà của Mă Tuyên, v́ Mă Tuyên là người làm
kinh tài cho gia đ́nh ông Diệm v…v…”
Những điều hoàn toàn bịa đặt trong “Giấc Nam Kha khéo bất b́nh”, th́ không
riêng ai, mà bất cứ một công dân nào của nước Việt Nam Cộng Ḥa, và ngay
cả những người dân của miền Bắc, nói chung mọi người dân Việt, đều có
quyền lên tiếng, phân tích về những điều bịa đặt ấy, để cho mọi người,
cũng như lớp hậu sinh biết thật rơ ràng về nhân cách của Tổng Thống Ngô
Đ́nh Diệm: Người đă khai sáng Thể chế Cộng Ḥa tại Việt Nam: Việt Nam Cộng
Ḥa.
Kết luận:
Như đă thưa cùng quư độc giả, v́ chúng tôi cần phải cạy cái mồm của Trần
Hùng Văn, tức Việt Thường, buộc Trần Hùng Văn phải lên tiếng một lần, (bởi
biết trước Trần Hùng Văn sẽ nói LÁO) để chúng tôi lên tiếng trả lời Trần
Hùng Văn về những chuyện hoàn toàn bịa đặt với mục đích đê tiện, là để bêu
riếu, bôi nhọ chúng tôi. Và như anh HN đă viết “một lần rồi thôi”, không
bao giờ trả lời Trần Hùng Văn nữa, mặc cho Trần Hùng Văn có muốn vẽ vời,
bịa đặt ra bất cứ một chuyện ǵ, th́ cũng như Trần Hùng Văn đă bịa ra
những câu chuyện LÁO như sau:
1-
“Hàn Giang Trần Lệ Tuyền đă từng ở trong “Liên Khu 5 của VGCS”.
Nhưng sự thật, th́
vào thời điểm có cái gọi là “Liên Khu 5” của Việt cộng, (khoảng năm
1946-1947) th́ lúc ấy, Cha tôi chưa gặp, chưa cưới Mẹ của tôi. Nghĩa là
tôi chưa được sinh ra đời.
2-
“Năm 1979, Hàn Giang Trần Lệ Tuyền đă được VGCS cho sang Pháp, để
xâm nhập vào tổ chức của ông Trần Văn Bá, để giết chết ông Trần Văn Bá”.
Trong khi quư vị Cựu
Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam-Đà Nẵng đă chứng kiến vào năm 1979, tôi, Hàn
Giang Trần Lệ Tuyền vẫn c̣n đi đốn củi, cuốc đất trồng sắn, cấy, gặt… dầm
ḿnh dưới những đồng ruộng śnh lầy sâu tới bụng, tới ngực làm mồi cho đỉa
trong “Trại T.154”, tức “Trại cải tạo” Tiên Lănh, Tiên Phước, Quảng Nam.
3-
“Hàn Giang Trần Trần Lệ Tuyền đă đi với Hoàng Duy Hùng sang Thái
Lan, để bán 320 đảng viên Đại Việt cho Việt cộng”.
Đây cũng là một
trong số câu chuyện hoàn toàn bịa đặt vô cùng LÁO KHOÉT của Trần Hùng Văn,
tức Việt Thường, v́ bản thân tôi chưa hề đặt chân tới đất Thái Lan; chưa
bao giờ có giao tiếp với đảng Đại Việt.
Và để kết thúc bài này. Tôi, Hàn Giang Trần Lệ Tuyền xin phép quư độc giả
để thưa cùng quư vị đă từng bị Trần Hùng Văn, tức Việt Thường vu khống,
chụp mọi thứ mũ, th́ hăy xem những cái mũ LÁO, mà Trần Hùng Văn đă chụp
cho tôi, th́ chắc chắn sẽ hiểu thêm rằng: Trần Hùng Văn, tức Việt Thường
sẽ không từ bất cứ một hành vi tiểu nhân, đê hèn, ti tiện, bỉ ổi nhất…, để
t́m cách chụp nhiều cái mũ khác cho bất cứ một người nào, mà Trần Hùng
Văn, tức Việt Thường thấy cần phải “vùi dập” cho tới “chết”.
Tuy nhiên, có “vùi dập” có làm cho người nào “chết” được hay
không lại là chuyện khác! “Mưu sự tại nhân; Thành sự tại thiên”, nênTrần
Hùng Văn, tức Việt Thường cần phải ghi nhớ:
“Trên đường đi, nếu mỗi
lần chó sủa là mỗi lần ta dừng bước, th́ ta sẽ không bao giờ đi tới
mục đích sau cùng”.
Và một lần nữa, Hàn Giang Trần Lệ Tuyền xin phép quư vị, để được nhắc lại
một câu ngắn, mà tôi đă từng gửi lên các diễn đàn như sau:
Nếu có một ai đó, tự ư muốn vẽ chân dung cho ḿnh; Nhưng lại hoàn toàn
không giống ḿnh, th́ “bức chân dung” ấy, không bao giờ là của ḿnh cả.
Xin chân thành cám ơn quư vị, đă chịu khó đọc hết những ḍng chữ “chân
quê” này. Kính chúc Qúy vị cùng gia đ́nh luôn được Bằng An-Thăng Tiến.
Trân trọng,
Paris ngày 03/10/2014
Hàn
Giang Trần Lệ Tuyền
- -----------------------------------------------------
Phụ chú: Kính mời quư độc
giả theo dơi bài viết của Trần Hùng Văn, tức Việt Thường bịa đặt về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm và những người thân của Ông dưới đây.
Chuyện thâm cung dưới triều đại Hồ chí Minh: Chuyện 30 năm về
trước
-Việt Thường -
|
Chuyện thâm cung dưới triều đại Hồ Chí Minh, của tác giả
Việt Thường; từ trang 41 đến trang 52. Nhà xuất bảnTân Văn
(Sài G̣n nhỏ) do Giám đốc Hoàng Dược Thảo phát hành năm
2008
GIẤC NAM KHA KHÉO BẤT B̀NH…
Sau khi các nhóm cộng sản ở ba miền Bắc, Trung
và Nam của Việt Nam hợp nhất được vài tháng th́ ông Hồ chí
Minh lấy cớ theo lệnh của đệ tam quốc tế bắt đổi tên đảng
thành "đảng cộng sản Đông Dương". Có điều đáng lưu ư là
trong ban chấp hành của đảng do Trần Phú làm tổng bí thư
đầu tiên, không hề có mặt một người nào là Lào hay
Cam-bốt. Như thế có nghĩa là cái đảng cộng sản Đông dương
do Hồ chí Minh sáng lập có nhiệm vụ nhuộm đỏ cả Lào lẫn
Cam-bốt mà chẳng cần có ư kiến dù chỉ là một người của
nước Lào hoặc Cam-bốt.
Thực dân Pháp đă xâm
lăng ba nước Việt Nam, Lào và Cam-bốt, xóa sổ ba nước có
truyền thống văn hóa và lịch sử c̣n lâu đời hơn của nước
Pháp trên bản đồ thế giới; đổi thành Đông Dương thuộc
Pháp, chia thành năm xứ là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào
và Miên. Tất cả đều dưới quyền cai trị của một viên toàn
quyền Đông Dương với các chức sắc kế cận là thống sứ và
công sứ ngưới Pháp, song song là hệ thống vua quan người
bản xứ.
Chẳng phải suy diễn, mà chính
từ cái tên đảng cộng sản Đông Dương với toàn bộ ban chấp
hành là người Việt Nam cũng nói lên tham vọng của người
sáng lập ra nó là Hồ chí Minh - có tên Nga là Line - muốn
sau khi lật đổ chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương,
th́, cái "ngôi" toàn quyền sẽ là chỗ của Hồ chí Minh, các
thống sứ và công sứ sẽ là các ủy viên ban chấp hành trung
ương đảng cộng sản Đông Dương. Đương nhiên sẽ phải có các
chức sắc bù nh́n song hành là người bản xứ. Và, cái "Liên
bang Đông Dương đỏ" này có mẫu quốc là Nga-xô, v́ kẻ đứng
đầu nó là Line (tức Hồ chí Minh), một người Nga gốc Việt,
mọi mục tiêu, mọi hành động đều v́ quyền lợi của nước
Nga-xô. Không chỉ là người hoạch định
đường lối, Hồ chí Minh c̣n đích thân bôn ba, lặn lội khắp
vùng biên giới của Việt Nam cũng như Lào và Cam-bốt để
chọn người, tổ chức và đào tạo các nhân sự trung kiên cho
bộ máy cai trị của Liên Bang Đông Dương đỏ sau này.
Kể từ ngày đảng Cộng sản Đông Dương được khai
sinh (1930) cho đến ngày thở hắt ra, nằm đấy cho các
chuyên gia Nga-xô moi óc, moi hết ruột gan, ướp xác
(9-1969), gần cả bốn chục năm trời, Line (tức Hồ chí Minh)
chỉ thực hiện được không trọn vẹn một phần năm tham vọng
của ḿnh: nằm tại phủ toàn quyền Đông Dương chỉ để cai trị
"xứ Bắc Kỳ" và thêm vài tỉnh của "xứ Trung Kỳ".
Trước năm 1945, Line (tức Hồ chí Minh) đă tự bấm số tử vi
cho ḿnh và đoán đúng là thành công vào lúc 55 tuổi (tức
1945) (xem "Những năm tháng không thể nào quên" của Vơ
nguyên Giáp). Vào giữa những năm của thập niên 1960, Line
(tức Hồ chí Minh) lại xoay qua nghề của Tả Ao (thầy địa
lư). Ông thường mượn cớ đi "kinh lư" khắp nơi để t́m đất
thiêng. Cái mảnh đất lư tưởng đó của ông là vùng Ba V́
(xưa thuộc tỉnh Sơn Tây, nay nhập thành một huyện của
Hà-nội). Ông đă lén chôn tất cả những cái răng bị rụng của
ông ở đó, hi vọng nó sẽ bột phát cho ông được làm "Hoàng
đế Đông Dương" dù chỉ một ngày... trước khi... " đi thăm
Các-Mác và Lê-nin".
Bàn tay Line (Hồ chí
Minh) đă vấy đỏ máu người mà có dùng hết nước biển
Đông cũng không rửa sạch được. Không chỉ giết "kẻ thù",
tay ông c̣n vấy máu của các đồng chí của ông, của dân tộc
đồng bào với ông, của những người mà ông chịu ơn cưu mang
khi hoạn nạn (như bà Nguyễn thị Năm, chủ đồn điền Đồng
Bẩm, Thái Nguyên; như kỹ sư nông học Đào đ́nh Quang, chủ
đồn điền Đào Giă, Phú Thọ; như chánh tổng Vạn Phúc, Hà
Đông v.v...). Ấy vậy mà Line (tức HCM) sợ chết, ông không
dám nói đến chữ "chết", cái tiến triển tất yếu của đời
người mà chỉ nói là đi "thăm"... nghĩa là đi vắng vài
buổi, hoặc vài tháng, hoặc vài năm... để trở về sẽ thấy
"mấy cái răng" của ông nhờ táng được vào đất thiêng đă
"bột phát" cho ông thành "hoàng đế" hoặc "chủ tịch vĩ đại"
của toàn khối Đông Dương. Buồn thay, tất cả vẫn chỉ là
giấc mơ. Giờ đây, Line (tức HCM) nhắm mắt nằm trong lăng,
ch́nh ́nh ở giữa Hà-nội, ông không thể thấy được cái mộng
"Liên Bang Đông Dương" của ông đang là một hiện thực thảm
hại. Phải chăng cái ngày đi kinh lư vùng Ba V́, khi lén
chôn mấy cái răng sâu của ḿnh, Hồ bấm theo giờ đổi mới
của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, có sai với giờ thời cụ
Tả Ao nên nó không linh nghiệm, hoặc giả v́ những chiếc
răng ấy ăn quá nhiều thai nhi ngâm mật ong gốc Hà Giang
nên nó phát ngược lại?
Kế hoạch cấy người của Line (tức HCM) rất tinh vi. Thử
lược lại những nét lớn th́ thấy :
ĐỐI VỚI LÀO
Nước Lào cộng sản có hai nhân vật
quan trọng nhất, đó là Tổng bí thư Lào cộng, Cay-Xon
Phôm-Vi-Hản và hoàng thân Xu-Va-Na Phu-Vông, chủ tịch
nước, ủy viên bộ chính trị Lào cộng. Chẳng ai có thể ngờ
rằng ông Cay-Xon Phôm-Vi-Hản chính là một người Việt Nam,
quê ở Tự Sơn (Bắc Ninh). Tên thật là Xông, làm cai lục lộ,
được giác ngộ và gia nhập đảng cộng sản Đông Dương. Cai
Xông sau vào làm việc ở Nha Trang và đi Lào. Chính ở đây,
Cai Xông đă gặp kỹ sư công chính Xu-Va-Na Phu-Vông, và
theo lệnh của Line (tức HCM) đă móc nối và kết nạp ông
hoàng Xu-Va-Na Phu-Vông vào đảng công sản. Để nắm chặt
được ông hoàng người Lào này, người của ông Line (tức HCM)
không chỉ kích động cái cảnh con vợ cả, nàng hầu của ông
hoàng Xu-Va-Na Phu-Vông và ông hoàng Xu-va-na Phu-ma; bằng
cách vạch cho ông hoàng Xu-va-na Phu-vông con đường duy
nhất để chiếm quyền của ông Phu-Ma là phải đi theo cộng
sản, mà c̣n cột ông Xu-Va-Na Phu-vông vào một cô gái Việt
Nam, gốc Nha Trang, sau trở thành vợ của ông ta.
Trong những năm chiến tranh, người của Line (tức HCM),
tất nhiên là người Việt Nam chính hiệu, đă sang Lào điều
hành toàn bộ guồng máy công an, quân đội, thương nghiệp,
giao thông vận tải và bưu điện truyền thanh.
Cai
Xông lấy vợ Lào, đổi tên thành Cay-Xon Phôm-Vi-Hản, nhưng
trước 1975, vẫn ở tại ṭa vi-la ở phố Nguyễn gia Thiều (Hà
Nội) kế bên cố vấn tối cao của ông ta là thiếu tướng
Nguyễn trọng Vĩnh, ủy viên dự khuyết trung ương cộng đảng
kiêm ủy viên quân ủy trung ương.
Hiệp định
Genève về Lào, Hoàng văn Hoan, ủy viên bộ chính trị cộng
đảng được Line (tức HCM) giao cho làm cố vấn tối cao của
đoàn Việt Nam, nhưng thật ra cũng đồng thời là cố vấn tối
cao cho đoàn Lào cộng.
Để ve vuốt ông hoàng
Phu-Ma, Line (tức HCM) cho mở tại Hà-nội hai ṭa đại sứ,
một của Vương Quốc Lào, một của Lào Cộng. Ṭa đại sứ Vương
Quốc Lào là một biệt thự nguy nga thuộc loại hiếm của
Hà-nội, tọa lạc ở đại lộ Quang Trung. Cơ quan an ninh của
Hà-nội đă cài được hai cô gái Việt Nam lấy chồng là nhân
viên của sứ quán Vương Quốc Lào. Cô H., gốc Việt kiều ở
Thái Lan về Bắc Việt Nam, sau có vẻ lơ là với nhiệm vụ,
theo chồng đi nước khác; chỉ c̣n cô Lê Thị N. vẫn c̣n sáng
giá, nhờ đó các em trai dù mắc các tội chứa điếm, ăn cắp,
buôn lậu Bắc-Nam, vẫn được vô tội. Chẳng thế, một người
c̣n được cho vượt biên sang Úc, c̣n đứa em trai út được
làm trong ngành điện ảnh có nhiều liên hệ với ṭa lănh sự
Pháp ở Sài-g̣n hiện nay và cũng là một trùm "mánh mung,
buôn lậu", hay gần gũi cả giới văn nghệ sỹ lẫn dân "phe
phẩy", có tên là Lê đ́nh Th., một mú của Dương Thông.
ĐỐI VỚI CAM BỐT
Lợi dụng bệnh
chính trị thất thường của ông hoàng Xi-Ha-Núc của Cam-Bốt,
Line (tức HCM) trong thời kỳ cho quân vào xâm lăng miền
Nam, đă tận dụng vùng đất Mỏ Vẹt của Cam-Bốt, làm khu an
toàn cho nơi tập kết quân đội và vũ khí mỗi khi khó khăn,
c̣n dùng nơi đó làm căn cứ tập trung và đào tạo sơ khởi
cho những người dân Cam-Bốt, tạo thành đạo quân thứ năm
cho chính quyền của ông Line ở Cam-Bốt. Hầu hết các nhân
vật chóp bu của cộng sản của Cam-Bốt đều được guồng máy
của Line lựa chọn và đào tạo bằng cách này hay cách khác.
Hênh Som-Rin và Hun-Sen đều được ăn học tại Hà-nội. Và,
ngay Pôn-Pốt cũng chính là do tay chân của ông Line tuyển
chọn. Tên thật Pôn-Pốt là Hai Nghĩa, vốn là người Việt gốc
Miên ở Sa-Đéc. Nghĩ rằng cái nguồn gốc đó có thể cột chặt
được Pôn-Pốt với chính quyền của Line ở Hà-nội, nào hay
ông Mao Trạch Đông lại hiểm hơn, múa lại bài vơ của ông
Line với hoàng thân Xu-Va-Na Phu-Vông, cài cho Pôn-Pốt
(tức Hai Nghĩa) lấy cô vợ Tàu. Trong canh bạc này Line bị
Mao phổng tay trên mất ù. Và, hậu quả như chúng ta đă
biết. Ve văn hoàng thân Xi-Ha-Núc của Cam-Bốt cũng như
ông hoàng Phu-Ma của Lào bằng cách đẻ ra cái hội nghị "Ba
nước Đông Dương" với tấm ảnh màu chụp cảnh Phạm văn Đồng,
Nguyễn hữu Thọ (tượng trưng cho Nam Việt Nam), Xi-Ha-Núc,
Xu-Va-Na Phu-Ma và Xu-Va-Na Phu-Vông trên trang b́a báo
Ảnh Việt Nam, Line hỉ hả ngồi ở phủ toàn quyền Đông Dương
ở Hà-nội tưởng như nắm chắc cái ngai "chủ tịch vĩ đại" của
Liên Bang Đông Dương đỏ. Nào ngờ... Mà, nào ngờ thật, bởi
Line đă mau chóng quên canh bạc ở ngay chính miền Nam Việt
Nam ông đă tưởng như ăn chắc trong chuyến đi đêm với anh
em nhà ông Ngô Đ́nh Diệm, tổng thống nền đệ nhất cộng ḥa
của miền Nam Việt Nam. Chỉ có người dân đen ở Hà-nội là
tỉnh táo khi mượn kiểu thơ Bút Tre để nói rằng :
"Hoan hô quốc trưởng Xi-Ha Núc na. núc ních sang Ta
sang Tàu Sang Ta rồi lại sang Tàu Núc na núc ních
theo Tàu bỏ Ta."
và :
"Hai Nghĩa cũng như con nhện Lấy vợ Tàu quyến quyện bỏ
đi Ṭ ṿ Hồ ngồi khóc tỷ ty Pôn-Pốt ơi! Pôn-Pốt hỡi!
Mày đi đằng nào?"
CANH BẠC VỚI HỌ NGÔ
Những trí thức ở Bắc Việt Nam (trước 1975) dám làm cái
việc như cụ Tả Ao ngày xưa là mở một mắt nh́n vào sự thật
đề pḥng có mù th́ mù một mắt, đă thấy từ lâu mối quan hệ
của cái thế "môi sứt và răng hô" giữa Bắc Việt Nam và
Trung Cộng. Chỉ có giới chức cầm quyền cộng sản Việt Nam,
sau sự cố 1979 "hàm răng vẩu Trung Cộng cắn chảy máu cái
môi sứt của Thị Nở Việt Cộng" th́ Nguyễn duy Trinh, ủy
viên bộ chính trị cộng đảng, phụ trách phó thủ tướng kiêm
bộ trưởng ngoại giao mới chua chát nói đến bị anh hai
Trung Cộng ức hiếp trong một phần tư thế kỷ của mối t́nh
"vừa là đồng chí vừa là anh em". Cuốn sách của Nguyễn duy
Trinh tố cáo Trung Cộng đă đạp "thắng gấp" hăm đà "thừa
thắng xông lên" của quân đội tướng Giáp nhằm "giải phóng"
hoàn toàn Việt Nam khỏi tay thực dân Pháp chuyển giao cho
thực dân đỏ mà Line là người đại diện. Cho nên mới đẻ ra
cái giải pháp chính trị trong hiệp định Genève năm 1954 về
Việt Nam. Thế là thắng trận trên chiến trường nhưng lại
thua trận trên b́nh diện chính trị. Bởi, năm 1945 - lúc 55
tuổi – Line được là chủ tịch của cả nước Việt Nam - từ địa
đầu Hà-giang cho đến mũi Cà-mâu - thế mà sau 9 năm lừa dân
tiêu thổ, trường kỳ kháng chiến, Line chỉ c̣n là chủ tịch
của Việt Nam, cái phần "khúc đầu những xương cùng xẩu" và
tư chút "khúc giữa những máu cùng me". C̣n khúc đuôi miền
Nam, chỗ ngon lành nhất th́ đành phải nghiến răng "tha hồ
mà đuổi".
Cùng thời điểm xuất phát từ
1954, khi Line mang theo bầu đoàn nhếch nhác từ Việt Bắc
về Hà-nội th́ anh em ông Ngô Đ́nh Diệm về Sài-g̣n. Qui
định của hiệp định Genève 1954 là sau 2 năm sẽ tổng tuyển
cử thống nhất ở cả nước Việt Nam... để người dân Việt Nam
được tự do lựa chọn chế độ chính trị và người đại diện của
ḿnh. Nhưng, năm tháng cứ đi qua, cho đến tận cuối năm
1992 này, gần 40 năm sau cái ngày qui định trong hiệp định
Genève 1954 về Việt Nam ấy, hai chữ tự do vẫn là cái ǵ đó
xa vời vợi với người dân Việt Nam. V́ sao vậy? Bởi v́, từ
khi được quyền quản lư tạm thời một nửa nước Việt Nam từ
vĩ tuyến 17 ra phía Bắc, Line và tay chân thân tín đă "đào
tận gốc, trốc tận rễ" tất cả mọi giai tầng của xă hội Bắc
Việt Nam, để "trồng những con người mới xă hội chủ nghĩa"
chỉ biết phá hoại mà không biết xây dựng; chỉ biết căm thù
mà không biết yêu thương; chỉ biết giết mà không biết nuôi
dưỡng; chỉ biết nhất cử nhất động là nhằm bảo vệ "Liên xô,
thành tŕ cách mạng thế giới" chứ không phải là bảo vệ đất
đai và dân tộc Việt Nam với trên bốn ngàn năm văn hiến.
Cho nên cả miền Bắc Việt Nam trở thành một nhà tù lớn, một
trại lính vĩ đại. Sợ hăi, đói khổ, phát triển thú tính là
những nét đặc trưng của xă hội miền Bắc Việt Nam lúc ấy.
Trong lúc đó, cái khoảng thời gian của 1955-1959 lại là
giai đoạn thịnh trị của miền Nam Việt Nam dưới nền đệ nhất
cộng ḥa mà tổng thống là ông Ngô Đ́nh Diệm. V́ thế, Line
không muốn và cũng không thể thực hiện được điều khoản
tổng tuyển cử tự do trong cả nước. Với sự mách nước của
phó vương Lavritchev, đại sứ đặc mệnh toàn quyền của
Nga-xô ở Hà-nội; Line cho khai tử cái gọi là Mặt Trận Liên
Việt, thay bằng Mặt Trận Tổ Quốc với một cương lĩnh mới mà
nội dung là các điều khoản áp đặt cho miền Nam Việt Nam bị
nhập vào với miền Bắc Việt Nam, dưới quyền cai trị của
Line, nghĩa là đưa đến cái thế không thể có tổng tuyển cử.
CHỈ MỘT BƯỚC TỪ CÁI VĨ
ĐẠI ĐẾN CÁI LỐ BỊCH
Câu nói trên
của Napoléon vào lúc tụt dốc cũng đúng với ông Ngô Đ́nh
Diệm. Cho đến năm 1959, quả rằng ông Ngô Đ́nh Diệm đă thổi
vào miền Nam Việt Nam một luồng sinh khí mới mà ngay kẻ
thù của ông cũng không thể phủ nhận được. Miền Nam Việt
Nam thay da đổi thịt. Các nguồn lợi kinh tế đă có phần của
người Việt Nam, không c̣n là sự độc quyền của chú Hỏa với
đồng bào của chú ta nữa. Nạn cát cứ giáo phái được dẹp
yên. Đời sống của người dân miền Nam Việt Nam, dưới sự
lănh đạo của ông Ngô Đ́nh Diệm đi theo chiều tích cực trên
mọi b́nh diện, hoàn toàn ngược với xă hội miền Bắc Việt
Nam do Line thao túng. Tiếc rằng
cái thời vàng son của miền Nam
không được bao lâu đă chết yểu v́ cơ chế độc tài, đảng
trị, gia đ́nh trị của ông Ngô Đ́nh Diệm càng về sau càng
phát triển mạnh trên cơ sở của sự thỏa măn và tính tự cao
về thành tích sơ khởi đạt được.
Trong khi đó, với cái dă tâm làm "chủ tịch vĩ đại" của cả
Liên Bang Đông Dương, Line cho tập kết lực lượng thân cộng
từ miền Nam ra miền Bắc như hiệp định Genève 1954 về Việt
Nam qui định, nhưng vẫn để lại một lực lượng mạnh cả quân
đội lẫn tổ chức đảng. Số lính chính qui và địa phương quân
cùng du kích có tổng số hơn bốn trăm ngàn người. Giới lănh
đạo của xứ ủy miền Nam chỉ có Lê Duẩn và Phạm Hùng ra Bắc,
c̣n lại nguyên bộ xậu ban lănh đạo của cộng đảng gồm các
ủy viên trung ương chính thức như Nguyễn văn Linh (Mười
Cúc), Nguyễn văn Xô (Hai Xô), Phan văn Đáng (Hai Văn),
cùng với Nguyễn đức Thuận (sau bị chính quyền của ông Diệm
bắt được), Vơ chí Công, Cao đăng Chiếm, La văn Liếm, Trần
nam Trung, Trần bạch Đằng đều rút vào bí mật. Và, ngay từ
đầu những năm 1957 trở đi Line đă cho lệnh t́m đường vào
Nam, đó là đường ṃn Hồ chí Minh sau này. Toán quân đội
được lệnh thâm nhập miền Nam đầu tiên do thiếu tướng Bùi
xuân Đăng chỉ huy. Con đường ṃn Hồ chí Minh được hoàn tất
vào năm 1959 và Đồng sỹ Nguyên (tức Nguyễn văn Đổng) được
cử trông coi việc "hiện đại" hóa con đường trục để xâm
lăng miền Nam đó. Cơ cấu quân đội dưới trướng Đồng sỹ
Nguyên lên tới gần 3 sư đoàn và được đặt tên là "Công
trường 59" (tức quân đoàn).
Cái sáng suốt và nhiệt t́nh của nhà ái quốc
Ngô Đ́nh Diệm theo thời gian mà
bốc hơi, chỉ c̣n lại cái h́nh hài của quan "Tuần vũ Phan
Thiết", vừa cố chấp của người "quá mộ đạo", vừa hợm hĩnh
về gịng họ và thành tích, chỉ tin vào quan hệ máu thịt và
địa phương cũng như cùng tôn giáo.
Cái sai lầm nữa là ông Ngô Đ́nh Diệm dựng ra đảng
Cần-Lao Nhân-Vị có cái ǵ
đó hao hao giống cơ chế tổ chức và xử dụng như của đảng
cộng sản. Tổng Thống họ Ngô đă không lợi dụng thành tích
đạt được để mở rộng dân chủ, thu hút nhân tài của đất nước
v.v... mà lại khép lại như mô h́nh cộng sản
nhưng lại không đủ qủy quyệt tàn nhẫn như cộng sản. Đáng
ra phải đặt cho ḿnh làm cái nhiệm vụ lănh tụ của cả nước
Việt Nam (như Line) th́ ông
Diệm đă lược bớt đi chỉ giành lại cho ḿnh những cái rất
"khiêm tốn" là lănh tụ của giáo dân, là một thứ "tù
trưởng" của "bộ lạc Ngô, Trần".
Chính sách đối ngoại của ông Diệm có nhiều sai lầm khi làm
mất t́nh ḥa hiếu với ông hoàng Xi-Ha-Núc, khiến Hà-nội
lợi dụng để dùng mảnh đất Mỏ Vẹt của Cam-Bốt cũng như cảng
Kôm-Pông-Xôm của Cam-Bốt để xâm lăng miền Nam. Cũng thế,
ông không công nhận Hội nghị Băng-Đung, khiến bị cô lập
đối với các nước không liên kết, mà lúc đó những tiếng nói
của Nerhu và Nasser là khá quan trọng. Xung quanh ông Diệm
có rất nhiều người giỏi, nhưng ông không dùng, thí dụ như
ông Nguyễn Văn Thoại, người đă kư vào quyết nghị của hội
nghị Băng-Đung, một hành động rất khôn ngoan và sáng suốt.
Qua việc này, ông Line đă hiểu hết chỗ "yếu kém" của đối
thủ và quyết định đánh canh bạc với họ Ngô. Một tổ công
tác đặc biệt được thành lập ngay tại Hà-nội để làm công
việc đó mà không cần qua bộ phận của Nguyễn văn Linh ở
phía Nam.
LỰA NGƯỜI
Sau khi dự hội
nghị Băng-Đung về, Line mừng v́ chết hụt. Chiếc máy bay
của Trung Cộng bị nổ tung, vài nhân viên ngoại giao Việt
Cộng chết theo, trong đó không có... Line. Nhưng, điều ông
mừng hơn là nghe tin ông Ngô Đ́nh Diệm không chấp nhận
quyết nghị của hội nghị Băng-Đung mà đại diện của ông là
ông Nguyễn văn Thoại đă kư. Hơn thế, ông Diệm c̣n cải tổ
chính phủ và... gạt ông Nguyễn văn Thoại ra. Ngồi ở phủ
toàn quyền ở Ba-Đ́nh, khi nghe Việt Phương, vụ trưởng vụ
tổng hợp Phủ thủ tướng, cũng là thư kư riêng của Phạm văn
Đồng, tŕnh tin này, Line vỗ đùi đen đét và ngửa mặt lên
trời cười ba tiếng, hệt như Lưu Bang nghe tin Hạng Vơ đuổi
Phạm Tăng không dùng nữa.
Hồ sơ về gia đ́nh ông Ngô
Đ́nh Diệm dày cộm trên bàn làm việc của ông. Biết tỷ mỷ từ
việc ông Diệm "nghiện" món chim bồ câu nhồi
yến, đến ông Ngô Đ́nh Nhu
mỗi ngày "bắn khỉ" bao nhiêu phát (tức hút thuốc phiện) và
bà Nhu (tức Trần Lệ Xuân) chọn đất ở đường Trần quốc Toản
(nay là ủy ban quận 10, Sài-g̣n) xây "cung" cho Ngô Đ́nh
Trác, có ư định quay lại chế
độ quân chủ (chắc là bắt chước
tướng Franco của Tây ban Nha).
Line cũng để ư đến việc viên sỹ quan CIA
Conéin, đă từng ở quân đội Pháp, có mặt tại Sài-g̣n. Sự
bất măn của Phật Giáo được ông để ư đến từ lâu. Song song
với việc đào tạo bộ đội đặc công (ở Sơn Tây), công an đặc
biệt (ở Hà-Đông), cán bộ người thiểu số (ở Ḥa-B́nh), các
sư, tiểu, ni cô (ở chùa Quán Sứ, Hà-Nội) và lấy cán bộ tập
kết ở Nam ra cho học tập và quay lại Nam (địa điểm học tập
ở Bắc-Thái), ông Line c̣n lo đào tạo "thế hệ tương lai"
cho Liên Bang Đông Dương đỏ: đó là các thiếu niên, nhi
đồng của miền Nam, của khu Năm, của núi rừng Tây Nguyên,
của Lào, của Miên. Trường này đặt ở huyện Lương sơn (Ḥa
B́nh). Bên cạnh ủy ban Thống Nhất do trung tướng Nguyễn
văn Vịnh, ủy viên trung ương cộng đảng, làm chủ nhiệm,
phía ban tổ chức trung ương c̣n có Lê phước Thọ đặc trách
số cán bộ tập kết quay lại Nam (nay ông ta là ủy viên bộ
chính trị, phụ trách tổ chức). Đấy là công việc hàng ngày
của đảng và chính phủ ở Hà-nội. Giờ đây đă khác tư chút,
đó là việc ông Ngô Đ́nh Diệm từ chỗ được tổng thống
Eisenhower ra tận phi trường quân sự Andrews đón tiếp
(1957) đến chỗ đôi bên đă có dấu hiệu ngúng nguẩy với nhau
và quân đội do đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu làm đảo
chánh ngày 11-11-1960. Tuy không thành công, nhưng rơ ràng
đó là điểm báo hiệu chỗ dựa quân sự và chỗ dựa đồng minh
đă "lung lay". Nay chỉ cần làm cho những chỗ dựa đó đổ hẳn
là xong. Điểm lại nhân sự, ông Line thấy việc này phải
giao cho Phạm Hùng, người có đủ tư cách tiếp xúc trực tiếp
với anh em ông Ngô Đ́nh Diệm, có hiểu biết sâu sắc về miền
Nam, v́ Phạm Hùng đă từng phụ trách công an của miền Nam,
là ủy viên bộ chính trị kiêm phó thủ tướng thứ nhất của
chính phủ (với 9 ông phó thủ tướng!). Nhưng c̣n người thứ
hai là ai, người giúp việc trực tiếp cho Phạm Hùng mà cũng
là người làm cái việc móc nối trong chuyến "đi đêm" này.
Tất nhiên phải là người có khả năng đă đành mà c̣n phải
tín cẩn được đến mức giả dụ là bị anh em ông Diệm, Nhu trở
mặt bắt th́... sẵn sàng chết mà không phản bội hoặc đi hai
hàng. Điểm lại tất cả các bộ mặt lănh đạo ngành công an và
Line cầm bút nắn nót viết ba tiếng: Nguyễn công Tài.
SAO LẠI CHỌN NGUYỄN CÔNG TÀI
Line
biết rằng anh em ông Diệm,
Nhu tuy làm cuộc phế truất Bảo Đại, nghĩa là "phản thực"
rồi lại "phản phong", nhưng từ máu thịt của gia đ́nh họ
Ngô là quan lại, cho nên anh em ông ta rất
khinh người. V́ thế, cái kẻ làm việc xúc tiếp đầu tiên -
tất nhiên phải cộng sản đỏ quạch - nhưng phải có tŕnh độ
(nghĩa là nói tiếng Pháp trôi chảy) lại phải có cái gốc
gác gia đ́nh đáng v́ nể trong xă hội phong kiến cũ ở Việt
Nam. Chính Nguyễn công Tài là người hội đủ bấy nhiêu yếu
tố.
Nguyễn công Tài đă học đến bậc tú
tài thời Pháp, là con trưởng của nhà văn Nguyễn công Hoan,
là cháu ruột của Lê văn Lương, thường trực ban bí thư
trung ương đảng cộng, phó ban thường trực ban tổ chức
trung ương, gịng dơi quan lại gốc Nam Định. Đă thế,
Nguyễn công Tài c̣n là con rể của bác sỹ Nguyễn viêm Hải,
có quốc tịch Pháp. Vợ Nguyễn công Tài là bà Nguyễn thị
Nghĩa, cựu sinh trường nữ học Đồng Khánh lúc ấy đang là
hiệu trưởng trường Mầm Non (trường dành cho con nhỏ của
các quan lại đỏ của trung ương và Hà-nội, chiếm trọn hai
ṭa vi-la đồ sộ ở phố Hàng Bông Nhuộm). Hai em gái bà
Nghĩa đều đỗ tú tài Pháp, là học sinh của trường Albert
Sarraut, lúc ấy một ra bác sỹ y khoa, c̣n một là kỹ sư mỏ.
Nguyễn công Tài đang đeo lon đại tá an ninh bên bộ công
an, giữ chức thứ trưởng bộ công an kiêm ủy viên đảng đoàn
cộng sản của bộ công an. Cả chức vụ, nghề nghiệp cho đến
lư lịch bản thân và lư lịch bên vợ của Nguyễn công Tài đều
là mẫu lư tưởng cho cuộc tiếp xúc với anh em ông Ngô Đ́nh
Diệm.
Và, sau đó người nào có óc quan
sát không c̣n thấy hàng ngày ít ra là một lần, trên đường
Hàng Bông Nhuộm quẹo ra phố Dă Tượng (Hà-nội) không c̣n
bóng dáng của một người đàn ông tầm thước, ăn mặc xuề x̣a,
đeo cặp kính dầy cộm hoặc đi bộ, hoặc đi xe đạp qua nữa.
Người đó là Nguyễn công Tài. Trên phố Bông Nhuộm có nhà
riêng của nhà văn Nguyễn Công Hoan, tác giả truyện "Cô
giáo Minh" mà cũng là tác giả tiểu thuyết bị Hà-nội cấm:
"Đống rác cũ", và ở đó cũng là nơi làm việc của vợ Nguyễn
công Tài.
NGUYỄN CÔNG TÀI RA TAY
Có chú ruột là phó ban tổ chức trung ương phụ trách thường
trực ban bí thư trung ương đỡ đầu, lại được đích thân ông
Line lựa chọn, lại làm việc dưới quyền trực tiếp của Phạm
Hùng, nhân vật số 4 trong bộ chính trị, nên Nguyễn công
Tài hiểu rằng đây là thời cơ "ngàn năm một thuở" để thăng
quan nhảy vọt nếu hoàn thành nhiệm vụ đi đêm này. Nguyễn
công Tài đă dành nhiều thời gian để nghiên cứu hàng núi hồ
sơ về gia đ́nh nhà ông Ngô Đ́nh Diệm và những người kế
cận, cũng như những người đối lập. Tài liệu cập nhật từ
nhiều nguồn, nhưng phần đóng góp của nội gián Phạm ngọc
Thảo là rất quan trọng. Làm sao phải chọn người tiếp xúc
thật đúng mà lại bảo toàn bí mật. Cuối cùng, sau nhiều
ngày đêm suy nghĩ, Nguyễn công Tài đă lựa
nhân vật Mă Tuyên, người Tàu ở
Chợ-lớn đang làm công việc kinh tài cho gia đ́nh ông Ngô
Đ́nh Diệm.
Thông qua dịch vụ buôn bán táo bạo, Nguyễn công Tài đă
tiếp xúc trực tiếp được với Mă Tuyên. Và, cái thời điểm để
đưa ư kiến cho Mă Tuyên "gợi ư" với anh em ông Ngô Đ́nh
Diệm là sau tháng 2-1962, sau cái ngày mà hai trung uư của
quân đội ông Diệm là Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử ném
bom dinh Độc Lập làm đảo chính. Sự việc của hai trung uư
Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử tuy không thành công nhưng
nó lại là lư do hợp thời để Nguyễn
Công Tài làm cuộc tiếp xúc với
anh em ông Diệm, Nhu thông qua thương gia người Tàu ở
Chợ-lớn là Mă Tuyên. Tín hiệu có thuận lợi. Quả
nhiên ông Nhu nhận sự tiếp xúc một cách thận trọng và kéo
dài thời gian để mặc cả cho cái giá đi đêm. Nguyễn công
Tài có nhận xét là anh em ông Diệm, Nhu tuy học ở Pháp và
Mỹ về nhưng óc bài ngoại cực đoan như "Tự Đức" và cũng có
mộng Việt Nam sẽ gồm cả Miên và Lào và phải là cường quốc
ở châu Á.
Sự việc tin đi
mối lại chỉ dừng ở đó. Phải cho đến lúc được phép của ông
Line, Nguyễn công Tài cung cấp cho ông Nhu một số tài liệu
chứng minh người Mỹ muốn lưu lại ông Diệm c̣n vợ chồng ông
Nhu phải đi lưu vong nước ngoài, cũng như họ trước sau
cũng buộc ông Diệm phải từ bỏ chế độ độc tài, gia đ́nh
trị, phải chia quyền lănh đạo cho các đảng phái cũng như
phải có chính sách b́nh đẳng tôn giáo. Ông Nhu chấp nhận
một cuộc gặp gỡ với phái viên đặc biệt của ông Line. Có
thể đây chỉ là giải pháp pḥng ngừa mà cũng có thể ông Nhu
muốn hiểu rơ hơn ư đồ của địch. Những điều này c̣n là bí
ẩn đi theo ông Nhu xuống tuyền đài.
Phạm Hùng nhận những chỉ thị toàn quyền hành động từ ông
Line tại phủ toàn quyền Đông Dương ở Ba-Đ́nh (Hà-nội) và
cấp tốc đi Nam bằng cả ba thứ phương tiện: thủy, bộ và
hàng không.
Đầu tháng 2-1963, cuộc họp "bí
mật" giữa ông Ngô Đ́nh Nhu và Phạm Hùng diễn ra tại một
địa điểm kín đáo ở quận Tánh Linh, tỉnh B́nh Tuy. Trong
cuộc họp này có cả Nguyễn công Tài cũng được dự.
Khi chia tay, cả hai bên đều hỷ hả. Nội dung cuộc họp vẫn
c̣n nằm trong bí mật cho đến nay. Anh em ông Diệm, Nhu đều
đă chết. Line th́ nằm nhắm mắt ch́nh ́nh trong cái lăng ở
Hà-nội; Phạm Hùng sau này giữ chức chủ tịch hội đồng bộ
trưởng của nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong
một cuộc họp về tài chính hết sức căng thẳng ở Sài-g̣n,
khi về nhà khách của chính phủ nghỉ trưa đă... chết. Chỉ
sau này, qua mặt báo Sài-g̣n Giải-phóng cộng với chuyện
thâm cung lộ ra, người ta biết rằng buổi trưa hôm đó, Phạm
Hùng đă cho gọi một nữ ca sỹ cải lương tên tuổi đến nghe
hát... giải khuây. Chẳng biết có làm ǵ nữa không mà đột
ngột... cưỡi ngựa (không phải rồng) xuống địa ngục. Dân
Việt Nam quốc nội lại thắc mắc qua thơ kiểu Bút Tre, rằng
:
"Nghe tin đồng chí Phạm Hùng Chết ngă lăn đùng, chưa rơ
nguyên nhân."
Người duy nhất c̣n lại là Nguyễn công Tài, sau này "t́nh
cờ" làm cái việc xét căn cước, cảnh sát của miền Nam đă
bắt được Nguyễn công Tài. Người Mỹ đă cho giam Nguyễn Công
Tài ở Bạch Đằng (Sài-g̣n), cho hưởng mọi tiện nghi vật
chất rất cao và cũng được ngồi xe hơi (tất nhiên có bảo
vệ) đi "tham quan" phố xá Sài-g̣n. Đến 1975, trước khi đứt
phim miền Nam, Mỹ đă thả Nguyễn công Tài ra.
ĐỊNH
MỆNH
Trước khi bước vào
cuộc gặp mặt lần thứ hai giữa ông Ngô Đ́nh Nhu và Phạm
Hùng th́ xảy ra sự biến của Phật Giáo. Trong lễ Phật Đản
năm 1963 ở chùa Từ Đàm, thượng tọa Thích Trí Quang phê
b́nh chính quyền ông Diệm kỳ thị Phật Giáo cho nên đài
phát thanh Huế không phát thanh về ngày lễ Phật Đản như
thường lệ. Phật tử vây đài phát thanh đ̣i giải thích.
Cảnh sát Thừa Thiên đến bao vây, có mặt cả thiếu tá Đặng
Sỹ, chỉ huy trưởng tiểu khu Thừa Thiên và trưởng ty cảnh
sát Thừa Thiên. Trong lúc hỗn loạn, đặc công của cộng sản
liệng lựu đạn làm chết 9 người và bị thương 13 người. Thế
là cuộc tranh đấu của Phật Giáo bùng nổ. Có thể đây là đ̣n
của cộng sản muốn thúc ép ông Ngô Đ́nh Nhu tái họp lần thứ
hai với Phạm Hùng sớm hơn và đưa yêu sách "khiêm tốn hơn".
Đầu tháng 11-1963, các
tướng trong quân đội của ông Diệm làm đảo chánh thành
công. Anh em ông Diệm, Nhu theo đường hầm trốn vào Chợ-lớn
ở nhà Mă Tuyên. Phải chăng
hai anh em ông Diệm, Nhu định chờ người của Phạm Hùng và
Nguyễn công Tài đến đón ra bưng biền?
Suốt những ngày vào Nam, nhất là sau khi
Nguyễn công Tài bị tù, gia đ́nh của Nguyễn Công Tài có
chút thay đổi. Bà hiệu trưởng trường Mầm Non, Nguyễn thị
Nghĩa - vợ của Nguyễn công Tài - đă ngả vào ḷng của đại
tá Hồng Hà, chánh văn pḥng kiêm vụ trưởng vụ tổng hợp của
bộ công an. Có lẽ ghen hộ con trai nên nhà văn Nguyễn công
Hoan là người đi đầu trong việc "trấn áp" Nhân Văn-Giai
Phẩm, cho đến tận tác phẩm "Hỗn canh hỗn cư" c̣n ca ngợi
cách mạng hết lời th́ đột ngột thay đổi trong tiểu thuyết
"Đống rác cũ", vạch mặt những "cán bộ" cách mạng chỉ là lũ
lừa đảo, lưu manh. V́ là của Nguyễn công Hoan nên nhà xuất
bản Văn Học phải in. Khi phát hành được khá lâu, Tố Hữu
mới để mắt tới và phát hiện "có vấn đề" và tập I của "Đống
rác cũ" bị thu hồi, tập 2 bị đ́nh chỉ phát hành.
Giữa năm 1975, Nguyễn công Tài về nhà ngồi "chơi xơi
nước", bị t́nh nghi là có vấn đề trong thời gian bị giam ở
Bạch Đằng (Sài-g̣n). Phải cho đến lúc Phạm Hùng lên nắm
chức chủ tịch hội đồng bộ trưởng, Nguyễn Công Tài mới được
đeo lon thiếu tướng công an, đổi tên thành Nguyễn Tài và
giữ chức tổng cục trưởng tổng cục hải quan. Vợ là Nguyễn
thị Nghĩa cũng vào ngành công an, đeo lon trung tá, phụ
trách trưởng pḥng quản lư thiếu nhi phạm pháp thuộc Cục
quản lư trại giam. C̣n "kẻ địch" của Nguyễn công Tài, đại
tá Hồng Hà cũng lên lon thiếu tướng, giữ chức giám đốc Sở
công an Tây Nguyên. Nguyễn công Tài chắc cũng tự an ủi qua
bất hạnh của người khác v́ cấp dưới xưa kia của ông ta là
thiếu tướng Quang Pḥng, cục phó cục phản gián, cũng bắt
được quả tang vợ đang... ấy... với trung tá Vũ Quân, đệ tử
ruột của Quang Pḥng, anh chàng này là con rể của nguyên
chủ nhân nhà hàng Bodéga ở phố Tràng Tiền (Hà-nội), người
đă được báo chí Hà-nội ca ngợi về thành tích "vồ gái điếm"
vào ngủ với nhân viên các sứ quán phương Tây ở Hà-nội.
Việt Thường
|
|
|