- “Tổng Thống
Ngô Đ́nh Diệm đă xây dựng miền Nam Việt Nam trở thành một Quốc Gia dưới
chính thể Cộng Hoà.
Một Quốc Gia có đầy đủ chủ quyền, độc lập, tự chủ và tự quyết, được
cộng đồng quốc tế công nhận và nể v́. Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă gầy
dựng nước Việt Nam Cộng Hoà từ một đống tro tàn và những hệ lụy của những
năm tháng chinh chiến điêu linh, những tàn tích của thực dân phong kiến.
Chỉ trong một
thời gian ngắn, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă ổn định được cuộc sống cho gần
một triệu người từ miền Bắc di cư vào Nam tránh nạn cộng sản.
Toàn thể lănh thổ Việt Nam Cộng Hoà đă được b́nh định. Bên cạnh những
ổn định chính trị và quốc pḥng, các lănh vực kinh tế, giáo dục được chú
trọng và phát triển một cách nhịp nhàng, với những thăng tiến xă hội.
Người dân từ phía Nam vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mâu sống trong cảnh thanh
b́nh - no ấm.
Bản Hiến Pháp
ngày 26 tháng 10 năm 1956 của Việt Nam Cộng Hoà, đă ghi dấu một bước tiến
lịch sử, trên hành tŕnh xây dựng một quốc gia độc lập, tự chủ và tự quyết
trong tinh thần tự do dân chủ. Hiến pháp 1956, được soạn thảo với những
kế hoạch và dự liệu nhằm phục vụ nhân phẩm và quyền sống của con người.
Lư thuyết
Nhân Vị bảo vệ và Thăng Tiến đời sống của người dân, được chuẩn nhận và
triển khai như là một nền tảng của tất cả những chương tŕnh phát triển.
Tài năng của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, một lănh tụ ngoại hạng, đă vượt qua
bao khó khăn hiểm nguy.
Đạo đức của
Tổng Thống, một lănh tụ liêm khiết - thanh bần, đă chinh phục ngay cả
những thù địch. Trong tinh thần tuyệt đối tôn trọng nền tảng đạo đức dân
tộc và luật pháp.
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă uy dũng hiên ngang xây dựng cơ đồ cho sự
trường tồn của một nước Việt Nam thực sự tự do dân chủ.
Từ sau ngày Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu bị thảm
sát, nhiều gia đ́nh, hội đoàn, hàng năm đều xin lễ cẩu hồn cho hai Ông, để
tỏ ḷng thương tiếc và mến mộ. Đến khi mất nước, hàng triệu người Việt Nam
phải sống đời lưu vong trên khắp thế giới. Nơi nào có người Việt Nam sinh
sống, hàng năm đều có tổ chức lễ cầu hồn, tưởng niệm Tống Thống Ngô Đ́nh
Diệm. Đó là việc làm đúng với đạo lư, lễ giáo Việt Nam. Chúng ta cần và
phải làm. Nhưng với Tông Thống Ngô Đ́nh Diệm, những việc làm này chưa đáp
ứng tâm nguyện của Ông. V́ lúc sinh thời, tại nhiều nơi. Trước nhiều cơ
quan, đoàn thể, Quân trường … mỗi khi thuận tiện, Ông đều nhắn nhủ:
- Tôi tiến. Hăy tiến theo tôi!
- Tôi lui. Hăy giết tôi!
- Tôi chết. Hăy nối chí tôi!
Ông đă bị giết! Ông đă chết! Chết
đau đớn! Chết tức tưởi! Chỉ v́ quyết bảo toàn Danh Dự của Dân Tộc và Chủ
Quyền của Quốc Gia Việt Nam!”
Trên đây, là những ḍng của Ông
Lê Châu Lộc; nguyên Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, và là
Thượng Nghị Sĩ thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Ḥa. Ông đă viết về những điều mà
chính Ông đă chứng kiến, mắt thấy, tai nghe trong suốt thời gian ở bên
cạnh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm từ năm 1959 cho đến ngày 1-11-1963 trên
trang:
ngodinhdiem.net
Người viết là kẻ hậu sinh. V́ thế, trước khi viết bài này, tôi đă phải
gọi sang Hoa Kỳ để được nghe chính những lời của Thượng Nghị Sĩ Lê Châu
Lộc truyền đạt qua điện thoại viễn liên Mỹ - Pháp về những điều mà chính
Ông Lê Châu Lộc đă biết - nghe - thấy trong suốt thời gian là Tùy Viên ở
bên cạnh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Mỗi lần hầu chuyện với Ông Lê Châu Lộc,
tôi đều được Ông nhắc lại nhiều lần, để phải ghi nhớ những điều Ông đă
nói. Đăc biệt, Ông đă nói về Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và Phật Giáo.
Như mọi người đă biết, từ
trước và sau khi Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă Vị Quốc Vong Thân, th́ Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm đă từng mang tiếng là “kỳ thị Phật giáo”.
Nhưng
như thế nào để gọi là “kỳ thị Phật giáo”? Bởi, Phật giáo do Đức Thích-
Ca-Mâu-Ni khai sáng, khác hẳn với Phật giáo Ấn Quang và cũng là “Phật Giáo
Xă Hội Đảng” tại Việt Nam, là một tổ chức đă được mang nhăn hiệu là “Phật
giáo”, để hoạt động cho mục đích chính trị, với cuồng vọng là tóm thâu
“Sơn Hà Xă Tắc” vàotrong tay, như ngày
xưa “sư” Vạn Hạnh đă làm.
Chính v́ thế, nên ngày nào Phật giáo Ấn Quang chưa tóm thâu được hết thiên
hạ, th́ ngày đó Phật giáo Ấn Quang vẫn cứ c̣n “tranh đấu”.
Tuy
nhiên, v́ “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”, cho nên, Phật giáo Ấn
Quang đă là một tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản Hà Nội. Bằng chứng là
những hành vi của Phật giáo Ấn Quang như đă đốt nhà, đánh giết người, dập
đầu, treo cổ các vị là Quân-Cán-Việt Nam Cộng Ḥa, và cả trẻ thơ trong
cuộc thảm sát ở hai Phường Thanh Bồ-Đức Lợi tại Đà Nẵng, ngày 24-8-1964.
Đem bàn thờ Phật xuống đường vào mùa hè 1966, tại miền Trung, với mục đích
để thành lập
“Chính
Phủ Miền Trung” để liên hiệp với cộng sản. Và trước
ngày 30-4-1975, Phật giáo Ấn Quang đă đưa những đoàn xe ra tận núi rừng để
đón rước cộng quân vào các thành phố tại miền Nam tự do ; và đă hạ thủ
giết chết nhiều vị là Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa trong lúc giao
thời, như tôi đă nêu lên đầy đủ bằng chứng trong bài: 30-4-1975: Máu Và
Nước Mắt.
Và để biết
được tấm ḷng Cao-Khiết của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đối với Phật giáo như
thế nào ; th́ không ǵ bằng những nghĩa cử của Tổng Thống đă làm qua những
lời kể của nhân chứng sống là Ông Lê Châu Lộc.
V́ vậy, với bài này, tôi chỉ
ghi lại riêng về chuyện Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và Phật giáo, theo những
lời kể của Thượng Nghị Sĩ Lê Châu Lộc ; mặc dù đă cao tuổi, song Ông vẫn
rất minh mẫn, khi nói về các sự kiện đă qua, tôi xin tóm lược như sau:
Vào năm 1959,
khi đắc cử Tổng Thống nhiệm kỳ 2. Sau khi có kết quả bầu cử, Tổng Thống
Ngô Đ́nh Diệm gọi Sĩ quan Tùy viên Đại úy Lê Châu Lộc cùng đi theo. Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm đă đến các chùa trong khu vực nội và ngoại thành Sài
G̣n, để cảm ơn khối Phật giáo đă ủng hộ Tổng Thống. Trong đó, có chùa Ấn
Quang.
Hôm ấy, có thượng tọa Thích
Quảng Liên đến chào Tổng Thống, và nói lời cảm ơn v́ đă được Tổng Thống
đặc biệt gửi đi học tiến sĩ giáo dục tại MichiganState University.
Sau đó, trong khi đón tiếp Tổng Thống th́ Thượng tọa Thích Thiện Ḥa đă
trách Tổng Thống rằng:
- Tổng Thống có chuyện vui, mà không cho anh em chúng tôi biết, để
chúng tôi cùng được chung vui với Tổng Thống.
Nghe vậy, Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm đă nói:
- Có chuyện
chi vui, mà tôi giấu các Thầy mô?
- Dạ, thưa
Tổng Thống, qua Tăng đoàn Tích Lan, chúng tôi được biết Tổng Thống đă tặng
Đức Đạt Lai Lạt Ma một số tiến lớn.
Sau khi nghe
Thượng tọa này nói, Tổng Thống ngồi lặng thinh một lúc, rồi nói:
- V́ là một
việc tế nhị, tôi không muốn cho ai biết, chứ không phải tôi giấu các Thầy.
Tôi có nhận được Giải thưởng Leadership Magasaysay 10.000
đôla,(giải
thưởng dành cho người lănh đạo xuất sắc tại Á Châu).Tôi th́ không có nhu cầu chi.
Gặp lúc này, Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị tượng trưng cho sự tranh đấu bất khuất
để bảo vệ niềm tin, bảo vệ tôn giáo của dân tộc Ngài, đang gặp nạn, phải
sống lưu vong, cần nhiều sự giúp đỡ. Tôi thấy ḿnh có bổn phận phải giúp
Ngài, nên tôi nhờ Thủ tướng Nerhu chuyển số tiền này cho Ngài, nhưng Ông
khước từ, có lẽ Ông ngại mất ḷng Trung cộng. Tôi phải nhờ qua ngă Cơ Quan
Tỵ Nạn để chuyển số tiền này đến tay Ngài. Các Thầy cũng biết, ḿnh đang
phải chống lại một chủ nghĩa vô thần rất tàn bạo. Nên chỉ có niềm tin tôn
giáo, mới có đủ sức mạnh chống lại được với chủ nghĩa tai hại này. V́ thế,
đối với việc phát huy, cũng cố, bảo vệ niềm tin tôn giáo, bất câu là tôn
giáo nào, ḿnh cũng có bổn phận phải khuyến khích và giúp đỡ.
Ngoài
ra, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cũng đă giúp đỡ để xây cất nhiều chùa ; trong
đó, có chùa Xá Lợi. Người đứng ra nhận tiền và xây cất là Cư sĩ Mai Thọ
Truyền.
Cũng tương tự như thế, người
viết muốn nhắc lại: Riêng chùa Nam Thiên Nhất Trụ (Chùa Một Cột tại miền
Nam) ; th́ chính “Ḥa thượng” Thích Trí Dũng là người đă nhận tiền của
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm; để rồi sau đó, Thích Trí Dũng đă biến ngôi chùa
này và chùa Phổ Quang là nơi ở của tên Thiếu tướng Việt cộng Trần Hải
Phụng. Đồng thời, đă nuôi giấu cả “Lữ đoàn 316 - Biệt Động Thành Sài G̣n -
Gia Định”, với những tên nổi tiếng như Nguyễn Văn Bá … v…v…Và chính Thích
Trí Dũng đă công khai trên sách báo, với cái tựa đề:
“Nam Thiên Nhất
Trụ: Người Dựng Chùa Một Cột tại Miền Nam”. Thích Trí Dũng đă viết:
“Trong cuộc Tổng công kích Tết
Mậu Thân, chùa Phổ Quang là nơi khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhất”.
Kính mời quư độc giả hăy đọc
lại bài: Tưởng Niệm Bốn Mươi Năm CuộcThảm Sát Tết Mậu Thân:
1968-2008 ; để biết rơ những điều mà chính “Ḥa thượng”Thích Trí Dũng
đă viết công khai về những hành vi cộng sản của một “cao tăng” của Phật
Giáo Ấn Quang.
Trở lại với chuyện Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm và Phật giáo. Thực ra, không hề có cái gọi là “kỳ thị
Phật giáo”. Bởi nếu thế, th́ làm ǵ có chuyện Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă
gửi trọn số tiền 10.000
đô la, của Giải thưởng Leadership Magasaysay để giúp Đức Đạt Lai Lạt Ma
của Tây Tạng??? Cũng như đă cung cấp tiền cho “Ḥa thượng” Thích Trí Dũng
để xây dựng chùa Nam Thiên Nhất Trụ, chùa Phổ Quang … và giao tiền cho Cư
sĩ Mai Thọ Truyền để xây dựng chùa Xá Lợi, và nhiều chùa khác nữa???
Đến đây, thiết tưởng đă quá
đủ, để cho những ai c̣n nghĩ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm “kỳ thị Phật giáo”
sẽ có một cái nh́n khác hơn.
Hăy trả công đạo cho Người đă
có đại công nghiệp: Khai sinh ra Nền Cộng Ḥa Việt Nam và đă xây dựng được
một nước Việt Nam Cộng Ḥa dân chủ-tự do-thanh b́nh-no ấm cho người dân
tại miền Nam, mà một thời đă được thế giới công nhận là Ḥn Ngọc Viễn
Đông.
Cuối cùng, tôi xin thành kính
tri ân những lời chỉ giáo của Thượng Nghị Sĩ Lê Châu Lộc. Ông thường nói
lên những ước muốn, là mong tất cả những người Việt Nam yêu nước chân
chính, biết đặt Tổ Quốc và Dân Tộc lên trên hết, th́ hăy đồng tâm, quyết
chí kết hợp lại thành một đại khối Dân Tộc, hầu t́m ra phương hướng để đấu
tranh cho một nước Việt Nam Tự Do-Dân Chủ không cộng sản. Đồng thời, để
đánh đuổi giặc Tầu, là kẻ thù truyền kiếp của Dân Tộc, quét sạch bọn chúng
ra khỏi bờ cơi Việt Nam.
Và người viết cũng không quên
những lời của thượng Nghị sĩ Lê Châu Lộc luôn luôn nhắc nhở về Di Huấn của
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm:
Pháo thủ Lê Châu Lộc nói chuyện
về Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm (Trích trong quyển Kỷ Yếu Pháo Binh
QLVHCH 2010)
Song Lê
Người viết bài này quen biết pháo thủ Lê Châu Lộc v́ vừa là đồng nghiệp
pháo thủ vừa cùng chung đơn vị với nhau trong những năm 1956, 57, và 58
tại B́nh Thủy Cần Thơ, và Trảng Bàng Tây Ninh.
Anh là một Sĩ quan Pháo binh Việt Nam Cộng Ḥa có quá tŕnh phục vụ và
thăng tiến khá đặc biệt. Tốt nghiệp Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Khóa 5 - V́ Dân.
Học Pháo Binh Tại Trường Pháo Binh Phú Lợi, tu nghiệp pháo binh ở
Châlons-sur-Marnes (Pháp) và Fort Sill (Hoa Kỳ), từng là huấn luyện viên ở
nhiều Trường Pháo Binh trong nước (Phú Lợi, Dục Mỹ) và ngoài nước (Fort
Sill USA). Đơn vị chiến đấu đầu tiên Anh phục vụ là Tiểu Đoàn 21 Pháo Binh.
Rồi Trường Đại Học Quân Sự, rồi Lữ Đoàn Liên Binh Phủ Tổng Thống. Cuối năm
1959 Anh là Sĩ quan Tùy viên của Tổng Thống VNCH Ngô Đ́nh Diệm cho đến
ngày đảo chính 1-11-1963. Rồi Pháo Binh Quân Đoàn III và Trường Pháo Binh.
Anh xin giải ngũ sau ngày đảo chính và được giải ngũ năm 1965. Thi tuyển
vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Tốt nghiệp Đốc sự khóa 13 và Cao học
Hành chánh khóa 5. Nghiên cứu hậu Cao học về Quản Trị Phát Triển tại các
trường Đại học London, Oslo, Dublin. Tham quan các hệ thống Phát triển và
Pḥng vệ tại Do Thái và Ấn Độ. Giảng viên Trường Quốc Gia Công Tác Xă Hội
(Sá G̣n). Cuối năm 1969 Anh tham gia Liên danh Bông Huệ của Luật sư
Nguyễn Văn Huyền, đắc cử vào Thượng Nghị Viện VNCH. Anh là Nghị sĩ cho đến
30 tháng Tư Đen, 1975.
Khi lưu vong ở nước ngoài, trong suốt 23 năm (1975-1998), cựu pháo thủ Lê
Châu Lộc hoạt động không ngừng ở khắp Á, Âu, Phi, Mỹ cho công việc cứu trợ
những người tỵ nạn Cộng sản. Phần quan trọng hơn gồm việc thiết kế và điều
khiển các dự án chương tŕnh viện trợ phát triển vững bền cho các quốc gia
trong khối đệ tam thế giới khắp Á, Phi, Đông Âu và Trung Đông. Anh về hưu
năm1998 tại Hoa Kỳ. Mặc dầu Anh đang hưu trí, người ta vẫn thấy Anh xuất
hiện trong các hoạt động truyền thông, xă hội, chính trị khi cái lăo và
cái bệnh không “hành hạ” Anh quá mức.
Người viết, cũng như những ai từng quen biết Anh trong Pháo binh, trong
Thượng viện, hoặc ở các lănh vực hoạt động khác của Anh, đều t́m thấy nơi
Anh một người bạn, người cộng sự, người chỉ huy vui vẻ, từ tốn, năng động
trong công việc, có tinh thần trách nhiệm, có đạo tâm, và đáng tin cậy.
Người viết nghĩ rằng bạn đồng đội trong quân ngũ cũng muốn nghe người bạn
này hiện là một trong số ít nhân chứng sống c̣n lại kể cho biết một vài
việc đơn sơ về Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Lại nghĩ Binh chủng Pháo Binh
VNCH trước kia, có một pháo thủ như thế trong hàng ngũ, hẳn cũng là hảo sự.
V́ muốn “tốt đẹp khoe ra” nên đă hơi dài ḍng một chút về Anh Lê Châu Lộc.
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm là một con người lịch sử. Ông là Tổng Thống đầu
tiên của Việt Nam tự do và là vị sáng lập nền Cộng Ḥa Việt Nam. Sau chín
năm cầm quyền đă bị thảm sát bởi chính kẻ đồng minh Ông tin cậy, bởi chính
hàng khanh tướng Ông tạo ra. Khi Ông nằm xuống, những người mưu giết Ông
và cộng sản thù ghét Ông đă bêu xấu Ông tàn tệ bằng những điều tiếng bịa
đặt bỉ ổi, bằng những sự thật bị bóp méo để chạy tội, để lấp liếm những ư
đồ xấu xa, những tâm địa phản phúc. Đến nay đă 45 năm qua, người đời vẫn
c̣n nhắc tới Ông. Vẫn c̣n người không ưa, vẫn c̣n người thương tiếc. Vẫn
cỏn lời bôi bác, vẫn c̣n lời bênh vực. Tuy nhiên những sự thật lịch sử
liên quan tới Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đang dần được sáng tỏ nhờ những
phát hiện từ nhiều tài liệu được giải mật từ phía Moscou, Peking, Hà Nội
và Washington, từ lời tuyên bố hoặc bài viết của những người phản tỉnh, và
tiết lộ của nhiều nhân chứng đáng tin. Nhà biên khảo Minh Vơ đă công phu
gom góp rất nhiều những ư kiến trái ngược đó vào một cuốn sách đặc biệt:
“Ngô Đ́nh Diệm, lời khen tiếng chê” nhằm tŕnh bày vàng thau trước công
luận và trả lại công đạo cho một vị Tổng Thống mà đức hạnh ngời ngời không
ai bôi đen được, và mục tiêu chính trị suốt đời chỉ là mưu cầu độc lập
toàn vẹn chủ quyền, tự lập cho đất nước, tiến bộ, tự do và nhân phẩm cho
người dân, an lạc, thịnh vượng cho đời sống.
Đại úy Lê Châu Lộc được Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm chọn để làm một vài công
tác đặc biệt khoảng cuối năm 1958 và sau đó hơn một năm được chọn làm Sĩ
quan Tùy viên. Trong thời gian ở gần Tổng Thống, chắc chắn Anh thường được
nghe và thấy lời nói và sinh hoạt hằng ngày của vị lănh đạo quốc gia nhưng
không thấy Anh viết ra hoặc kể lại. H́nh như Anh không muốn dây dưa vào
cuộc đôi co về người đă khuất mà Anh rất mực kính trọng. Đă nhiều lần tôi
(người viết bài này – LVT) ngỏ ư muốn được Anh kể cho nghe những mẩu
chuyện nhỏ mặt thấy tai nghe đó mà Anh cỏn nhớ được vể Tổng Thống Diệm.
Măi gần đây Anh mới đồng ư, v́ có độ lùi thời gian và thuận lợi cho sự trả
lại chân lư cho lịch sử Việt Nam. Anh cũng muốn bầy tỏ t́nh nghĩa anh em
với vong linh các anh hùng bỏ ḿnh v́ chính nghĩa dân tộc và tập thể những
chiến sĩ quốc gia c̣n ngậm hờn nơi đất khách.
Về cận thần - Ai là những cận thần của Tổng Thống?
Là một sĩ quan tùy viên (SQTV), Lê Châu Lộc làm việc hằng ngày sát cạnh
Tổng Thống, tiếp xúc và sinh hoạt với các vị có tên tuổi sau đây: Bác sĩ
Bùi Kiện Tín, Y sĩ riêng của Tổng Thống, Ông Bí Thư Trần Sử, Ông Chánh Văn
pḥng Đặc biệt Vơ Văn Hải, Ông Đổng Lư Quách Ṭng Đức, Ông Phó Đổng Lư
Đoàn Thêm, Ông Tổng Thư Kư Nguyễn Thành Cung, Ông Phó Tổng Thư kư Nguyễn
Văn Cẩn, Ông Tôn Thất Thiết, Sở Nội dịch Phủ Tổng Thống (PTT). Ông Trương
Bửu Điện làm Giám Đốc Nha Báo Chí, Ông Tôn Thất Thiện, một trong 4 hay 5
người theo Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm về nước, giữ chức vụ Tổng Giám Đốc Việt
Nam Thông Tấn Xă và cũng là thông dịch viên chính thức của Tổng Thống. Sau
đó Ông Trương Bửu Khánh tiếp giữ chức vụ Tổng Giám Đốc Việt Tấn xă. Ông
Hoàng Thúc Đàm làm Giám đốc Nha Nghi Lễ.
Bên phía quân sự th́ có Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống, trước
chính biến 1960 là Trung tá Cao Văn Viên được bổ nhiệm Tư Lệnh Lữ Đoàn
thay thế Nguyễn Chánh Thi, về sau thăng Đại tướng giữ chức vụ Tổng Tham
Mưu Trưởng . Tiếp nối bởi Trung tá Lê Như Hùng, chỉ huy cao cấp của Thủy
Quân Lục Chiên. Sĩ quan lái phi cơ Tổng Thống là Trung tá Phan Văn Sang,
sau này thăng Chuẩn tướng Không quân. Lữ đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Phủ Tổng
Thống do Trung tá Lê Ngọc Triển, sau này thăng Thiếu tướng, với nhiều sĩ
quan xuất sắc khác như Thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ, sau lên Đại tá Tham Mưu
trưởng, Đại úy Nguyễn Văn Của về sau thăng Đại tá Tư lệnh Lữ đoàn IV Thiết
giáp.
Dưới lầu là Văn pḥng Ông Ngô Đ́nh Nhu, Cố vấn Chính trị, phụ tá lỗi lạc
mà bạn hay thù đều nể trọng, có Trung tá Phạm Thư Đường, Đại úy Nguyễn
Ngọc Hạp, về sau thăng Trung tá. Họ đều là những sĩ quan trọng danh dự và
trách nhiệm.
Tổng Thống có trước sau 12 Sĩ quan Tùy viên. Trong số này có 5 người về
sau thăng Tướng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Nên kể các Tướng Huỳnh
Văn Lạc, Hồ Trung Hậu, Đề đốc Diệp Quan Thủy, Hồ Văn Kỳ Thoại, tất cả về
sau đều là Tư lệnh các đại đơn vị tác chiến khắp các vùng Chiến thuật. Một
vị tử trận là Đại tá Trương Hữu Đức, Thiết giáp, thăng hàm Chuẩn tướng. Số
c̣n lại đều lên sĩ quan cao cấp, trong số có Trung tá Nguyễn Cửu Đắc. Chỉ
trừ Đại úy không quân Đỗ Thọ rất tiếc tử nạn phi cơ khi hăy c̣n trẻ và Đại
úy Pháo Binh Lê Châu Lộc, thương nghị sĩ VNCH (69-75).
Tùy nhu cầu công việc và chương tŕnh hành động của Tổng Thống, Sĩ quan
Tùy viên giữ vai tṛ từ nhỏ như lo bút viết giấy tờ, đến việc quan trọng
hơn như mời đón và cập nhật sổ diện kiến từ cấp Bộ trưởng Chánh phủ, Đại
biểu Vùng Chiến Thuật, Tổng Tham Mưu Trưởng và các Tư lệnh, Tỉnh trưởng
đến Giám đốc các Nha sở Trung ương, các nhà Bác học, Giáo sư, Thân hào
nhân sĩ v.v.. Một trong những vai tṛ quan trọng khác thuộc lănh vực nghi
lễ, liên hệ đến việc mời đón, đưa tiễn các khách ngoại quốc (đại sứ, tướng
lănh v.v…) . Hằng năm bàn giao công vụ đôi ba lần cho các vị tướng lănh
được Tổng Thống chỉ định làm Sĩ Quan Tùy viên Tổng Thống trong những dịp
đại lễ, như Quốc Khánh hay công du quốc ngoại. Những ngày như vậy lại cực
hơn v́ phải pḥ tá sát cánh từng phút đàn anh Sĩ quan tùy viên mang sao
này.
Nh́n kỹ quanh ṿng các cộng sự viên tiếp cận trong hay ngoài khuôn viên
Phủ Tổng Thống, ta thấy có đủ thành phần Trung Nam Bắc, hầu hết theo đạo
Ông Bà hay đạo Phật. Thí dụ Tiến sĩ Tôn Thất Thiện (c̣n sống ngoài cửu
tuần) là một Phật tử thuần thành, một rường cột của Đại học Vạn Hạnh sau
này. Ông Đổng lư Quách Ṭng Đức là một trong rất ít Đốc Phủ Sứ từ trào
Pháp thuộc, được nể v́ và kính trọng có phần trội hơn Phó Tổng Thống
Nguyễn Ngọc Thơ về tài đức và liêm sỉ. Thân phụ Ông Đổng lư là người Việt
gốc Hoa, nói tiếng Việt chưa thông, chủ một tiệm bách hóa nhỏ tại chợ Cà
Mau, được Tổng Thống ghé thăm một lần.
Về đời sống hằng ngày.
Tổng Thống có lối sống đơn giản, thanh đạm của một nhà nho Việt Nam.
Giường ngủ đặt ngay trong pḥng làm việc. Phía sau ghế bành và bàn tṛn
dùng làm việc và ăn uống, kê một cái giường rộng lối một mét, sạp nẹp gỗ,
lót chiếu bông để ngủ. Khi nào “thân thể bất an” mới cho trải thêm một
miếng nệm bông g̣n mỏng.
Ngoài giờ làm việc, Tổng Thống mặc áo dài thâm, đi dép. Lúc làm việc mà
không có tiếp khách, Tổng Thống cũng mặc áo dài đen, xem chừng như thoải
mái hơn. B́nh thường mặc âu phục, áo chemise dài tay, thắt cà vạt đậm mầu,
khi có khách th́ khoác áo bành tô vào. Lúc tiếp khách ngoại quốc th́ chải
chuốt hơn với bộ đồ “sat kinh” trắng hay quốc phục áo dài gấm khăn đống
đen. Đi thăm viếng bên ngoài hay kinh lư toàn quốc th́ mặc đồ tây mỏng,
đội nón nỉ và xách gậy, có khi mang giầy ống lội bùn.
Mỗi ngày của Tổng Thống thường khởi sự bằng một Thánh lễ lúc trời chưa
sáng, do các linh mục tuyên úy hay bạn hữu dâng. Chấm dứt một ngày dài mệt
nhọc bằng qú gối cầu nguyện âm thầm bên giường (đôi khi cả giờ, hai cánh
tay dang rộng). Cửa đóng kín, sĩ quan tùy viên hay hầu cận cần ǵ lắm mới
ra vào.
Sau thánh lễ, đọc nhiều sách, tạp chí, duyệt báo (Anh, Pháp và Việt ngữ,
đôi khi Hán văn). Kế dùng lót ḷng, thường là cháo trắng với dưa món, uống
một tô trà nổi bọt. Một đôi lần sĩ quan tùy viên được bảo :”Nè mi ăn coi,
ngon lắm”. (Sĩ quan tùy viên dạ dạ cám ơn, nhưng bụng th́ đ̣i ăn hàng
ngoài Thanh Thế dễ nuốt hơn nhiều).
Sĩ quan tùy viên nhắc thay y phục theo sự cố vấn của Nha Nghi lễ. Tiếp
theo là một chuỗi công việc không ngừng tới một hai giờ trưa: thường khởi
đầu là Bác sĩ Tín thăm hỏi sức khỏe của Tổng thống, kế đến là Ông Bí thư
hay Ông Chánh Văn PḥngĐặc Biệt, các Ông trong Văn Pḥng Đổng Lư, Văn
Pḥng Tổng Thư Kư, Sĩ quan Tham Mưu Biệt bộ, các vị thuộc Nha Nghi lễ, Nha
Báo Chí và Việt Nam Thông Tấn xă. Chấm dứt phần này vào khoảng 9 giờ sáng.
Trong ṿng đầu này, Tổng Thống chỉ thị Sĩ quan Tùy viên mời hay nhắc các
vị trong Hội Đồng Chính phủ, trong Bộ Tổng Tham Mưu, các Tư lệnh Vùng, Sư
Đoàn hay Tỉnh trưởng cần gập. Sĩ quan tùy viên cũng tŕnh Tổng Thống các
vị thẩm quyền Trung Ương hay địa phương muốn diện kiến tŕnh việc và nhắc
Tổng Thống chương tŕnh hội kiến với các Đại sứ, khách ngoại quốc theo như
Nha Nghi lễ đệ tŕnh.
Ít thấy Tổng Thống ăn trưa trước 1 giờ. Có khi ăn trễ vào lúc 3 giờ.
Thường cơm trưa thanh đạm, nhiều khi chỉ đôi ba cái bắp c̣n non, và tô trà
Huế. Hầu cận đóng cửa pḥng lối nửa tiếng đến một giờ, rồi làm việc lại.
Bưổi chiều thường dùng để suy tư, động năo chiều sâu, chiến lược, có khi
một ḿnh. Đôi khi với những cộng sự viên xa gần được mời gọi riệng.
Không có giờ giấc ấn định cho một ngày dài làm việc. Khi có người trong
thân tộc tới thăm nhất là Đức Cha Ngô Đ́nh Thục từ Vĩnh Long lên hay sau
này từ Huế vào, th́ Tổng Thống nghỉ sớm hơn một chút, vui vẻ viếng thăm,
dùng cơm v.v.. Những lúc có các cháu chạy từ phía Ông Bà Cố Vấn sang thăm
, th́ cười vui, trẻ trung hẳn lại. Cơm chiều nhiều món ăn hơn, nhưng những
món ăn quí vẫn là các món ăn Huế quen thuộc mà “ngoài nhà” gởi vào. Không
uống rươu nhưng hút thuốc Melia th́ hơi nhiều.
Buổi tối tiếp tục duyệt hồ sơ một ḿnh, đôi khi cho mời những học giả,
chuyên gia tham khảo về những vấn đề Tổng Thống lưu tâm cách riêng. Lúc
xây cất lại Dinh Độc Lập và các tỉnh quận lỵ mới trên các mật khu địch và
vùng hẻo lánh, Tổng Thống thường cho mời Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, bàn
thảo về kiến trúc và thiết kế đô thị đến quá nửa đêm. Tổng Thống trực tiếp
chỉ đạo việc thiết định phối trí pḥng ốc Dinh Độc Lập với sự cố vấn của
Kiến trúc sư lừng danh thế giới này.
Đến đây phải nhắc đến Ông Ẩn, có thể gọi là “người nội trợ” đă theo pḥ tá
Tổng Thống từ khi làm quan. Rất trung thành, khiêm tốn, hy sinh, kín đáo
giúp Tổng Thống sinh sống hằng ngày. Dưới bếp th́ có “bà bếp già” lo nấu
ăn, trang trải $50 mỗi ngày cho phần ẩm thực của Tổng Thống, Ông Ẩn, Ông
Bằng một sĩ quan hầu cận khác cũng rất trung kiên. Khi cần may mặc, Ông Ẩn
hay Ông Bằng cho mời Ông Chua, chủ tiệm may âu phục ngoài phố vào đo cắt.
Về giải trí
Phần lớn th́ giờ của Tổng Thống là để làm việc. Giải trí rất ít với những
thú tao nhă quen thuộc. Đọc sách xem các tuần san Pháp, Anh, và Việt ngữ,
rất thích tập san chuyên về máy ảnh, h́nh ảnh như Photography. Tổng Thống
rất thích máy ảnh và kỹ thuật chụp ảnh. Ở đây phải nhắc tới Ông Hà Di, một
người Việt gốc Hoa có thể kể là nhiếp ảnh viên chính thức của Phủ Tổng
Thống. Tổng Thống cũng rất thích kiến trúc nên thích nói chuyên với Kiến
trúc sư Ngô Viết Thụ.
Một thú giải trí khác là trồng tỉa hoa hồng. Mỗi lần lên nghỉ ở dinh số 2
Đà Lạt, thường để cả giờ chăm sóc các hàng hoa hồng. Cỡi ngưa đi quanh đồi
núi cũng là một thú vui nữa. Sĩ quan tùy viên cỡi ngựa theo Cụ có Đại tá
Thiết giáp Trương Hữu Đức, sau tử trận tại mặt trận giải tỏa An Lộc truy
thăng Chuẩn tướng và Đại úy Pháo binh Lê Châu Lộc. Đôi chiều nhàn rảnh rỗi
một chút, th́ xuống thăm ngựa dưới chuồng phía cổng Nguyễn Du. Sĩ quan tùy
viên phải nhớ bỏ vội vào túi vải cục đường để khi Tổng Thống ch́a bàn tay
ra phía sau ngoắc ngoắc xin đường cho các con ngựa, th́ trao ngay vào tay
một hai cục đường. Các con ngựa xem chừng biết rơ Tổng Thống, nên thân mật
kê mũi vào sát mặt Tổng Thống thở mạnh, đôi bên xem chừng thích thú lắm.
Khi đi ngang dẫy nhà nhân viên phục dịch công xa và đoàn mô tô hộ tống,
Tổng Thống không quên thăm hỏi bằng những lời thân thương gọi vợ con của
họ là “thím và các cháu”. Các bà vợ trong trại gia binh đều nhắc nhở một
cách thích thú thân t́nh chuyện Tổng Thống gọi các bà là “các thím”. Trung
úy Nhan, tài xế cho tất cả các cuộc xê dịch và lễ lạc rất được ḷng tin
cậy của Tổng Thống, có căn nhà ở luôn tại đây.
Về Kinh lư
Tổng Thống thích thăm viếng đột ngột xă ấp, đồn bót hẻo lánh, trại gia
binh, phường xóm , chợ búa, đền chùa để t́m hiểu t́nh h́nh, gần gũi dân
chúng và binh sĩ. Có lẽ trong cả nước và cả Quân đội không có ai biết
nhiều nơi, nhiều chốn bằng Tổng Thống. Từ núi rừng Cao nguyên xuống các
vùng cận sơn, ven biển Nam Hải ra tận Cù lao Ré hay Côn đảo, vùng mật khu
miền Đông xuống tận vùng mật khu miền Tây, từ Cà Mau, Bến Tre, Hậu Nghĩa,
Phước Long, Phước Thành, Quảng Đức, Bến Giàng, A Sao, A Lưới.. Bạn có biết
Măng Bút ở đâu không?. Tổng Thống đă đáp xuống đó trong một ngày mưa âm u
bằng phi cơ caribou do Trung tá Sang lái. Phi công phải bay lượn ṿng
quanh hơn nửa giờ chờ có một chỗ trống giữa đám mây đen để chui đầu đáp:
thành công nhưng bánh trước máy bay chỉ c̣n cách đầu phi đạo (là hố núi)
lối mười thước, lún sâu xuống bùn. Cũng tại v́ Tổng Thống nhứt định phải
thăm tiền đồn đó cho được. Thiếu tướng Khánh đến trước bằng một phi cơ
L19, may mắn cũng không sao, nhưng bánh lái máy bay gẫy ĺa. Tổng Thống đă
xin lỗi v́ tất cả mọi người trên máy bay đă ói mửa, ngoại trừ phi hành
đoàn, Tổng Thống và Sĩ quan Tùy viên vẫn như thường.
Nhắc lại chuyện đi kinh lư, Đại úy tùy viên Lê Châu Lộc có một lời thú như
sau: Những chuyến xuất hành khỏi Dinh Độc Lập gần như hằng tuần, đa phần
cuối tuần, đă nhiều lần khiến Anh phát bệnh, tự hỏi có thể phục vụ dài lâu
được không. Không lấy làm lạ một số các sĩ quan tùy viên trước đă xin trở
về đơn vị sớm v́ hao ṃn (burnt out). Hai lần, sau năm thứ nhất và sau năm
thứ hai, Anh Lê châu Lộc xin trở về đơn vị, hai lần bị “gội xà pḥng” rất
kỹ. Nhưng vào những năm chót của Tổng Thống càng thấy t́nh h́nh khó khăn
càng thương Ông Cụ, nên chấp nhận tiếp tục gian lao gọi là noi gương chút
ít.
Thật ra không phải tất cả các chuyến kinh lư đều cực như chuyến ăn lễ
Giáng Sinh ở Đầm Dơi, ghế bố xếp căng ra trên nền ngập nước bùn lơm bơm.
Những chuyến về Huế, thăm Cố đô, thăm Bà Cụ Cố, thăm Phú Cam thật thư thả
vui vẻ. Sau khi theo Tổng Thống lên lầu ọp ẹp, vào pḥng ngủ đầy mùi mốc,
để gởi cái cặp, Sĩ quan tùy viên được Cụ khuyến khích đi thăm thú Huế.
Phần Cụ th́ thẳng xuống nhà ngang lợp mái tranh dầy, thăm viếng Mẹ, cơ hồ
như quên hết ḿnh là ai, quên mọi ưu tư phiền muộn, hỏi han như người con
nhỏ.
Vài mẩu chuyện khó quên.
Chuyên người lính qú gối. Trong một chuyến kinh lư miền Trung, khi duyệt
qua hàng rào dân chúng, có hàng lính đứng trước, Tổng Thống đang bước sải
nhanh tay cầm nón vẫy chào dân chúng đang hoan nghênh Tổng Thống, bỗng
dừng lại: một binh sĩ lớn tuổi qùi gối xuống để chào Tổng Thống khi bước
ngang qua. Tổng Thống lùi lại một bước, đỡ anh lính dậy và nói lớn vào tai
anh :”Làm lính không có qùi, chỉ đứng nghiêm chào kiểu lính”. Vỗ nhẹ đầu
Anh lính rồi tiếp tục đi.
Chuyện đi thăm Thầy để cám ơn. Vào đầu năm 1962, sau cuộc bầu cử Tổng
Thống nhiệm kỳ II thành công. Một hôm Tổng Thống dậy sớm chỉ thị Sĩ quan
Tùy viên Lê Châu Lộc đưa Cụ xuống Chùa để cám ơn Quí vị cao tăng tu sĩ
Phật giáo đă ủng hộ Cụ trong kỳ bầu cử vừa qua. Chỉ thị “cuộc đi thăm phải
đơn sơ, thân t́nh và trước giờ thành phố thức dậy đễ tránh kẹt xe tội dân
chúng.” “Ḿnh đi một xe”. “Thưa ai lái”. “Th́ mi lái, khỏi hộ tống rườm rà”.
“Thưa Cụ Không nên, phải có an ninh tối thiểu, theo qui luật điều hành ấn
định”. “Cha sao mà khó vậy-Thôi được đi lo ngay”. ”Thưa Cụ phải cho Quí
Thầy hay để chuản bị, ít ra là nửa giờ trước”. “Ừ nhớ xin các Thầy hăy tự
nhiên, đừng lo ngại, vui hơn”. Đoàn xe ngắn nhất, êm ái nhất: một xe cảnh
sát Đô Thành dẫn đầu không đèn chớp, không c̣i hụ. Trung úy Nhan lái xe
Tổng Thống có Sĩ quan Tùy viên ngồi bên. Và xe cận vệ đoạn hậu. Đến nơi
thấy các Thầy c̣n đang lăng xăng sắp hàng hai bên ngoài vào, Tổng Thống
hơi ái ngại, nhưng rồi dấn bước, vẫy nón chào hai hàng Tăng Ni. Bỗng có
một tăng ni trẻ bước ra :”Kính Chào Tổng Thống”.”À thầy về rồi à”. “Dạ,
mới mấy hôm nay, chưa kịp vào cám ơn Tổng Thống”. “Không sao, tôi biết học
hành xong hết rồi mà,. Khi tiện nhờ Ông Sĩ quan đây đưa vào thăm tôi”. Sau
đó mới biết tu sĩ này là Đại Đức Thích Quảng Liên, được Tổng Thống gởi đi
học ở Michigan State University Hoa Kỳ, thành đạt, sau mở Trung Học Bồ Đề
ở Cầu Ông Lănh.
Sau khi Tổng Thống dùng xong trà với các Thầy và bầy tỏ ḷng cảm ơn đối
với các Thầy và Phật tử, một vị Thượng Tọa bỗng đứng lên thưa lớn ”Kính
thưa Tổng Thống, anh em chúng tôi có một chuyện buồn Tổng Thống”. Sửng sốt,
Tổng Thống nói :”Cám ơn Thầy nói thẳng, xin cho tôi biết chuyện chi”.
“Kính thưa Tổng Thống, anh em chúng tôi vừa được tin bên Colombo cho hay
Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa có gởi tặng Đức Đạt Lại Lạt Ma một số tiền
lớn là 10000 mỹ kim. Sao Tổng Thống không cho anh em chúng tôi biết để
chia vui?”. Hơi bối rối một chút, Tổng Thống ngẩng đầu lên nói :”Dạ, tôi
nghĩ đó chỉ là bổn phận ḿnh phải làm, không nên nói ra. Đức Đạt Lại Lạt
Ma vừa rời Tây Tạng lưu vong, bôn ba cực khổ ở Nepal và miền Bắc Ấn Độ.
Tôi được tin rất thương xót, nên sẵn có số tiền vừa nhận được của Viện
Magsaysay thưởng cho một vị lănh đạo xuất sắc trong năm của miền Á Châu Tụ
Do, tôi vội vă gởi Ngài để chi dùng khi gặp nạn. Bổn phận thôi. Vả chăng
Ngài là đấng lănh đạo tinh thần sáng chói ớ Á Châu, chỉ có sức mạnh hữu
thần chống lại độc tài vô thần, xứng đáng cho ta ngưỡng mộ noi gương và hỗ
trợ”.
Chuyện lá cờ. Hôm đó Tổng Thống đi kinh lư tỉnh Kiến Tường. Khi phi cơ đáp
xuống phi trường th́ đă có đông đảo dân chúng đứng nghênh đón, dọc dài hai
bên khán đài, cạnh phi đạo. Phi cơ taxi chậm vào băi đậu th́ bỗng nhiên
Tổng Thống hỏi Sĩ quan Tùy viên ngồi xéo phía sau “Anh có thấy ǵ không?”.
Thưa dân chúng đông và có cờ”. “Cờ ǵ vậy?”. Th́ ra nh́n lại mới nhận ra
cờ vàng trắng của Vatican, không có mấy cờ Việt Nam. Tổng Thống nện gậy
xuống sàn phi cơ và ra lệnh trở về :”Đây không phải là xứ Vatican, đây là
xứ Việt Nam, vậy cờ Việt Nam đâu?”. Trung tá Sang vội bước xuống cản ngăn.
Sĩ quan tùy viên :”Thưa Cụ có thể đồng bào già trẻ lớn bé đă đợi chờ Cụ từ
hồi 3 giờ khuya, bây giờ Cụ bỏ về th́ họ sẽ buồn biết mấy”. Hạ hỏa tức
khắc, máy bay vào chổ đậu, cửa mở, Thiếu tá Tỉnh trưởng (tên Nhựt?) bước
lên chịu lỗi và xin Cụ cho nửa giờ để thu vén lại. Nửa giờ sau, cờ xí Việt
Nam Cộng Ḥa phất phới bay theo gió lộng Đồng Tháp, Tổng Thống bước xuống
đi dài theo tường dân chúng, hớn hở và vui vẻ. Cả ngày thăm viếng, không
biết mệt, chiều về hầu như quên hẳn chuyện buổi sáng.
Ngày nọ đi qua đường Vơ Tánh Phú Nhuận, Tổng Thống thấy trước một trụ sở
nhỏ có treo một lá cờ quốc gia phai mầu và rách. Bèn ra dấu cho Thiếu tá
Nguyễn Đức Xích tỉnh trưởng theo về dinh Gia Long. Tội nghiệp Thiếu tá
Tỉnh Trưởng bị xát xà bông mấy phút dài, để luôn nhớ giá trị thiêng liêng
của quốc kỳ và bổn phận dậy dân kính trọng.
Lần thứ ba, Tổng Thống đọc tuần san Pháp (nếu không lầm tờ “Le courrier du
Việt Nam” do nhà báo Lefevre chủ biên), lật trang chót có h́nh Phật Đài
lớn đẹp. “Anh có thấy lá cờ quốc gia nào ngoài cờ Phật Giáo không?”. Quả
thật không thấy cờ quốc gia. Tổng Thống có vẻ chua chat “Ḿnh khuyến khích
xây Phật Đài to lớn để thế giới qua lại ngoài khơi nhận thức giá trị tâm
linh của dân tộc Việt Nam, thế mà không thấy một lá cờ quốc gia biểu tượng
Việt Nam, nước này là nước nào đây?”. Rồi lấy một miếng bristol trắng cở
10X15 Tổng Thống viết ngay bằng bút ch́ mỡ đỏ chị thị như sau “….bất câu
tôn giáo nào, khi treo cờ tôn giáo phải treo cờ quốc gia, theo đúng nghị
định Bộ Nội Vụ đă ban hành…………”. “Anh trao cho Ông Đổng Lư để gởi văn thơ
nhắc nhở rộng răi”. Sau đó không lâu xảy ra vụ cờ Phật Giáo Huế, vụ nổ ở
Đài Phát Thanh và đưa đến cuộc phản loạn của một số tướng lănh tham tiền
ngày 1 tháng 11 năm 1963 mà hậu qủa vẫn c̣n dai dẳng đến nay. Anh Lê Châu
Lộc nhớ măi chỉ thị này nhờ cụm từ khá đặc biệt “bất câu là tôn giáo nào”,
cách nói hơi lạ thuở xưa, khác với cách nói của Anh “bất kỳ là tôn giáo
nào”.
***
Trên đây là những mẩu truyện thật về Tổng Thống
Ngô Đ́nh Diệm do Pháo thủ Lê Châu Lộc, Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống kể
theo những ǵ mắt thấy, tai nghe. Người viết ghi lại để những ai quan tâm
t́m hiểu về Tổng Thống Diệm có tài liệu đọc thêm hoặc tùy nghi xử dụng.
Anh Lộc
Cám ơn Anh đă chia sẻ những điều mắt thấy tai nghe lúc Anh là Sĩ quan Tùy
viên của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Đọc những trang giấy này cũng đă giúp
chúng tôi xét lại nhiều vấn đề. Lúc nào Anh cũng giữ đúng tư cách của
người Pháo Thủ đại diện cho binh chủng có gần một trăm ngàn người phục vụ
dưới cờ: binh chủng Pháo Binh.